Phòng trừ ốc bươu vàng hại lúa

Ốc bươu vàng chủ yếu phá hại lúa và hoa màu trồng dưới nước. Ốc ăn phiến lá và lá nõn cả ngày lẫn đêm, nhưng hoạt động mạnh nhất là lúc sáng sớm và chiều tối.

Trứng ốc bươu vàng

Ốc gây hại nặng cho lúa bởi chúng có thể cắn trụi tới tận gốc khiến cây khó có khả năng phục hồi. Để diệt trừ có hiệu quả đối tượng dịch hại này, kỹ sư Nguyễn Văn Hà – Phòng Trồng trọt, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội khuyến cáo bà con nông dân cần thực hiện một số biện pháp kỹ thuật sau:
– Trước khi làm đất cần vệ sinh đồng ruộng, dọn dẹp sạch cỏ dại là nơi ốc cư trú lây truyền sang vụ sau. Dùng tay hoặc dùng lưới cào bắt ốc. Khi gieo sạ nên đánh rãnh thoát nước, ốc tập trung vào rãnh nên dễ dàng bắt ốc bằng tay.

Bẫy ốc bươu vàng bằng cọc và chai nhựa

– Cắm cọc ở các vùng trũng nhử ốc lên đẻ trứng để tiêu diệt. Khi đưa nước vào ruộng cấy hoặc cho nước vào ruộng lúa đang sinh trưởng, phát triển cần phải sửa dụng lưới chắn 3 lớp để ngăn ốc xâm nhập.
– Dùng mồi để dụ ốc tập trung ăn và bắt, mồi có thể dùng các loại thức ăn ốc thích như xơ quả mít, dây lá khoai lang, lá cây dâm bụt, rau diếp, rau xà lách, lá bắp cải…
– Quây ruộng có ốc, cho vịt vào nhốt không cho ăn trong một ngày, vịt sẽ mò bắt hết ốc nhỏ, trứng ốc trong ruộng.
– Khi mật độ ốc bươu vàng trên 2 con/m² thì bà con phải dùng thuốc hóa học để diệt trừ. Sử dụng các loại thuốc ít độc hại với tôm, cá như: Dioto 250EC, Pazol 700WP, Clodan supe 700WP, Mosade 70WP. Phun theo hướng dẫn ghi trên bao bì. Thời điểm phun thuốc tốt nhất là trước khi cấy lúa hoặc sau khi lúa hồi xanh, nên tháo cạn ruộng xâm xấp nước, sau 24 giờ phun thuốc mới cho thêm nước để cấy hoặc dưỡng lúa. Bà con nên phun thuốc vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát là lúc ốc bươu vàng hoạt động mạnh nhất để tăng hiệu quả của thuốc.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng lúa cấy (Phần 1)

1. Chuẩn bị hạt giống

Nhà nông có câu ”Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa”. Yếu tố đầu tiên đảm bảo cho cây lúa khỏe cần phải có hạt giống tốt. Gieo trồng hạt giống tốt là điều kiện cần thiết để cây lúa khỏe, có khả năng chống chịu sâu bệnh và vượt qua được biến động bất lợi của điều kiện môi trường từ đó mới có thể cho năng suất, chất lượng cao.

Lúa giống

Để có hạt giống tốt đối với những hộ nông dân tự làm giống phải tuân thủ quy trình sản xuất và bảo quản giống do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định. Nếu không tự sản xuất được thì phải mua hạt giống tại những cơ sở cung cấp giống tin cậy.
Hạt giống khỏe phải đảm bảo những yêu cầu sau:

  • Hạt giống phải khô, sạch, chắc mẩy, thuần, đúng giống, đồng nhất về kích cỡ, không bị lẫn những hạt giống khác, không bị lẫn hạt cỏ và tạp chất, không có hạt lem, lép và không bị dị dạng
  • Hạt giống không bị côn trùng phá hoại (sâu mọt), không mang mầm bệnh nguy hiểm.
  • Tỉ lệ nảy mầm cao, đạt 85% trở lên.
  • Số lượng hạt giống/đơn vị diện tích: Tùy theo mùa vụ và trọng lượng 1000 hạt của giống để tính lượng hạt giống cần cấy (Trọng lượng 1000 hạt lớn, lượng hạt giống cần nhiều hơn hạt giống có trọng lượng 1000 hạt thấp). Thông thường lượng hạt giống cần thiết:

– Vụ xuân: 2- 2,5 kg hạt giống/ sào Bắc bộ

– Vụ mùa: 1,5- 2 kg hạt giống/ sào Bắc bộ

Lưu ý: Đối với lúa lai chỉ cần 1 kg hạt giống/ sào Bắc bộ

2. Ngâm ủ hạt giống

Thực hiện tốt các khâu kỹ thuật ngâm ủ hạt giống sẽ có tỷ lệ nảy mầm cao, loại bỏ được một số loại bệnh hại và kí sinh trên hạt.

  • Phơi lại hạt giống: Hạt giống cần phơi lại 6- 8 giờ trong nắng nhẹ (không phơi trực tiếp trên sân gạch hay sân xi măng). Phơi lại có tác dụng làm cho hạt hút nước nhanh, xúc tiến hoạt động của hệ thống men, tăng khả năng nảy mầm.
  • Thử tỷ lệ nảy mầm: Chọn hạt tốt, loại bỏ hạt lép lửng bằng nhiều cách: Bằng quạt gió, sàng sảy hoặc trong quá trình ngâm nước cần vớt hết những hạt nổi và giữ lại hạt chìm (hạt tốt).
  • Xử lí hạt giống: Có thể sử dụng một trong các phương pháp sau:

+ Xử lí bằng nước nóng 54°c ( pha tỷ lệ 3 sôi 2 lạnh): Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó đưa vào nước nóng 45- 47°°c trong 5 phút và cuối cùng là nước nóng 54- 55°c trong 10 phút. Phương pháp này đơn giản nhất, có tác dụng trừ nấm bệnh và tuyến trùng trên hạt, tạo cho hạt hút nước nhanh
+ Xử lí bằng nước vôi: Hòa tan 1kg vôi sống vào 100 lít nước, ngâm 1-2 ngày ở vụ mùa, 3-4 ngày ở vụ xuân, đãi sạch rồi ủ thúc mầm.
+ Xử lí bằng hoá chất Formalin: Dung dịch 2% phun vào hạt giống ( 5 lít dung dịch cho 50 kg hạt giống), ủ kín 3 giờ, đãi sạch rồi thúc mầm.

Đối với hạt giống mới thu hoạch muốn gieo ngay cần áp dụng phương pháp xử lý phá ngủ để tăng độ nảy mầm. Dùng a xít nitric 0,2% (lượng dùng 100 ml dung dịch cho 1,2- 1,4 tạ hạt giống) để xử lý phá ngủ hoặc dùng supe lân để thay thế.

  • Ngâm ủ hạt giống
    – Ngâm hạt: Để hạt nảy mầm cần phải ngâm hạt hút đủ độ ẩm cần thiết. Thời gian ngâm tùy thuộc nhiệt độ, 1-2 ngày ở vụ mùa, 2-3 ngày ở vụ đông xuân. Trong quá trình ngâm, hạt hô hấp yếm khí, thiếu ô xy làm nước chua, cần phải thay nước mỗi ngày một lần.

Ngâm ủ hạt giống

– Ủ thúc mầm: Sau khi hạt đã hút đủ nước, đem ủ, để hạt nảy mầm. Trong quá trình ủ, nên định kỳ vảy nước và trộn đảo hạt để hạt nẩy mầm đều.
– Khi hạt đã nhú mầm, nên xen kẽ “ngày ngâm đêm ủ” để phát triển cân đối mầm và rễ. Vụ mùa, hè thu chỉ cần ủ nứt nanh, vụ đông xuân cần có mầm dài hơn.

3. Các phương thức làm mạ

Tùy điều kiện đất đai và thời tiết, có thể làm mạ bằng nhiều phương pháp khác nhau:

  • Mạ dược:
    Là hình thức phổ biến nhất. Ruộng mạ được giữ nước, làm đất kỹ, trang phẳng rồi lên luống, gieo hạt đã nảy mầm, giữ ẩm thời kỳ đầu sau đó mới tưới nước cho đến lúc cấy.
  • Mạ sân (mạ nền):

Những năm rét nhiều ở vụ xuân, mạ dược thường chết gây thiêu mạ, phảI khắc phục bằng làm mạ sân (Thường là vụ xuân muộn).

Xuất phát từ kinh nghiệm làm mạ Dapog của Philippin. Làm đất khô trước khi gieo, lót giấy PE hoặc lá chuối, rải một lớp đất bột mỏng rồi gieo hạt, tưới ẩm. Mạ Dapog gieo dày (2-2,5 Kg/m2), tuổi mạ 10-15 ngày.

Có thể cải tiến phương pháp này bằng cách trước khi gieo mầm, rải một lớp bùn mỏng lên sân hay lên nền đất cứng ở bờ mương, ven đường. Nếu đất xấu có thể trộn thêm phân chuồng mục đã ủ với lân. Gieo hạt đã xử lí, ngâm ủ. Mật độ gieo từ 1,0-1,5kg/m2. Tưới giữ ẩm, che nilon tránh gió lạnh. Khi mạ 2,5-3 lá là nhổ cấy được. Khi lấy mạ bứng cả mảng. Khi cấy tách thành các khóm nhỏ. Mạ sân bén rễ nhanh, không thua kém mạ dược.

  • Mạ khô (mạ đồi, mạ nương):
    Làm đất khô, gieo sâu 2-3 cm (hoặc chọc lỗ bỏ hạt) dùng cào, bừa răng lấp hạt…ở đồng bằng, làm đất nhỏ lên luống, gieo hạt, lấp một lớp đất bột mỏng và tưới ẩm. Loại mạ này, sau cấy bén rễ nhanh, mọc khỏe.
  • Mạ nổi (mạ bè):

Phổ biến ở vùng đất trũng không làm được mạ dược (mạ nước). Lấy rơm cỏ kết thành bè rộng 1-1,2 m, nổi lên 3-5 cm, dùng đất sét, bùn loãng rải lên rồi gieo mầm.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Các biện pháp hạn chế lúa đổ ngã

Các giải pháp cơ bản là làm sao giúp cho bộ rễ lúa phát triển tốt ngay từ đầu, rễ ăn sâu, thân cứng, lá đứng, tán lá gọn, năng suất cao nhưng ít đổ ngã bao gồm các biện pháp kỹ thuật liên hoàn như sau:

Lúa bị đổ ngã gây thiệt hại lớn cho người nông dân

1. Làm đất – chuẩn bị ruộng:

Sau thu hoạch vụ trước cần tiến hành cày ải, phơi đất sau vụ lúa ĐX còn có tác dụng cắt đứt mao quản phèn (tránh xì phèn) giúp cho bộ rễ phát triển thuận lợi ngay từ đầu (chống ngộ độc phèn) rất tốt. Có thể dùng nấm Trichoderma để xử lý rơm rạ (mau ngấu rạ) chống ngộ độc hữu cơ.

Lưu ý: phải cải tạo mặt bằng đồng ruộng tốt (có thể áp dụng việc san phẳng mặt bằng bằng tia laser là một tiến bộ kỹ thuật), ruộng có mặt bằng tốt dễ quản lý nước, bón phân có hiệu quả giúp lúa phát triển đồng đều dễ đạt năng suất cao. Vùng có nước lũ nên tận dụng đưa nước lũ vào ruộng, lấy phù sa, xả bớt phèn là hết sức cần thiết.

Cần củng cố hệ thống kênh mương thủy lợi nội đồng (chủ động nước), gia cố các bờ ruộng (tránh mất nước do rò rỉ) cần phải làm cẩn thận trước khi vào vụ và củng cố thường xuyên. Chủ động nước là giải pháp cơ bản để quản lý nước theo quy trình ở mục 6 dưới đây là rất cần thiết.

2. Chọn giống:

Chọn các giống lúa cứng cây, có bộ rễ phát triển tốt, đẻ nhánh khá, tán lá gọn, giấu bông, ít đổ ngã, có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt (để xuất khẩu, dễ bán). Các tiêu chuẩn khác cần xem xét đó là tính thích nghi rộng, chịu phèn, chịu mặn, kháng một số sâu bệnh chính, có thời gian sinh trưởng phù hợp với hệ thống canh tác của vùng.

Khuyến cáo nên sử dụng giống xác nhận (không lấy lúa thịt để làm giống).

3. Sạ thưa – sạ hàng:

Khuyến cáo sạ thưa, sạ hàng (80-100kg/ha) để lúa phát triển thuận lợi, rễ sẽ ăn sâu hơn. Sạ dày (>150 kg/ha) nhất là vào vụ HT, TĐ thiếu ánh sáng lúa sẽ mọc vống lên cao, giành ánh sáng (lo phát triển chiều cao, rễ kém phát triển) dễ đổ ngã.

4. Xử lý hạt giống:

Xử lý bằng các hoạt chất (như K-Humate, Vipac 88 …) làm tăng sức nảy mầm, độ nảy mầm của hạt giống, tăng sức chống chịu của hạt giống với điều kiện bất lợi của đất đai, thời tiết.

5. Bón phân:

Tăng cường các loại phân bón giúp cho tốt rễ ngay từ đầu như bón phân hữu cơ, phân lân, phân Silica. Trên đất phèn nên bón lót phân lân nung chảy (khoảng 200-400 kg/ha) là biện pháp chủ động hạ độc phèn, cung cấp lân sớm cho bộ rễ phát triển ngay từ đầu có hiệu quả rất tốt.

Chú ý bón phân cân đối, không bón thừa phân đạm vào giai đoạn đòng trở đi (nên bón phân đón đòng theo kỹ thuật không ngày, không số). Lưu ý: Bón phân đợt 2 không chờ cấy dặm, bón đúng ngày 18-22 NSS (đối với lúa 90 ngày) và gia giảm theo tình hình sinh trưởng của lúa: (i) lúa phát triển bình thường bón 1 bao ure + 1 bao DAP (II) lúa phát triển kém bón 60-70 kg ure + 60-70 kg DAP (iii) lúa phát triển tốt bón 30 kg ure + 30 kg DAP.

Có thể bón phân Silica 3 giai đoạn (i) Cây con 7-10 NSS: 25-50 kg/ha (ii) Đẻ nhánh 18-22 NSS: 25-50 kg/ha (iii) Làm đòng 40-45 NSS: 25-50 kg/ha để tăng cường độ cứng của cây, hạn chế đổ ngã.

Khi lúa bị ngộ độc phèn cần xử lý theo 5 bước (i) xả nước, thay nước mới (ii) bón phân lân dưới gốc (lân nung chảy hay super lân 20-30 kg/công) (iii) phun phân bón lá giàu lân (như Hydrophos) hoặc phun Vina Super Humate (K-Humate) có thể phun liên tiếp 2 lần cách nhau 3 ngày/lần (iv) chờ đợi 3-5 ngày sau nhổ lúa lên thấy rễ mới mọc ra thì việc cứu lúa đã thành công (v) tiếp tục chăm sóc, bón phân theo quy trình. Trong thời gian lúa bị ngộ độc phèn tuyệt đối không được bón phân ure lúa sẽ bị ngộ độc và chết nhanh hơn.

Bón phân rước hạt (lúc lúa cong trái me: 72-75 NSS) xử lý theo 2 tình huống sau: (i) nếu 3 lá đòng trên cùng còn xanh, không cần bón phân gốc chỉ phun xịt phân bón lá giàu kali (như Vina Super Humate, K-Humate, HK 7-5-44 …) (ii) nếu 3 lá đòng trên cùng bị vàng à bón 2 kg ure/công hoặc phun phân bón lá + 1 muỗng canh ure/bình 16 lít (xịt chỗ lúa bị vàng) rất có hiệu quả.

Nên sử dụng các loại phân bón lá kích kháng (Vina Super Humate, K-Humate) phun xịt cho lúa theo quy trình 4K (cây con, đẻ nhánh, trước trổ, sau trổ) hoặc 7K (như 4K + thêm giai đoạn 15 NSS, 30 NSS và làm đòng 40-45 NSS) có hiệu quả làm lúa cứng cây, phát triển tốt, hạn chế sâu bệnh, giảm phân bón gốc 20-30%.

Không nên dùng 2,4D, Bonsai để phun cho lúa sạt bẹ giúp lúa cứng cây như nông dân thường làm (nguy hiểm), tốt nhất là không nên bón dư phân. Khi lúa bị dư phân (hoặc lúa chỗ trũng quá tốt) nên cắt nước, phun Silica Potass (chứa Silic và Kali) giúp lúa cứng cây, hạn chế đổ ngã.

6. Quản lý nước:

Nên cắt nước lúc lúa đã đẻ kín hàng (30-32 NSS), giúp rễ lúa ăn sâu, lúa cứng cây, làm đòng thuận lợi. Nến áp dụng biện pháp tưới tiết kiệm (ướt khô xen kẽ) từ giai đoạn lúa làm đòng đến chín sáp.

Nên cắt nước trước lúc thu hoạch (i) 7-10 ngày trong điều kiện bình thường (ii) 10-15 ngày nếu ruộng trũng, lúa quá tốt (iii) 5-7 ngày nếu đất cát, đất giồng nước rút nhanh.

7. Thời vụ:

Vụ ĐX ít đổ ngã hơn vụ HT và TĐ (do lúc lúa trổ – chín ít mưa, gió, bão). Do đó cần quan tâm đầy đủ các giải pháp nêu trên để hạn chế lúa đổ ngã ở vụ mùa mưa (HT, TĐ) nhiều hơn là vụ ĐX.

8. Thu hoạch đúng độ chín:

Nên thu hoạch đúng độ chín (khi lúa đã chín 85-90%) lúa ít đổ ngã và năng suất, chất lượng đạt cao nhất.

Nguồn: Trongtrot.lamnghenong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nguyên nhân lúa bị đổ ngã

Khi lúa bị đổ ngã sẽ gây nhiều thiệt hại cho người nông dân, ngoài việc làm tăng chi phí do thu hoạch khó khăn hơn, lúa bị đổ ngã sớm còn làm giảm năng suất, làm tăng tỷ lệ thất thoát khi thu hoạch và giảm chất lượng nông sản do bị ướt và dính bùn.

Hiện tượng lúa bị đổ ngã có nhiều nguyên nhân, có thể liệt kê một số nguyên nhân chính như sau:

A. Nguyên nhân khách quan

1. Do điều kiện thời tiết bất lợi: Nguyên nhân này rất dễ thấy, nhất là trong vụ Hè thu hoặc Thu Đông, tiết trời thường âm u, mưa nhiều, thiếu ánh sáng nên cây lúa có khuynh hướng tăng trưởng theo chiều cao, khi gặp mưa to và gió lớn, đôi khi cả lốc xoáy, nếu cây lúa đang giai đoạn chín sữa trở đi rất dễ bị đổ ngã do mất cân đối trọng lượng giữa phần gốc và phần ngọn.

2. Do thế đất thấp – trũng: Trên những chân ruộng thấp – trũng, nước ngập sâu liên tục, lúa thường vóng cao, thân mềm yếu, vừa dễ bị đổ ngã, vừa dễ bị các loại sâu bệnh tấn công như: Rầy nâu, sâu cuốn lá, bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn …

B. Nguyên nhân chủ quan:

1. Do bón phân không cân đối: Trường hợp này rất thường gặp trên những chân ruộng nghèo lân, ka-li và can-xi, hoặc đất có hàm lượng mùn cao, nếu bón phân đạm quá nhiều không cân đối với lân và nhất là ka-li, sẽ dẫn đến hiện tượng lúa bị lốp đổ. Chúng ta đều biết đạm là nguyên tố giúp cây trồng phát triển về chiều cao thân lá, làm các tế bào dài ra nhanh, nhưng thành vách tế bào lại non yếu vì chưa tích lũy kịp xenllulo, rất dễ bị đổ ngã khi không có đủ các nguyên tố khác giúp cây trồng cứng chắc và phát triển hài hòa, cân đối với đạm, đó là Lân, Ka-li và Can-xi.

2. Do giống lúa: Đối với những giống lúa yếu cây, chịu phân kém mà chúng ta không có sự điều chỉnh, vẫn bón phân bình thường như những giống lúa khác hoặc sạ quá dầy cũng làm lúa dễ bị đổ ngã.

3. Do bị nhiễm bệnh: Những ruộng bón thừa đạm, sạ dày, hoặc ngập nước liên tục, khi gặp thời tiết ẩm ướt (mưa nhiều hoặc sương mù nhiều) rất dễ bị các loại nấm bệnh tất công như: Đạo ôn, Khô vằn, Vàng lá chín sớm làm khô lá chân, do đó mức độ đổ ngã càng nghiêm trọng hơn.

Nguồn: Trongtrot.lamnghenong được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

 

Kỹ thuật gieo và chăm sóc cây lúa cao sản

Cây lúa là một trong năm loại cây lương thực hàng đầu Thế giới, cùng với ngô, lúa mì, sắn và khoai tây. Lúa là cây lương thực chính nuôi sống con người (40% dân số thế giới coi lúa là lương thực chính). Tổ chức dinh dưỡng quốc tế gọi hạt gạo là “hạt của sự sống”. Lúa có đầy đủ các chất dinh dưỡng như tinh bột, protein, lipid, xenlulozo, … Ngoài việc sử dụng làm lương thực, gạo và các sản phẩm phụ khác còn được sử dụng với rất nhiều mục đích khác nhau.

Cây lúa – Cây lương thực hàng đầu Thế giới

Cây lúa xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên vùng khí hậu nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho cây phát triển. Mỗi giống lúa có một nhu cầu về tổng tích nhiệt nhất định và thường: những giống ngắn ngày nhu cầu tổng tích nhiệt từ 2.500-3.000°C, giống trung ngày từ 3.000-3.500°C và giống dài ngày từ 3.500-4.500°C. Căn cứ vào chỉ tiêu này mà lựa chọn giống theo cơ cấu mùa vụ cho phù hợp (Nếu thời gian mùa vụ ngắn và nền nhiệt độ thấp, nên chọn giống có tổng tích nhiệt thấp. Nếu thời gian mùa vụ dài và nền nhiệt độ cao, nên chọn giống có tổng tích nhiệt cao. Và cũng có thể căn cứ vào tổng tích nhiệt của giống để điều tiết các trà cấy trong vụ).

Dưới đây là một số kinh nghiệm chia sẻ về kỹ thuật gieo và chăm sóc cho lúa

1. Làm đất

Đất lúa cần phải được cày, bừa kỹ và nên tranh thủ làm sớm sau khi thu hoạch. Tùy thuộc địa hình và chân đất mà nên làm ruộng theo kiểu (làm dầm hay làm ải). Ruộng làm dầm phải giữ được nước, ruộng làm ải cần được phơi kỹ, giữa đợt nên cày đảo ải và tiến hành đổ ải trước cấy 5-7 ngày. Làm ải giúp tăng cường quá trình giải phóng dinh dưỡng trong đất, đồng thời hạn chế các độc tố gây hại cây trồng và giúp tiêu diệt tàn dư dịch hại trong đất. Thực tế trong sản xuất cha ông ta đã có câu “Một hòn đất nỏ bằng một giỏ phân”.

Cải tạo đất trồng lúa

Đất lúa phải được cày sâu, bừa kỹ cho thật nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng giúp thuận lợi cho cấy và điều tiết nước. Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ và cỏ dại (lúa cấy mạ non ruộng càng phải được làm kỹ, mặt ruộng phải phẳng hơn và để mức nước nông) giúp lúa cấy xong phát triển thuận lợi.

2. Gieo cấy, trồng lúa

– Tuổi mạ: Tuổi mạ cấy tùy thuộc vào giống, thời vụ và phương pháp làm mạ. Để tính tuổi mạ có thể dùng ngày tuổi hoặc số lá. Ở vụ mùa tính tuổi mạ theo ngày tuổi (15-18 ngày), còn ở vụ đông xuân theo số lá (mạ dược 5-6 lá, mạ sân hoặc mạ trên nền đất cứng 2-3 lá).

Gieo lúa

– Mật độ cấy: Vụ có nhiệt độ thấp cấy dầy hơn vụ có nhiệt độ cao (cấy 1-2 dảnh/khóm); vụ xuân cấy mật độ: 40-45 khóm/m2; vụ mùa cấy mật độ: 35- 40 khóm/m2

– Kỹ thuật cấy: Cấy thẳng hàng, cấy nông 2-3 cm, cấy sâu sẽ làm cho lúa phát sinh 2 tầng rễ, các mắt đẻ ở vị trí thấp sẽ không phân hoá được mầm nhánh, lúa đẻ nhánh kém, số nhánh hữu hiệu giảm. Vụ chiêm xuân nhiệt độ thấp cần phải cấy sâu hơn vụ mùa để hạn chế tỷ lệ chết rét “Chiêm đào sâu chôn chặt, mùa vừa đặt vừa đi”.

3. Bón phân cho lúa

– Cải tạo đất

Độ chua và hàm lượng mùn của đất có tác động nhiều đến các đặc tính lý, hóa và sinh học đất, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình dinh dưỡng khoáng của cây lúa. Nhìn chung đất trồng lúa của chúng ta có phản ứng chua, nghèo mùn (pH từ 4,5-5,5), trong khi pH thích hợp nhất cho cây lúa sinh trưởng, phát triển là 5,5-6,5.

Bón phân cho lúa

Vì vậy, cần thiết phải cải tạo pH đất căn cứ độ chua đồng ruộng hiện nay lượng bón dao động từ 18-27 kg/sào 360m2; 25-37kg/sào 500m2; 500-750kg/ha (pH>5 bón mức tối thiểu; pH<5 bón mức tối đa) và cải thiện hàm lượng mùn cho đất bằng phân chuồng hoai mục hoặc phân hữu cơ từ 3,0-3,5 tạ/sào 360m2; 4,0-5,0 tạ/sào 500m2; 8-10 tấn/ha.

Cách bón: Bón kết hợp phân chuồng trước khi cày bừa lần cuối

– Cung cấp dinh dưỡng cho lúa

Để tạo ra 1 tấn thóc cây lúa hút 24-28 kg N; 7- 9 kg P2O5 ; 28-32 kg K2O; 40-50 kg SiO2 và nhiều nguyên tố trung, vi lượng khác. Cây lúa có hai thời kỳ sinh trưởng quan trọng và mẫn cảm với phân bón mà nếu thiếu hụt sẽ khó có thể được bù đắp (thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ phân hóa đòng). Do vậy, phân bón cho lúa phải đáp ứng đầy đủ và cân đối các yếu tố dinh dưỡng, đồng thời phải cung cấp đúng thời điểm mới có thể cho năng suất tối ưu.

Bón lót: nhằm cung cấp đầy đủ và cân đối nhu cầu dinh dưỡng khoáng cho cây, giúp cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh bước vào thời kỳ đẻ nhánh thuận lợi hơn. Lượng dùng: 18-22kg/sào 360m2; 25-30kg/sào 500m2; 500-600kg/ha.

+ Bón thúc lần 1 (thúc đẻ nhánh): bón thúc đẻ nhánh (bón sau cấy 7-10 ngày), kết hợp làm cỏ sục bùn giúp cây lúa đẻ nhánh khỏe, đẻ tập trung, đạt tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao. Lượng dùng: 10-15kg/sào 360m2; 15-20kg/sào 500m2; 300-400kg/ha.

+ Bón thúc lần 2 (thúc phân hóa đòng): bón vào giai đoạn lúa đứng cái (30-35 ngày sau cấy) giúp tăng số hạt và chiều dài bông lúa. Lượng dùng: 7-10kg/sào 360m2; 10-15kg/sào 500m2; 200-300kg/ha.

4. Quản lý nước

Vụ xuân nên lấy nước làm áo, sau cấy luôn giữ một lớp nước nông trên mặt ruộng, vừa giữ ấm cho cây lúa giúp cây nhanh bén rễ hồi xanh đồng thời thuận lợi cho việc sử dụng thuốc trừ cỏ và ốc bươu vàng.

Khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh thực hiện phương châm quản lý nước theo công thức: Nông – Lộ – Phơi. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình  hô hấp của cây, giúp lúa đẻ nhánh sớm, đẻ khỏe, đẻ tập trung (không để ruộng khô nhằm hạn chế cỏ mọc nhiều). Khi lúa đẻ nhánh kín đất tháo cạn nước để lộ chân chim giúp rễ lúa ăn sâu, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng và chống đổ cho cây về sau.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kiên trì làm lúa chuẩn Global G.A.P

HTX Mỹ Thành (ấp 5, Mỹ Thành Nam, huyện Cai Lậy, Tiền Giang) vừa tiếp tục được tái cấp chứng nhận Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (Global G.A.P) năm 2017 cho vùng nguyên liệu gần 100ha lúa.

Ông Nguyễn Khắc Lân, Phó tổng giám đốc IQC trao giấy chứng nhận Global G.A.P cho Cty ADC và HTX Mỹ Thành Nam giấy chứng nhận Global G.A.P

Mỹ Thành Nam đươc đánh giá là HTX kiểu mẫu với sự hợp tác của bốn nhà (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà kinh doanh (doanh nghiệp) đồng thời được tổ chức quốc tế chứng nhận thực hành sản xuất nông nghiệp tốt.

Tất cả các thành viên của HTX đều tham gia trồng lúa và đạt chuẩn Global G.A.P và đều yên tâm về đầu ra vì đã có phía doanh nghiệp, cụ thể là Cty TNHH ADC thu mua với mức gia cao hơn lúa thị trường.

Toàn bộ lúa thu hoạch từ vùng nguyên liệu chuẩn Global G.A.P Mỹ Thành Nam không còn tồn dư thuốc BVTV, truy xuất được nguồn gốc, an toàn cho sức khỏe người dùng; đủ điều kiện xuất khẩu đi các nước tiên tiến như Mỹ, châu Âu.

Trước đó, xã Mỹ Thành Nam và Cty TNHH ADC đã là đơn vị đầu tiên trong cả nước được cấp chứng nhận Global G.A.P tại vùng nguyên liệu lúa của mình vào ngày 12/2/2009.

Ruộng sản xuất theo Global G.A.P quản lý dịch hại tốt hơn, lúa phát triển tốt, khỏe hơn rõ rệt; chi phí sản xuất giảm hơn nhiều so với ruộng thông thường; năng suất và chất lượng lúa tăng nên bán được giá cao hơn so với lúa thông thường. Nông dân trồng lúa Global G.A.P có lợi nhuận tăng lên ước khoảng 20%/năm.

Mặc dù việc làm lúa theo chuẩn Global G.A.P và duy trì việc tái cấp chứng nhận Global G.A.P đòi hỏi rất nhiều công sức và chi phí nhưng với sự đồng hành phối hợp của Cty TNHH ADC, nông dân Mỹ Thành Nam đã kiên trì thực hiện cho đến nay.

Ông Lê Văn Hưng, Giám đốc HTX Mỹ Thành Nam cho biết: “Chúng tôi đã duy trì làm lúa chuẩn Global G.A.P cùng Cty TNHH ADC từ năm 2009 đến nay vì có nhiều lợi ích: Nông dân được ADC cung cấp giống chuẩn, đầu tư phân thuốc, vật tư nông nghiệp; hỗ trợ kỹ thuật canh tác theo chuẩn Global G.A.P; đồng thời doanh nghiệp cũng bao tiêu toàn bộ lúa với giá cao hơn thị trường. Làm lúa theo mô hình này, lợi nhuận của nông dân cao hơn hẳn so với làm lúa thông thường.”

Ông Huỳnh Phương Nam, xã viên HTX Mỹ Thành Nam chia sẻ thêm: “Tham gia mô hình trồng lúa theo tiêu chuẩn Global G.A.P, tôi thấy chi phí đầu tư cho sản xuất như phân thuốc, vật tư nông nghiệp giảm hẳn; hạn chế sâu bệnh; năng suất lúa tăng lên cả trong những vụ nghịch mùa; chất lượng hạt lúa tốt hơn và lợi nhuận được nhiều hơn hẳn”.

Ông Nguyễn Văn Chớ, Bí thư Đảng ủy xã Mỹ Thành Nam khẳng định, thời gian qua mô hình trồng lúa theo chuẩn Global G.A.P đã đem lại lợi ích cho xã viên rất nhiều. Họ được cung ứng giống chất lượng cao; giảm chi phí sản xuất, giảm phân thuốc trong quá trình canh tác; chất lượng, sản lượng cao hơn và còn được bao tiêu lúa với giá cao hơn; so với lúa thường. Tôi đánh giá cao sự phối hợp, đầu tư, hỗ trợ dành cho nông dân của ADC. Sắp tới, Đảng ủy xã sẽ có chỉ đạo cụ thể cho ủy ban, các ban ngành đoàn thể tuyên truyền, vận động xã viên tham gia mô hình này nhiều hơn nữa; để tăng lượng xã viên và diện tích trồng lúa Global G.A.P trên toàn xã.

Nông dân xã Mỹ Thành Nam thu hoạch lúa chuẩn Global G.A.P

Đặc biệt, ngoài giống lúa chất lượng cao OM5451, vùng nguyên liệu Mỹ Thành Nam là nơi duy nhất sản xuất ra loại lúa dược liệu có tên lúa Cẩm Cai Lậy nổi tiếng từ ngày xưa và được nhiều người biết đến. Đến nay, Cty ADC là đơn vị đầu tiên và duy nhất sản xuất loại lúa này trong vùng nguyên liệu Global G.A.P Mỹ Thành Nam và chế biến thành gạo với tên thương mại là “Gạo đen Trường Thọ”.

Các nhà nghiên cứu về lúa gạo, thực phẩm gọi đây là loại gạo dược liệu bởi trong đó chứa đa dạng thành phần dinh dưỡng, đồng thời còn chứa rất nhiều acid amin quý hiếm; giúp phòng ngừa và giảm tác hại của nhiều căn bệnh thời đại như ung thư, tiểu đường, tim mạch… Hàm lượng chất chống ôxy hóa trong gạo đen Trường Thọ còn cao hơn nhiều hơn so với trái Việt quất.

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phòng trừ chuột hại lúa xuân

Chuột có tính đa nghi cao, thần kinh khứu giác và vị giác rất phát triển, tập tính hoạt động chủ yếu vào ban đêm nên rất khó diệt trừ. Chuột có vòng đời từ 370 – 420 ngày. Rất mắn đẻ. 1 con chuột cái trung bình đẻ 3 – 4 lứa/năm, mỗi lứa đẻ được 5 – 10 con.

Chuột con sau 2 – 3 tháng tuổi đã có thể sinh sản, đẻ quanh năm, sinh sản mạnh nhất từ tháng 3 – 10. Chuột có đặc điểm sống theo bầy đàn, chúng thường di chuyển theo lối mòn, có khả năng di chuyển xa để tìm thức ăn, bán kính hoạt động gây hại lớn trên diện tích rộng. Chuột thường đào hang làm tổ trên các bờ mương, bờ ruộng, gò đống, nghĩa địa; đặc biệt ở nơi có nhiều bụi cây. Chúng gặm nhấm liên tục để mài mòn răng nên tác hại gây ra là rất lớn.

Chuột chủ yếu hoạt động và phá hại vào ban đêm. Trên ruộng, chuột hại vào bất cứ giai đoạn nào của cây lúa, nặng nhất vào giai đoạn trổ, lúc này chúng ăn đòng non (có vị ngọt) hay cắn ngang hạt lúa. Trong nhiều trường hợp, chuột cắn phá nhiều hơn là ăn. Ở giai đoạn hình thành đòng, chuột cắn thủng bẹ để ăn đòng. Khi lúa sắp chín, chuột vít dãnh lúa để ăn hạt, dãnh bị hại thường bị cắn đứt, chỉ còn một phần nhỏ dính vào thân. Vết cắn của chuột ở ngay dưới gốc lúa nên dễ phân biệt thiệt hại do chuột hay do sâu đục thân gây ra (cả hai đối tượng này đều gây bông bạc cho lúa khi trỗ). Nếu bị hại sớm, lúa có thể phục hồi tạo ra những dãnh mới, nhưng khi chín sẽ không đều. Nếu bị hại muộn, lúa không phục hồi được, không cho năng suất. Ngoài việc cắn phá lúa, chuột còn đào hang trên đê, bờ ruộng, bờ đập… làm cho nước trong ruộng bị thất thoát.

Công tác phòng trừ mang lại hiệu quả cao nhất bởi vì trên đồng ruộng sau khi thu hoạch vụ mùa và vụ đông, nguồn thức ăn khan hiếm khiến chuột đói, mặt khác khi lấy nước vào đồng các hang lỗ bị ngập nước, mất nơi cư trú, làm chúng chạy nên bờ.

Điều cần quan tâm trước tiên khi đề cập đến công tác diệt chuột là cần tiến hành sớm ngay từ đầu vụ, cần làm đồng loạt, liên tục và đều khắp. Phải ý thức công tác phòng trừ chuột phục vụ lợi ích cho toàn xã hội, do đó cần nhấn mạnh sự tham gia của toàn cộng đồng, bao gồm chính quyền và mọi công dân. Vì vậy để phát hiện sớm cần thăm đồng thường xuyên, lội vào giữa ruộng và phát hiện dãnh bị chuột phá. Trong một số trường hợp, chuột phá hại trên diện rộng, có thể gây mất trắng trên cả 1 vụ lúa.

– Vệ sinh đồng ruộng: cần hạn chế nơi cư trú của chuột bằng cách phát quang bờ bụi, làm sạch cỏ ven bờ ruộng, bờ mương, không để hoang hóa, tìm và phá các ổ chuột ở bờ ruộng ngay từ đầu vụ. Sau thu hoạch có thể dọn sạch rơm rạ, đốt đòng để hạn chế nơi cư trú của chuột.

– Thời vụ: Cần xác định thời vụ cho phù hợp với địa phương, nên gieo trồng và thu hoạch đồng loạt.

– Cơ cấu cây trồng: không nên trồng quá nhiều loại cây trồng trên đồng ruộng như khoai mì, bắp, đậu, mía… hay trồng giống lúa quá ngắn ngày, tạo điều kiện cho nguồn thức ăn liên tục và nơi cư trú an toàn cho chuột.

– Bảo vệ thiên địch của chuột bao gồm: rắn, trăn, mèo, chó, chim cắt, cú mèo, diều hâu.

– Dùng bẫy cây trồng để bắt chuột từ đầu vụ.

– Nếu có thể, giữ mức nước cao trong ruộng vào giai đoạn đòng-trổ, để hạn chế chuột làm tổ ven bờ, lợi dụng nước lớn, gom chuột lên chỗ cao, rồi tổ chức săn bắt.

– Săn bắt chuột bằng nhiều biện pháp như đào hang, đổ nước, bẫy, xông khói, chó săn chuột. Cần lưu ý tuyệt đối không dùng điện để bắt chuột vì rất nguy hiểm đến sinh mạng con người.

– Do chuột có tính đa nghi, nên khi đánh bã chuột cần làm cẩn thận, nếu không sẽ gây ra hiện tượng nhát bã, dùng lúa mộng và sáp trộn thức ăn gia súc làm mồi sẽ hấp dẫn chuột nhiều nhất. Hiện nay, sử dụng thuốc Rakumin để diệt chuột có hiệu quả cao nhất.

– Nhiều nông dân có những kinh nghiệm trừ chuột rất hiệu quả như trộn hạt bã đậu vào thức ăn chuột, rải dầu nhớt có trộn thuốc trên đường đi của chuột (do chuột có tập tính liếm lông), rào nylon quanh ruộng, đào hố, rồi dùng âm thanh đuổi bắt chuột…

Các địa phương nên căn cứ vào lịch lấy nước đổ ải để có kế hoạch phòng trừ cụ thể, kết hợp việc phát quang bờ, bụi rậm, gò đống làm mất nơi cư trú của chuột, thông báo rộng rãi cho nhân dân biết thời gian và địa điểm để chủ động nhốt gia súc, gia cầm. Không đặt bả gần nguồn nước, các bãi chăn thả gia súc, gia cầm.

Chỉ nên dùng các loại có độc tính thấp thuộc nhóm chống đông máu được phép sử dụng tại Việt Nam như Rat K, Storm, Rambat2 % D…

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cách phòng trị bệnh đạo ôn hại lúa

Bệnh đạo ôn là bệnh quan trọng gây hại ở hầu hết các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa từ giai đoạn mạ – đẻ nhánh – trổ – chín và trên các bộ phận của cây như lá, cổ lá, đốt thân, cổ bông, hạt . Tuỳ theo bộ phân bị hại mà người ta gọi là bệnh đạo ôn lá (cháy lá), đạo ôn cổ lá hay đạo ôn cổ bông…

Bệnh đạo ôn có thể xảy ra quanh năm và thường gây hại nặng vào vụ Đông Xuân, những diện tích bị bệnh nặng có thể làm thất thu năng suất.

1. Triệu chứng:

– Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu giai đoạn mạ – đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ là những chấm nhỏ, màu xanh xám, sau lớn lên có dạng hình thoi (mắt én) đặc trưng, viền nâu, tâm màu xám trắng. Trên các giống nhiễm đốm bệnh rất to, ngược lại giống kháng thì vết bệnh chỉ cở bằng đầu kim. Bệnh nặng, các vết bệnh liên kết lại làm lá bị cháy khô.

– Trên cổ lá, thân và cổ bông: triệu chứng ban đầu cũng có màu xám xanh sau chuyển sang nâu, do nấm tấn công vào mạch dẫn gây cản trở việc vận chuyển các chất dinh dưởng nuôi lá, thân và hạt làm cho lá, thân dễ gãy, hạt bị lép , lửng.

– Trên hạt : bệnh xảy ra vào giai đoạn trổ, vết bệnh trên hạt cũng có dạng mắt én, viền nâu, tâm xám trắng. Nếu bệnh tấn công sớm sẽ làm hạt bị lép, lửng.

2. Tác nhân gây hại:

Do nấm Pyricularia oryzae hay P. grisea gây ra. Bào tử nấm rất nhỏ, có thể bay cao và bay xa nên bệnh rất dễ lây lan nhanh trên diện rộng. Nhiệm vụ của bào tử này là hút các chất dinh dưỡng có trong cây lúa và ngoài ra còn tiết ra độc tố Pyricularin gây độc cho cây . Bào tử nấm Pyricularia oryzae hay P. grisea phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ mát từ 24 – 28 độ C, ẩm độ cao trên 80%, Trường hợp trong điều kiện khí hậu mát mẻ, sáng nắng, chiều mưa xen kẻ, trời có nhiều sương mù rất thích hơp cho bệnh xảy ra. Nấm bệnh thường lưu tồn trên ruộng, trong các gốc lúa và trong các loại cỏ dại mọc ven ruộng như cỏ lồng vực, cỏ đuôi phụng, cỏ chỉ, lúa chét…

3. Các yếu tố làm bệnh tồn tại và phát triển:

– Thời tiết : ẩm độ không khí cao, mưa nắng xen kẻ, sáng sớm và chiều tối có sương mù rất thuận lợi cho bệnh phát sinh gây hại.

– Nước : Tình trạng khô hạn gây thiếu nước trên ruộng khiến cây sinh trưởng kém, mất khả năng chống chọi nên bệnh xảy ra nặng.

– Giống : sử dụng giống dễ nhiễm bệnh đạo ôn

– Mật độ gieo sạ : gieo sạ càng dầy, tán lúa càng rậm, ẩm độ trên ruộng càng cao, bệnh càng dễ xảy ra.

– Bón phân : Bón không cân đối giữa N-P-K, bón thừa đạm, bón đạm muộn, phun phân bón lá có đạm nhất là giai đoạn đòng trổ … tạo điều kiện cho bệnh phát triển nặng hơn.

– Nguồn bệnh : nấm bệnh lưu tồn trong rơm rạ, cỏ dại, hạt giống… là nguồn bệnh lây lan qua vụ sau.

4. Các giai đoạn cần lưu ý bệnh đạo ôn :

– Giai đoạn mạ: thường phát sinh trên các giống nhiễm, làm cây suy yếu ảnh hưởng năng suất về sau.

– Giai đoạn cuối đẻ nhánh đến làm đòng.

– Giai đoạn trước và sau trổ.

Để hạn chế bệnh phát sinh phát triển gây hại , bà con thường xuyên thăm dồng, nhất là vào các giai đoạn cần lưu ý (quan sát kỹ từng bụi lúa, đặc biệt những nơi lúa tốt, rậm rạp nằm giữa ruộng hoặc gần bờ bao, cống bộng dẫn nước) để phòng trị kịp thời.

5. Phòng trị :

Áp dụng các biện pháp tổng hợp để phòng trị bệnh như :

– Sử dụng giống kháng bệnh hay kháng vừa. Có thể kết hợp để chọn giống có tính kháng bệnh đạo ôn và tính kháng rầy phù hợp với điều kiện địa phương, cho năng suất cao và phẩm chất tốt.

– Chọn hạt giống sạch bệnh, sạch cỏ và xử lý giống trước khi gieo sạ.

– Gieo sạ với mật số vừa phải , không gieo sạ dày . Lượng giống gieo sạ trung bình khoảng 80 – 120 kg/ha (tuỳ địa phương)

– Bón phân cân đối N-P-K. Lượng đạm bón vừa đủ từ 80 – 100 kg /ha (lưu ý nên bón đạm theo nhu cầu chứ không bón quá nhiều hay bón muộn,.,có thể dùng bảng so màu lá lúa để bón) Khi bệnh xảy ra ngưng bón đạm hay phun phân bón lá có đạm.

– Sau thu hoạch nên cày vùi rơm rạ để trả lại chất hữu cơ cho đất.

– Vệ sinh đồng ruộng, diệt lúa rày, lúa chét, làm sạch cỏ bờ… hạn chế mầm bệnh lưu tồn và lây lan sau này.

– Giữ mức nước trên ruộng phù hợp với từng nhu cầu sinh trường của lúa, tránh để ruộng khô khi bệnh xảy ra.
– Sử dụng thuốc hoá học đặc trị bệnh đạo ôn : Trizole 75WDG, 20WP, Lúa vàng 20WP, KiSaigon 10H, 50ND, Py Saigon 50WP.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cách phòng trị bệnh khô vằn hại lúa

Là loại bệnh hại toàn thân, bệnh gây hại bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Các bẹ lá sát mặt nước hoặc bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh đầu tiên.

1. Triệu chứng:

Vết bệnh khô vằn trên toàn bộ cây lúa

Vết bệnh khô vằn trên bẹ lá đòng

– Trên bẹ lá xuất hiện các vết đốm hình bầu dục màu lục tối hoặc xám nhạt, sau lan rộng ra thành dạng vết vằn da hổ dạng đám mây. Khi bị nặng, cả bẹ lá và lá phía trên bị chết lụi.
– Vết bệnh lá tương tự như ở bẹ lá, thường vết bệnh lan rộng rất nhanh chiếm hết bề rộng ở phiến lá tạo ra từng mảng vân mây hoặc vằn da hổ. Các lá già ở dưới hoặc lá sát mặt nước là nơi phát sinh trước sau đó lan lên các lá phía trên.
– Vết bệnh ở cổ bông thường là vết kéo dài bao quanh cổ bông, hai đầu vết bệnh có màu xám loang ra, phần giữa vết bệnh màu lục sẫm co tóp lại.
– Trên vết bệnh ở các vị trí gây hại đều xuất hiện hạch nấm màu nâu, hình tròn dẹt hoặc hình bầu dục nằm rải rác hoặc thành từng đám nhỏ trên vết bệnh. Hạch nấm rất dễ dàng rơi ra khỏi vết bệnh và nổi trên mặt nước ruộng.

2. Tác nhân:

– Bệnh đốm vằn do nấm Rhizoctonia solani sống trong đất gây ra. Ngoài lúa, nấm còn gây hại trên rau cải, ngô, bầu bí, dưa, cà rốt, ớt… mầm bệnh lây lan qua nước tưới, đất mang mầm bệnh và tàn dư thực vật của cây trồng bị bệnh vụ trước.

Sợi nấm và hạch nấm Rhizoctonia solani Kuhn

3. Đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh:

– Điều kiện thời tiết : Bệnh phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ cao. Bệnh thường phát sinh trước tiên ở các bẹ lá và lá già sát mặt nước hoặc ở dưới gốc. Tốc độ lây lan lên các lá phía trên phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết mưa nhiều, lượng nước trên ruộng quá cao, đặc biệt ở vùng cấy dày. Giai đoạn đòng trỗ đến chín sáp là thời kỳ nhiễm bệnh nặng nhất.
– Ảnh hưởng của phân bón : Bón thừa đạm, bón đạm muộn, bón không cân đối N-P-K cùng với cấy mật độ cao tạo điều kiện cho bệnh phát triển mạnh.
– Nấm tồn tại dưới dạng hạch, sợi nấm trong đất, tàn dư cây trồng, rơm rạ, cỏ, lúa chét. Hạch nấm có thể sống một thời gian dài sau khi thu hoạch lúa, thậm chí trong điều kiện ngập nước vẫn có tới 30% số hạch giữ được sức sống, nảy mầm thành sợi.

4. Biện pháp phòng trừ :

– Làm vệ sinh đồng ruộng, thu gom sạch tàn dư cây bệnh từ vụ trước. Cày bừa, xới đất kỹ để chôn vùi hạch nấm, hạn chế sức sống của chúng ;
– Không dùng hạt giống ở những ruộng bị nhiễm bệnh. Cấy lúa dày vừa phải, bón cân đối NPK, phân chuồng trước khi bón phải được ủ hoai mục ;
– Kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phun trừ những diện tích lúa bị nhiễm bệnh khô vằn (có tỷ lệ từ 20% số dảnh bị bệnh), đặc biệt những ruộng lúa đang làm đòng, những ruộng lúa xanh tốt. Các loại thuốc hóa học có thể sử dụng để phun trừ bệnh như: Camilo 150SC, Chevil 5SC, Tilt 250ND, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Callihex 5SC, Hecwin 5SC, A.v.tvil 5SC, Til calisuper 300EC …

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Các bệnh thường gặp ở lúa và cách phòng trị

1. Bệnh lùn xoắn lá

Bệnh lùn xoắn lá đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam năm 1977 ở Cai Lậy Tiền Giang. Đến vụ Hè thu năm 1978 bệnh đã phát triển gây hại trên hầu khắp các tỉnh phía Nam. Bệnh lùn xoắn lá làm giảm năng suất nghiêm trọng do chiều cao cây, chiều dài lá và rễ bị giảm nhiều. Bông lúa trổ không thoát và tỷ lệ lép cao.

Bệnh lùn xoắn lá ở lúa

Triệu chứng

– Cây lúa bị bệnh lùn lá còn xanh và bị xoắn, cây sinh trưởng chậm. Trên ruộng lúa phát triển không đều, mép lá có thể bị rách hình răng cưa gân lá có màu vàng lợt, trắng, hoặc nâu đậm.
– Cây lúa trổ muộn và trổ không thoát, có trường hợp bong lúa bị quăn và đâm xuyên qua bẹ lá. Ở cây lúa bệnh thường có mọc nhiều chồi trên đốt thân. Bông lúa ngắn và tỷ lệ lép cao. Các nhánh con đều là nhánh vô hiệu.

Tác nhân gây bệnh

– Bệnh lùn xoắn lá do virus gây ra, rầy nâu là môi giới truyền và lây lan virus vào cây lúa do chích hút.
– Virus có dạng hình khối cầu, thường tập trung ở những phần non trên cây vì vậy các dảnh cấp 2 và 3 bị nặng hơn dảnh cấp.
– Bệnh không lây qua hạt cũng như các biện pháp cơ giới.
– Rầy nâu ở tuổi 4 – 5 truyền bệnh mạnh nhất, sau khi đã chích hút ở cây lúa bệnh 2 – 5 ngày, chỉ sau 5 phút chích hút là rầy nâu có thể truyền được bệnh sang cây lúa khỏe.
– Khi bị truyền virus 5 – 32 ngày sau cây lúa có biểu hiện bệnh. Sau khi virus có trong cơ thể rầy nâu sẽ tồn tại trong con rầy cho tới cuối đời của con rầy.
– Virus lùn xoắn lá còn gây hại và tồn tại trên cỏ lồng vực và cỏ đuôi phụng. Bệnh gây hại quanh năm khi có cây lúa, tuy nhiên thời gian có nhiệt độ từ 25 – 26°C là thích hợp nhất cho bệnh phát triển.
– Trên ruộng lúa bón nhiều đạm bị bệnh nặng hơn. Phân đạm là nhân tố ảnh hưởng cả đến bệnh và côn trùng truyền bệnh. Nhìn chung khi bón bất kỳ loại phân nào cũng đều làm tăng mức độ bệnh.

Biện pháp phòng trừ

Không có thuốc hóa học đặc trị bệnh lùn xoắn lá cho nên phải tuân theo hướng dẫn sau:
– Sử dụng các giống lúa kháng rầy nâu.
– Khi bệnh mới xuất hiện cần nhổ bỏ để tránh lây lan.
– Vệ sinh đồng ruộng, cày ải diệt lúa chét vì là nguồn bệnh cho vụ sau.
– Thời vụ sạ đồng loạt cây lúa sinh trưởng đồng đều hạn chế sự di chuyển của côn trùng môi giới.
– Bố trí sản xuất luân canh hai lúa một màu.
– Phân bón cân đối hợp lý.
– Dùng các biện pháp hoá học phòng trị rầy nâu như applaud, Bassa, Mipcin. Áp dụng tiêu chuẩn 4 đúng trong bảo vệ thực vật.

2. Bệnh đốm vằn

Bệnh đốm vằn trên lúa hay còn gọi là bệnh ung thư, được phát hiện và mô tả đầu tiên vào 1910 ở Nhật Bản, sau đó bệnh này cũng được ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới. Bệnh đốm vằn là một trong những bệnh gây hại quan trọng trên ruộng lúa nước ở nước ta và các nước trồng lúa trên thế giới.

Bệnh đốm vằn ở lúa

Nguồn: Internet

Triệu chứng

– Bệnh thường xuất hiện từ 40 ngày sau khi sạ tới khi lúa trổ. Đầu tiên là những vết bệnh xuất hiện trên bẹ lá ở gần gốc lúa, đôi khi lây trực tiếp qua lá từ những cây bị bệnh xung quanh.
– Các vết bệnh lúc đầu có hình hơi tròn hoặc bầu dục có màu xanh xám, tâm có mày trắng xám và xung quanh màu nâu; kích thước vết bệnh thay đổi thường dài từ 1-3 cm. Khi gặp điều kiện thuận lợi các vết bệnh phát triển và liên kết lại hình thành nên những vết bệnh vằn vện không có hình dạng nhất định nên gọi là bệnh đốm vằn.
– Ở trên ruộng lúa, bệnh thường xuất hiện gần mặt nước ruộng, sau đó bệnh phát triển lên các bẹ và lá phía trên hay lây sang những cây xung quanh. Có nhiều hạch nấm được hình thành ngay gần vết bệnh. Đầu tiên hạch nấm có màu trắng khi già chuyển sang màu nâu. Hạch nấm già sẽ  rơi xuống đất và trôi nổi trên mặt nước, đây là nguồn lây lan bệnh từ nơi này sang nơi khác hoặc từ vụ này sang vụ tiếp theo.

Tác nhân gây bệnh

– Bệnh đốm vằn do nấm Rhizoctonia solani Kuhn gây ra, là bệnh hại quan trọng đối với lúa cao sản ngắn ngày. Bệnh có thể gây hại ở tất cả các vụ trong năm, thường gây hại nặng ở vụ Đông Xuân. Bệnh nhẹ thì làm tăng tỷ lệ lem lép hạt, gây đổ ngã, làm giảm năng suất. Bệnh nặng sẽ làm cây lúa chết và có thể gây thất thu năng suất lên đến 25%.
– Nấm R. solani còn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như: gây bệnh chết cây con đối với đậu nành, đậu xanh, cà chua; gây bệnh đốm vằn, chết cây con trên cây bắp, … Vì vậy các loại hoa màu trồng luân canh trên đất lúa thường dễ bị nhiễm bệnh do nấm R. solani gây ra.
– Nấm R. solani có thể sống, phát triển hầu hết trên tất cả các loại cỏ dại, hạch nấm rơi xuống đất có thể tồn tại rất lâu và có khả năng gây bệnh trở lại sau một thời gian dài trong điều kiện tự nhiên. Do đó bệnh thường xuyên xuất hiện trên ruộng lúa.

Biện pháp phòng trừ

– Làm cỏ xung quanh ruộng, trong ruộng và kênh mương dẫn nước.
– Gieo sạ với mật độ thích hợp (150-200 kg/ha sạ bằng tay, 80-100 kg/ha sạ bằng máy sạ hàng).
– Sử dụng phân bón thích hợp (dùng bảng so màu là lúa, bón phân cân đối theo quy trình bón phân).
– Sử dụng thuốc hóa học: Validamycin 3DD, 5 DD (SL); Bonanza 100 DD (SL); Monceren 25BTN(WP), 250DD(SL); Anvil 5DD(SL).

3. Bệnh đạo ôn

Là một bệnh nguy hiểm đối với cây lúa. Hiện nay hầu hết các giống lúa đang được trồng phổ biến trong sản xuất (đặc biệt là những giống có chất lượng gạo ngon đạt tiêu chuẩn xuất khẩu) lại là những giống nhiễm hoặc kháng yếu với bệnh đạo ôn.
Vì thế, nếu gặp thời tiết phù hợp, cây lúa đang ở giai đoạn xung yếu đối với bệnh, mà ruộng lại bón thừa phân đạm, thì bệnh có thể hủy diệt cả ruộng lúa chỉ trong vài ngày.

Bệnh đạo ôn ở lúa

Triệu chứng

Đạo ôn có thể gây hại nhiều bộ phận phía trên mặt đất của cây lúa từ lá, đốt thân, cổ bông đến gié lúa, hạt lúa,…
– Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu ở giai đoạn mạ-đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ nhỏ như đầu mũi kim, màu xám xanh giống như bị nước sôi, sau đó chuyển sang màu nâu, rồi lan rộng dần ra thành hình thoi, xung quanh màu nâu đậm, giữa màu xám trắng. Nếu nặng, nhiều vết bệnh liên kết lại với nhau làm lá bị cháy khô, cây lúa bị lụi xuống, ruộng lúa sẽ bị thất thu nghiêm trọng.
– Trên cổ bông, đốt thân lúa: Nấm bệnh tấn công trên đốt thân, trên cổ bông. Chỗ bị bệnh lúc đầu có màu xám xanh, sau chuyển dần sang màu nâu, nâu đậm. Trên cổ bông, nếu ẩm độ không khí cao, chỗ vết bệnh sẽ mọc một lớp nấm mốc màu xám xanh, nếu trời khô vết bệnh sẽ khô tóp lại. Gặp gió to chỗ vết bệnh bị gẫy gập, ruộng lúa trở nên xơ xác. Do cản trở việc vận chuyển chất dinh dưỡng từ cây lúa lên nuôi hạt, làm cho hạt lúa bị lép lửng. Nếu nặng bệnh có thể làm cho hạt lúa bị lép hoàn toàn.
– Trên hạt: Vết bệnh có hình đốm tròn, viền nâu, tâm mầu xám trắng, đường kính khoảng 1-2 mm. Nếu nặng có thể làm cho hạt lúa bị lem lép lửng.

Biện pháp phòng trừ

– Để hạn chế tác hại của bệnh, bà con cần kiểm tra ruộng lúa thường xuyên (đặc biệt là những ruộng gieo cấy giống nhiễm như một số giống lúa thơm, những ruộng lúa tốt lốp,…) để kịp thời phát hiện và có biện pháp phòng trị kịp thời.
– Khi phát hiện thấy chớm có bệnh, bà con phải ngưng bón đạm, không để ruộng bị khô nước. Đồng thời tiến hành phun xịt thuốc ngay.
– Về thuốc có thể dùng một trong các loại thuốc như: Vifusi 40ND; Fuji-one 40EC; Vihino 40ND; Vikita 50ND,… trong các loại thuốc trên thì Fuji-one 40EC có tính lưu dẫn cao, ngoài đặc tính trị bệnh đạo ôn lá và cổ bông Fuji-one 40EC còn có tác dụng phụ kích thích bộ rễ phát triển giúp cho cây lúa hấp thu nhiều dinh dưỡng và cây trở nên to khỏe chống chịu được bệnh tốt hơn làm tăng năng suất thực tế cao hơn.
– Khi sử dụng thuốc bà con phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng, đặc biệt là phải đủ lượng nước như khuyến cáo của nhà sản xuất để nước thuốc được trải đều trên toàn bộ ruộng và cây lúa. Trường hợp bệnh nặng hoặc điều kiện thời tiết nhiều sương mù, ẩm cao,… thuận lợi cho nấm phát triển thì bà con nên phun thuốc nhắc lại 2 đến 3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày để hiệu quả trừ bệnh đạt hiệu quả. Tuyệt đối không pha thêm những loại phân bón lá có tỷ lệ đạm cao phun xịt cùng với thuốc.
– Đối với những ruộng sắp trỗ đến trỗ lẹt xẹt, nếu thấy thời tiết thuận lợi cho bệnh (ban đêm lạnh, đêm và sáng sớm có nhiều sương mù, trời âm u, ít nắng,…) thì bà con nhớ phun một đợt thuốc ngừa bệnh tấn công trên cổ bông, bông và hạt lúa, và phun tiếp lần hai sau đó khoảng 10-15 ngày (phun vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát để không ảnh hưởng đến thụ phấn của bông lúa).

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.