Nuôi tôm trên cạn: Mô hình tương lai

Khoa học công nghệ ngày càng phát triển giúp chúng ta phát minh ra những mô hình mới hiện đại và không tưởng. Nuôi tôm trên cạn hứa hẹn là một là một mô hình tương lai đầy hứa hẹn thay đổi diện mạo ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu vì tính bền vững và hiệu quả.

Một số nước trên thế giới đã thực hiện mô hình này và có những kết quả tốt như: công ty Blue Oasis, trang trại Karlanea Brown…của Mỹ, Công ty Camanor Produtos Marinhos Ltda của Brazil

Nuôi tôm trên cạn tại Mỹ

Trại nuôi tôm trong nhà của Blue Oasis có hệ thống kiểm soát nhiệt độ chặt chẽ

Bắt đầu nuôi tôm siêu sạch trên cạn cách đây 5 năm, đến nay, Công ty Blue Oasis đã tạo dựng tên tuổi trên thị trường tôm Las Vegas bằng những sản phẩm sạch và bền vững nhất.

Trại nuôi tôm của Blue Oasis Pure Shrimp được xây dựng trên mảnh đất khô cằn giữa hoang mạc Mojave, cách Las Vegas 30 dặm. Mỗi lứa, trại nuôi hàng ngàn tôm thẻ giống Thái Bình Dương bằng bể chứa nước mặn trong nhà kín có hệ thống kiểm soát nhiệt độ hiện đại. Nhiều người từng nghĩ, mô hình này quá viển vông và mạo hiểm vì Majave không phải là mảnh đất thích hợp để nuôi trồng. Tuy nhiên, Kevin McManus, Giám đốc diều hành Blue Oasis khẳng định trại nuôi tôm sẽ thành công nhờ công nghệ nuôi hiện đại, độc đáo. Đối tượng khách hàng mà Công ty nhắm tới là các chuỗi nhà hàng, khách sạn hạng sang ở Las Vegas. Với khách hàng này, giá cả không phải là điều tiên quyết, mà tôm phải đảm bảo 3 tiêu chí: bền vững, sinh thái và nội địa.

Nói về quy trình, Kevin chia sẻ: Trại chỉ nuôi tôm trong 120 ngày nhưng luôn kiểm soát chặt chẽ nhiệt độ 800F. Tôm được nuôi bằng hỗn hợp tảo biển và đạm thủy sản, tối đa 12 cữ ăn/ngày; năng suất trung bình 450.000 pound/năm. Blue Oasis tái sử dụng toàn bộ nguồn nước trong quá trình nuôi để tiết kiệm nước tối đa. Công ty sẽ mở rộng trại nuôi tôm ở New York, Dallas, Chicago và những thành phố chính ở Mỹ.

Tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương là đối tượng nuôi thích hợp nhất

Nhân viên kỹ thuật loại bỏ váng bẩn trên mặt bể nuôi

Cho tôm ăn

Giám đốc điều hành Kevin McManus đang kiểm tra nồng độ ôxy hòa tan trong nước

Tôm trưởng thành tại Blue Oasis, thịt săn chắc, thơm và ngọt

Tuy nhiên, hướng tiếp cận nuôi tôm bền vững như mô hình của Brown cũng có hạn chế: hệ thống tái tuần hoàn thường phải sử dụng bột cá làm thức ăn. Nguyên liệu chế biến bột cá chủ yếu từ các loài cá nhỏ, sống theo đàn như cá mòi, cá cơm ngoài khơi biển Thái Bình Dương thuộc Nam Mỹ – vốn được khai thác bằng lưới kéo hoặc các ngư cụ mang tính hủy diệt. Như vậy, đây là nguồn thức ăn nuôi tôm không bền vững. Và để khắc phục tình trạng này, các trại nuôi tôm tại đây không ngừng nghiên cứu để tìm ra nguồn thức ăn thay thế có nguồn gốc thực vật như tảo hoặc đậu nành, côn trùng.

Nuôi tôm trên cạn tại Brazil

Mô hình nuôi tôm trên cạn mật độ cao có thể tái chế nước, không sử dụng kháng sinh của Công ty Camanor Produtos Marinhos Ltda, Brazil được nhiều chuyên gia đánh giá cao và khuyến cáo các quốc gia có điều kiện tự nhiên tương tự nghiên cứu, học hỏi.

Đóng tại Barra – thủ phủ của nghề nuôi tôm Brazil – Công ty Camanor trong quá trình phát triển luôn phải loay hoay nghiên cứu, ứng dụng nhiều mô hình nuôi để đối phó với vấn đề sản xuất tôm không hiệu quả, tôm chết hàng loạt. Năm 2013, Công ty cho ra đời một công nghệ nuôi tôm AquaScience.

Công nghệ AquaScience được phát triển dựa trên sự tích hợp nhiều hệ thống và ý tưởng như sản xuất tôm nước mặn, sản xuất cá rô phi phụ phẩm, tái chế, khử trùng và tái sử dụng nước. Tất cả chúng được kết nối trong một hệ thống nuôi trồng, trong khi vẫn tồn tại độc lập. Với nó, bạn có thể nuôi tôm trên cạn mật độ cao, tái sử dụng nước nhiều lần trong khi vẫn hạn chế được tác hại tới môi trường cũng như việc sử dụng chất hóa học và kháng sinh.

Hệ thống AquaScience gồm khoảng 4.000m2 mặt nước được che bằng lớp lót nhựa PAED, một cống thoát chính, không có sự trao đổi nước. Việc tái chế và tái sử dụng nước diễn ra giữa các chu kỳ nuôi, sử dụng công nghệ biofloc. Việc xử lý chất thải hữu cơ như thức ăn thừa, phân… được thực hiện thông qua quá trình phân rã và phân hủy bởi vi khuẩn. Hệ thống này tái sinh hỗn hợp nitrogen bằng các quá trình sinh học nitrat hóa và khử nitơ, đồng thời tái chế hỗn hợp phốtpho bằng vi khuẩn và tảo.

Điểm đặc biệt của hệ thống này là các chỉ số nước đều rất ổn định. “Sự biến động của ôxy hòa tan chỉ ở mức 0,5mg/L và độ pH là 0,3 trong hơn 24 giờ. Điều này cho phép ao nuôi tránh các tác nhân gây bệnh. Nhiệt độ ao được giữ ở mức 27-280C trong bóng mát” – Werner Jost – Giám đốc điều hành Camanor – nói.

Theo ông Jost, để sản xuất một kilôgam tôm, nếu trang trại nuôi tôm kiểu cũ cần 19.000 lít nước thì hệ thống mới chỉ cần 240 lít. “Trong năm 2013, chúng tôi sản xuất 10 tấn/ha, mỗi con tôm nặng 12g, tỷ lệ sống sót là 90%. Mật độ nuôi là 100 tôm giống/m2. Đến tháng 2/2015, chúng tôi đã sản xuất được 48,5 tấn/ha mỗi chu kỳ nuôi, mỗi con tôm nặng 22g. Mật độ nuôi là 230 con/m2 và tỷ lệ sống sót 95%” – Jost nói. Năm 2016, năng suất tôm đã đạt trên 50 tấn/ha.

Werner Jost cũng cho biết thêm: “Với công nghệ mới này, mỗi năm chúng tôi có thể sản xuất được 4 vụ, nuôi trồng được 300 con/m2”. Trong mô hình này, nước thoát ra từ ao tôm sẽ được xử lý khử nitơ để sau đó đưa vào ao nuôi cá rô phi. Khử nitơ và phốtpho là hai vấn đề khó giải quyết nhất trong hệ thống nuôi tôm; nhưng với AquaScience, kể cả tới lần nước thứ năm sau tái chế, nồng độ nitơ và phốtpho vẫn được bảo đảm. Hơn nữa, mô hình này còn giúp người nuôi quản lý các loại virus gây bệnh cho tôm một cách dễ dàng hơn, tránh được những thiệt hại đáng tiếc.

Với công nghệ này, năm 2016, Camanor đã được Hiệp hội Nuôi trồng thủy sản thế giới trao giải thưởng Người lãnh đạo và đổi mới sáng tạo nghề nuôi trồng thủy sản thế giới.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Nuôi rắn và chăm sóc rắn theo mùa

Lãnh thổ Việt Nam nằm trọn trong vùng nhiệt đới nhưng khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng khí hậu riêng biệt theo phân loại khí hậu Köppen:

   

     * Miền bắc: mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm ấm, kiểu khí hậu này thông thường xảy ra ở các bờ biển phía đông. mùa đông có thể khô và lạnh hơn so với các khu vực khác, do hệ thống áp cao Siberi, và mùa hè rất ẩm ướt do ảnh hưởng của gió
* Bắc trung bộ: là khí hậu nhiệt đới gió mùa, kiều khí hậu này có tháng khô nhất (diễn ra gần như ngay thời điểm hay chỉ ngay sau khi có đông chí cho nửa đó của đường xích đạo) với lượng giáng thủy ít hơn 60 mm
* Miền nam và nam trung bộ: mang đặc điểm nhiệt đới Xavan, kiểu khí hậu mùa khô rõ rệt, với tháng khô nhất có lượng giáng thủy nhỏ hơn 60 mm
– Thời tiết lạnh hoặc nhiệt đô thay đổi gây ảnh hưởng không tốt hầu hết các loài động thực vật. Rắn là loài chịu nóng, vì vậy nuôi và chăm sóc rắn chịu ảnh hưởng theo từng vùng và nhiệt độ, rắn thường bị nhiễm bệnh và thay đổi tâp tính theo thời tiết như sau:
Mùa nóng:
– Rắn ăn uống bình thường và hay phơi nắng để  tạo hiệu ứng từ nhiệt nhằm thay đổi nhiệt độ cơ thể để hỗ trợ quá trình chuyển hóa thức ăn và khử trùng trên da. Đồng thời bổ sung thêm nguồn Vitamin D dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. rắn cần phơi nắng khoảng 10 phút tự tổng hợp Vitamin D. Vitamin D có vai trò trung gian trong quá trình tổng hợp và tăng canxi máu, phospho máu, tăng thải canxi niệu và tác dụng chủ yếu trên các cơ quan chính. Hiệu ứng từ nhiệt thực chất là sự chuyển hóa năng lượng. Vì vậy nên cho rắn thường xuyên tắm nắng để kích thích rắn ăn nhiều và  nâng cao cao khả năng phòng bệnh.

* Tác động lên ruột: Ở tá tràng và ruột non vitamin D tổng hợp các protein chuyên chở, giúp canxi di chuyển chủ động qua màng ruột. Đó là nguyên nhân mùa lạnh rắn bỏ ăn và bị khô da do tác động thời tiết bên ngòai thiếu độ ẩm và thiếu Vitamin, nên bổ sung sung nhiều Vitamin C,  Men tiêu hóa và dưỡng chất

nuôi rắn

* Tác dụng lên xương: Vitamin D có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch, làm xương chắc khỏe phòng chống các bệnh, đặc biệt là lở loét nhiễm trùng đường niệu cấp, bênh lây qua đường hô hấp. Thiếu vitamin D rắn không hấp thu canxi, phospho trong thức ăn, làm giảm lượng canxi và phospho trong máu, xương xốp và giòn, có thể dẫn đến còi xương. Nhất là rắn lớn lọai từ 01 năm trở lên dễ bị loãng và nhuyễn xương

Mùa lạnh: khí hậu nhiệt đới Việt Nam thường xảy ra
– Miền Bắc: từ tháng 10 AL cho đến hết tháng 3 AL
– Miền nam: từ tháng 10 AL hết tháng 12 AL
– Rắn thường giảm ăn và bỏ ăn, da khô, không chỉ tạo tác động từ bên ngoài, nên bổ sung dưỡng chất từ bên trong như các loại dưỡng chất như đạm và dầu cá, chúng là những loại dưỡng chất nhiều chất béo sẽ giúp da hấp thụ thêm dưỡng ẩm và tích nước vừa đủ. Thông thường rắn ăn mồi chết giảm ăn it hơn rắn ăn mồi sống, vì mồi chết được nhúng qua nước nóng, rắn cảm nhận thân nhiệt sẽ bò ra ăn
* Trời lạnh, buổi sáng rắn họat động chậm do đau xương, thậm chí không cử động vì đau giữa các khớp
* Vào thời điểm chuyển mùa, nhất là vào thời tiết lạnh sức đề kháng của rắn giảm rõ rệt khiến cho các yếu tố gây bệnh như vi khuẩn, virus dễ dàng tấn công thường lây qua đường hô hấp. Thời tiết lạnh hàm lượng Lipit trong máu tăng cao làm axit uric trong máu bị kết tủa lắng đọng vào khớp xương gây viêm.
– Để giảm hiện tượng khô da, cứng khớp, các bệnh lây qua đường hô hấp. Giữ ấm và bổ sung thêm đạm thủy phân Hi Protamin, men tiêu hóa Bioyest De200f Enzyme + Vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn cho rắn

Phòng cắn mổ nuốt nhau khi chuyền mùa:
– Rắn có hiện tượng cắn mổ và nuốt nhau có nhiều nguyên nhân do mật độ nuôi dày , thiều dinh dưỡng và thường xảy ra trong giai đoạn chuyển mùa hoặc thời tiết nóng bức. Vì vậy cần có biện pháp tổng hợp cho rắn nhằm phòng chống phân đàn và hạn chế thiệt hại
– Cho ăn no và sử dụng liều cao Vitamine tổng hợp + Bioyeast De200f Enzyme + Hi Protamine

Cách giữ ấm cho rắn
– Nuôi chuồng lưới xi măng: sưởi ấm bằng bóng đèn tròn 75W có mắc bộ điều áp, vị trí ngay giữa chuồng. Nên tắm nắng cho rắn vào lúc 10h sáng. Không thắp đèn buối sáng để giảm thiểu điện năng và mở đèn sưởi bắt đầu từ 5h chiều. Khu vực miền bắc thắp 24/24 vào mùa đông
– Nuôi chuồng lưới trong chuồng xi măng như chuồng heo: che bạt phủ kín tòan bộ mặt chuồng. Bỏ 01 thùng xốp vào bên trong chuồng lưới, đục nhiều lỗ tròn để rắn tự chui vào tránh lạnh
– Nuôi trong phòng lớn: nuôi nhiều như miền bắc nên tập cho rắn ở trong thùng sốp và cho ăn uống bên ngoài, rắn sẽ tự động vào thùng khi thời tiết trở lạnh. Mùa đông thắp bóng đèn hoặc sưởi ấm bằng máy trong phòng

Các điều cần chú ý chăm sóc rắn vào mùa đông
– Bỏ nhiều nước vào chuồng để tránh tình trạng khô da đảm bảo độ ẩm phù hợp cho rắn sinh trưởng
– Bổ thêm đạm cá thủy phân Hi Protamin, men tiêu hóa Bioyest De200f, Vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn, không cho nhiều thức ăn vào chuồng. Đặc biệt rắn cái đang mang trứng nên cho ăn ít tránh tình trạng ruột chèn ép làm trứng nhỏ và không đạt yêu cầu giống

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi vịt siêu thịt cho lãi cao

Vịt siêu thịt lớn rất nhanh, nhanh hơn vịt ta nhiều lần. Từ vịt mới nở, chỉ cần nuôi 2 tháng rưỡi là đã nặng tới 3 cân. Nếu trong một gia đình chỉ cần một lao động chăn khoảng 30 con vịt siêu thịt thì sau 3 tháng đã có ngót ngét một tạ thịt vịt. Chỉ 75 ngày tuổi, vịt nặng khoảng 2,8 – 3,2kg.

     Nuôi vịt siêu thịt cho lãi cao

Vịt siêu thịt có thể đẻ được 200 trứng/năm, nhiều hơn vịt ta khoảng 80 trứng. Vừa nuôi để lấy thịt vừa nuôi để lấy trứng đều tốt. ở đồng bằng, người ta thường nuôi theo phương thức tập trung thâm canh, nhưng ở miền núi, nên tổ chức nuôi chăn thả. Nuôi chăn thả năng suất 80 ngày vịt nặng khoảng 3kg.

Muốn nuôi vịt hiệu quả nên tổ chức nuôi theo 2 giai đoạn: Giai đoạn gột vịt con và giai đoạn thả chạy đồng.

  • Giai đoạn gột vịt: từ lúc một ngày tuổi tới lúc 20 ngày tuổi. Giai đoạn này cần chuẩn bị thức ăn cho chu đáo và chúng ở trong chuồng là chính. Thức ăn của chúng là cơm, bún, ngô mảnh nấu trộn với tôm, tép, cua, cá hoặc giun đất. Lúc đầu cho chúng ăn từ 5- 6 bữa/ngày. Từ ngày thứ 11, cho ăn thưa hơn, khoảng 3 – 4 bữa/ngày.

Chú ý: phải cho chúng ăn đủ lượng và đủ chất, đặc biệt là chất đạm, thiếu đạm vịt chậm lớn. Lúc đầu cho vịt ăn những thức ăn mềm. Dần dần, có thể cho chúng tập ăn cơm, ăn gạo ngâm rồi ăn thóc ngâm. Lúc 7 – 8 ngày tuổi, cho vịt làm quen dần với nước để tập bơi. Chỉ vào hôm sau có thể bơi tốt.

  •  Sau 20 ngày cho vịt ra khỏi chuồng để đi kiếm ăn trên đồng. Nên tính toán để làm sao sau khi gặt xong là có thể lùa vịt ra đồng mót lúa. Nếu vịt chưa no, ta có thể cho ăn thêm thóc và các thức ăn giàu đạm. Dọc các sông, ngòi và các bãi sình là chỗ chăn thích hợp. Tôm, tép, ốc, giun, dế và các loại côn trùng là thức ăn hấp dẫn của vịt. Nếu muốn nuôi để lấy trứng thì lâu hơn nuôi lấy thịt. Khoảng tuần thứ 26 thì vịt bắt đầu đẻ tới tuần thứ 66 thì nghỉ.

Nuôi vịt đẻ cần lưu ý, không nên để quá béo, cũng không nên để vịt còi cọc. Lúc vịt bắt đầu đẻ ta phải duy trì được thời gian chiếu sáng là 17 giờ/ngày. Phải đảm bảo nghiêm ngặt điều kiện này thì vịt mới đẻ tốt.

Vịt con cần giữ chân khô khi vào tới ổ. Có thể cho chúng đi qua mùn cưa, qua trấu hoặc cát khô. Chân vịt khô phòng nhiễm bệnh cho vịt con.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Đặc điểm lợn rừng của thái lan

Để đáp ứng nhu cầu thị trường các giống gia súc bản địa và hoang dã đang được các đơn vị chăn nuôi đã đầu tư và khai thác những đỉặc tính quý, một trong những động vật hoang dã được nhiều người Việt Nam ưa chuộng đó là lợn rừng. Thuần hóa lợn rừng, lai tạo với lợn nhà đang được nhiều trang trại và các cơ sở chăn nuôi của nước ta nghiên cứu và ứng dụng. Người chăn nuôi ở Việt Nam biết và quan tâm đến các giống vật nuôi của Thái Lan trong đó có lợn rừng. Lợn rừng Thái Lan đang rất được người chăn nuôi và người tiêu dùng ưa chuộng do những đặc tính ưu việt: thịt thơm ngon, ít mỡ, nhiều nạc giá trị cao nhưng đầu tư thấp, chi phí thức ăn ít, thời gian nuôi ngắn, dễ nuôi, sinh sản tốt, tỷ lệ sống cao và ít bệnh tật.

Đặc điểm của lợn rừng Thái Lan

1. Tập tính sinh sống

Lợn rừng thường sống theo bầy đàn đông đến 50 con, sống dựa vào nhau để đảm bảo an toàn. Vì lợn rừng không chịu nắng nóng nên thường thích kiếm ăn về đêm, thích ngâm mình dưới bùn để thải nhiệt, đuổi côn trùng, ký sinh trùng trên da. Hiện nay lợn rừng Thái Lan được thuần dưỡng tại nhiều cơ sở chăn nuôi và sử dụng các sản phẩm theo ý muốn của con người.

2. Ngoại hình

– Lợn rừng Thái Lan có thân hình thon, mình mỏng, dáng cao, mặt nhọn hình tam giác, mõm dài, tai dựng đứng, nhỏ, mắt lồi trông dữ tợn, ở má có vệt lông màu trắng chạy vắt qua mũi. Mũi lợn rừng rất thính, linh hoạt, mềm nhưng rất khỏe (lợn thường dùng mũi để đào bới, tìm thức ăn).

lợn rừng Thái Lan

– Lông dài, cứng, màu lông nâu hoặc đen. Thường lỗ chân lông thành búi lông, mỗi búi có 3 gốc lông nhưng mỗi lỗ có 1 lông. Lông bờm màu đen đậm, mọc từ gáy dọc theo sống lưng cho đến mông.

– Đuôi nhỏ, ngắn, chỉ dài đến khoeo chân. Chân lợn rừng nhỏ thon, móng nhọn. Vai cao hơn hông.

– Lợn rừng cái có 2 dãy vú, mỗi dãy 5 núm vú, da rất dày. Con cái trưởng thành nặng trung bình 90 – 100 kg. Trung bình 1 lứa đẻ từ 8-12 con.

– Con đực trưởng thành nặng trung bình 100 – 120 kg. Lợn rừng đực có 4 nanh dài chĩa ra ngoài là phương tiện để kiếm thức ăn và là vũ khí lợi hại thể hiện sức mạnh.

– Lợn rừng con sinh ra có lông sọc giống trái dưa gang (vệt lông màu trắng chạy dọc thân trên nền da màu đen hoặc nâu). Khi lợn trên 2 tháng tuổi, các vệt sọc này không còn nữa.

3. Sinh sản và trưởng thành

Lợn rừng Thái Lan 7 – 8 tháng tuổi có thể trọng 40 – 60kg có thể cho phối giống sinh sản. Thời gian mang thai của lợn rừng giống lợn nhà (khoảng 114 ngày). Thời gian đẻ (từ con đầu đến con cuối) 2 – 4 giờ. Quá trình đẻ diễn ra theo tự nhiên, không cần sự giúp đỡ hoặc can thiệp của con người. Lợn rừng đẻ 2-2, 5 lứa/ năm, lứa đầu (con so) đẻ 4 – 6 con, lứa thứ 2 trở đi từ 7 – 12 con. Lợn rừng sơ sinh có tầm vóc nhỏ, khối lượng bình quân 0,5 – 0,9kg/con. Lợn con 1-2 tháng tuổi: 5 – 10kg, 3 – 4 tháng tuổi: 15 kg-20kg, 8-12 tháng: 60 – 70 kg, khi trưởng thành: trên 100 kg.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam