Bệnh “ chai” bông huệ trắng

Các hộ dân trồng hoa huệ trắng trên ruộng có thể bị một số sâu bệnh như: Rệp sáp, nhện đỏ, bệnh héo vi khuẩn và Fusarium. Trong đó, quan trọng nhất là bệnh “chai ” bông do tuyến trùng. Riêng bệnh chai bông do tuyến trùng thì rất khó chữa trị.

Huệ là loại cây dễ trồng, từ 2,5 đến 3 tháng bắt đầu cho thu hoạch, 2 tháng tiếp theo cây ra hoa ổn định và thời gian thu hoạch kéo dài từ 1 năm trở lên. Trong khoảng thời gian cây cho bông, thường xuyên theo dõi tình hình sâu bệnh, nếu phát hiện cây có triệu chứng bị sâu bệnh thì phải phun thuốc bảo vệ thực vật kịp thời, để cây hoa huệ cho bông to và đẹp, nhằm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Sau một năm cây cho hoa, thì xới đất, phơi, khử trùng… khoảng một tháng sau nông dân xuống giống lại.

Ở vài địa phương cây huệ được trồng thâm canh và cho bông quanh năm.Theo tính toán của nhiều hộ nông dân thì trồng 1 công huệ có thu hoạch bằng 5 đến 6 công lúa.

Tuy nhiên cây huệ đang bị một loại dịch hại gây thiệt hại nặng đến phẩm chất và có thể gây thất thu đến 100% .Nông dân thường gọi là bệnh “chai”bông huệ.

Hình A:bông huệ khỏe cao >1 mét và mang 20 bông nhỏ, trắng
Hình B,C:bông nhiễm TT, lùn thấp cằn cổi, bông nhỏ trổ không thoát .màu vàng nâu
Hình D:lá biến dạng, có những vệt sần sùi

Theo TS.Nguyễn thị Thu Cúc-Trường Đại Học Nông nghiệp Cần Thơ-đã phân lập và xác định nguyên nhân gây bệnh là do tuyến trùng Aphelenchoides besseyi

Đây là loại động vật thuộc lớp Giun tròn, có kích thước rất nhỏ không thể thấy được bằng mắt thường, chỉ thấy được dưới kính hiển vi. Loại tuyến trùng nầy thuộc loại ngoại ký sinh, sống trong đất ẩm và bám vào mặt ngoài các bộ phận thân, lá, bông cây huệ để chích hút (không sống bên trong mô tế bào và không thấy hại rễ). Tuyến trùng có thể sống tiềm sinh trên bề mặt vỏ hạt lúa đến 20 tháng. Các giống lúa có mức độ chống chịu với tuyến trùng khác nhau. Giống mẫn cảm có biểu hiện “khô đầu lá” lúa

Phòng trừ:

+ Làm đất kĩ trước khi trồng: cày bừa , bón thêm vôi và phơi khô đất trước khi trồng hoặc ngâm ải đất
+Tuyến trùng có thể sống tiềm sinh trên vỏ trấu, rơm rạ hoặc thân, cành,hoa và củ giống cây huệ vụ trước. Nên nhổ bỏ cây bị bệnh và tàn dư ra khỏi ruộng hoặc đốt đồng để diệt mầm bệnh và tuyến trùng trong tàn dư cây trồng
+Phun định kỳ trên bông thuốc CAZINON 50 ND
+Rải xuống mặt đất vườn ươm hoặc quanh gốc cây thuốc trừ Tuyến trùng như CAZINON 10H hoặc các loại thuốc chuyên trị tuyến trùng khác.
+Chọn củ huệ làm giống từ những ruông không bị bệnh “chai”
+Khử trùng củ giống: Nên phơi khô củ một thời gian để giảm mật số tuyến trùng. Bóc tách bớt các lớp vỏ khô bên ngoài củ giống Ngâm củ trong dung dịch có pha thuốc trừ tuyến trùng hoặc ngâm vào nước nóng trước khi trồng (50 độ C trong 30 phút)

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ TUYẾN TRÙNG TỔNG HỢP:

Luân canh: Luân canh trong vòng 1-2 năm với một số cây không phải là kí chủ hoặc cây trồng có tính kháng Tuyến trùng: Hành tây, Cà rốt, ớt, Bông cải, Tỏi, Hành, Củ cải, và Cà chua giống kháng, … nhằm làm giảm mật số Tuyến trùng . Trồng những cây như: Mè, Bắp, … để làm giảm mật số tuyến trùng

Xen canh : chọn cây kháng tuyến trùng: Cây họ Cúc có khả năng ức chế được sự phát triển của tuyến trùng. Rễ cây Cúc vạn thọ (Tagetes erecta) tiết ra các chất ức chế được sự phát triển của Tuyến trùng.

Vệ sinh đồng ruộng: Gom tàn dư thực vật của cây trồng đã bị nhiễm và hủy đi. Sự phát triển của Tuyến trùng sẽ bị chậm lại và mật độ cũng giảm

Dược chất trích từ thực vật: Dịch chiết từ cây Lục bình (Eichornia crassipes) và Hành tây (Allium cepa) cho kết quả tốt nhất đối với tuyến trùng . Họat tính có tính trừ Tuyến trùng được xác định là Acid carboxylic trong Lục bình và Ketone trong dịch chiết của Hành tây.

Hiệu quả trừ Tuyến trùng bằng lá băm nhỏ của cây Bông giấy (Bougainvillea spectabilis), Húng cây (Oscimum sanctum) Hành tây (Alliumcepa) và cây Bọ chét (Leucaena leucaephala) ở mức độ 5 gam/kg đất đối với tuyến trùng hại trên cây Cà chua và tuyến trùng trên cây Đậu (Vigna radiata) đã được khảo sát ở trong chậu, làm gia tăng sinh trưởng của cây và ức chế sự tăng dân số của quần thể Tuyến trùng

Có thể giả cây Cỏ mực (Eclipta prostrata), trích lấy nước tưới vào đất làm giảm được Tuyến trùng

Phân hữu cơ:

Việc áp dụng phân hữu cơ bón cho đất là một tập quán tốt, làm tăng độ phì nhiêu của đất, làm thay đổi hóa tính đất, cung cấp vi lượng,… phân hữu cơ còn làm giảm mật số Tuyến trùng trong đất và làm tăng năng suất.

Dưới tác dụng của vi sinh vật, chất hữu cơ dần dần phân hủy, quá trình này tạo ra các acid hữu cơ như: acid fulvic, humic, acetic, n-butyric, formic, lactic, propionic có khả năng giết và ngăn chặn sự sinh sản của Tuyến trùng . NH3 tạo ra trong quá trình phân hủy phân cá làm mật số tuyến trùng bướu rễ Meloidogyne giảm xuống .

Một số loại nấm như Trichoderma sp.cũng góp phần hạn chế tuyến trùng

Áp dụng các biện pháp tổng hợp để phòng trừ Tuyến trùng luôn cho hiệu quả cao hơn so với chỉ dùng một biện pháp riêng rẽ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh hại cây hoa huệ

Bông huệ trắng (Polianthes tuberosa Linn.) là cây trồng có giá trị kinh tế cao . Nhiều nông dân đã cải tạo đất vườn, chuyển đất lúa kém hiệu quả sang trồng hoa huệ và có nhiều hộ gia đình đã thoát được đói nghèo. Khi trồng, huệ thường gặp một số bệnh sau:

I. Sâu hại

Sâu hại cây hoa huệ không nhiều. Các loại sâu ăn lá và chích hút như cào cào, bọ cánh cam, bọ trĩ, rệp… gây hại rải rác, loài tác hại phổ biến nhất là Nhện đỏ.

Nhện đỏ
Tên khoa học: Tetranychus sp.
Lớp Nhện: Arachnida
Bộ Nhện nhỏ: Acarina

– Đặc điểm sinh học và tác hại: Nhện trưởng thành đẻ trứng vào lớp tơ mỏng mặt dưới lá. Một con cái có thể đẻ 200 trứng. Nhện non và trưởng thành sống tập trung mặt dưới lá, chích hút nhựa tạo thành các vệt màu nâu vàng nhạt dọc 2 bên gân lá. Mật độ nhện cao làm lá vàng khô, cây sinh trưởng kém. Nhện còn làm nụ héo, hoa nhỏ.Vòng đời trung bình 20 – 25 ngày. Nhện đỏ phát triển nhiều khi thời tiết nóng và khô. Ngoài hoa huệ, nhện còn hại nhiều loại cây như bông, chè, cam quít, đậu, dưa…

– Biện pháp phòng trừ: Bón phân, tưới nước đầy đủ cho cây, khi nhện gây hại,không để ruộng khô, phun thuốc đặc trị như Danitol, Nissorun, Ortus, Sirbon.

II. Bệnh hại

Bệnh hại trên lá cây hoa Huệ thường không đáng kể, cá biệt có bệnh cháy lá do nấm… Các bệnh phổ biến nhất là bệnh thối bẹ, thối gốc và héo xanh.

1.Bệnh thối bẹ

– Tác nhân: Nấm Rhizoctonia solani

– Nhóm Nấm Bất thụ: Mycelia sterilia

– Triệu chứng, tác hại: trên bẹ lá xuất hiện những đốm tròn hoặc bầu dục màu xanh tái, hơi ướt. Vết bệnh lớn dần, hình dạng thay đổi, màu nâu xám, xung quanh nâu đậm. Lá bị bệnh biến vàng và héo rũ, cây nhỏ, bông nhỏ, ít hoa. Bệnh ít khi làm chết cây, chỉ giảm chất lượng chùm hoa.

– Điều kiện phát sinh bệnh: Nấm phát triển dưới dạng sợi và hạch. Sợi nấm trắng hoặc vàng nhạt, thô, các nhánh vuông góc với nhau. Hạch do sợi nấm liên kết lại, màu vàng nhạt hoặc nâu, hình bầu dục dẹt, kích thước thay đổi từ 0,5 – 2,0 mm.Sợi nấm và hạch tồn tại trên cây bệnh và trong đất 1 – 2 năm. Bệnh phát triển nhiều khi khí hậu nóng, mưa nhiều, ẩm thấp, trồng mật độ dày, bón nhiều phân đạm.

– Biện pháp phòng trừ: Làm đất kỹ, đất chua cần bón vôi, trồng cây mật độ vừa phải, không bón nhiều phân đạm, loại bỏ lá già và lá bệnh, phun thuốc Anvil, Monceren, Validacin.

2.Bệnh thối gốc (Bệnh héo vàng):Tác nhân Nấm Fusarium sp- Lớp Nấm Bất toàn : Deuteromycetes

– Triệu chứng, tác hại: Nấm xâm nhập vào gốc cây tạo thành những vết màu nâu. Nấm chủ yếu ăn sâu vào trong thân, phát triển phá hủy mạch dẫn, hạn chế vận chuyển nước,chất dinh dưỡng làm cây sinh trưởng kém,lá vàng, cuối cùng cây chết.Trong đất,nấm cũng phá hại bộ rễ làm cây suy yếu nhanh. Một số cây bị nhẹ có thể hồi phục nhưng ảnh hưởng chất lượng hoa.

– Điều kiện phát sinh bệnh: Nấm hình thành 2 loại phân sinh bào tử. Phân sinh bào tử lớn không màu, dài và cong hình lưỡi liềm nhiều vách ngăn. Phân sinh bào tử nhỏ hình trứng, không màu, không hoặc có một vách ngăn. Bào tử tồn tại trong đất tới 1 – 2 năm. Ruộng đất cát, chua, thiếu đạm và lân thường bị bệnh nhiều.

– Biện pháp phòng trừ: Ruộng bị bệnh cần luân canh lúa nước, làm đất kỹ, đất chua cần bón vôi, bón đủ phân đạm và lân, dùng thuốc gốc Đồng hoặc pha hỗn hợp thuốc Đồng với Benomyl tưới xuống gốc hạn chế một phần sự phát triển của nấm.

3. Bệnh héo xanh: Tác nhân : Vi khuẩn Pseudomonas sp.

 Triệu chứng, tác hại: Cây đang sinh trưởng thì đột ngột héo rũ lá vẫn còn xanh. Hiện tượng héo xảy ra khi trời nắng, ban đêm cây xanh lại, sau 2 – 3 ngày cây không hồi phục và chết. Cắt ngang gốc thân cây bệnh thấy mạch dẫn bị nâu, ấn mạnh gần mặt cắt sẽ tiết dịch vi khuẩn màu trắng đục. Vi khuẩn trong đất xâm nhập rễ cây, phát triển lên phá hủy mạch dẫn, ngăn cản hấp thu và vận chuyển nước làm cây bị héo.

– Điều kiện phát sinh bệnh: Vi khuẩn hình gậy ngắn, 2 đầu tròn, 1 – 3 tiêm mao ở một đầu, gram âm, phát triển thích hợp ở nhiệt độ 30 – 35oC, chết ở 52oC trong 10 phút, pH thích hợp khoảng 6,6. Vi khuẩn tồn tại trong cây bệnh và trong đất trên 1 năm, là nguồn lan truyền gây bệnh cho cây vụ sau.

– Biện pháp phòng trừ: Làm đất kỹ, phơi ải và bón vôi, không để ruộng đọng nước hoặc quá ẩm, không trồng cây ngay sau mưa, tiêu hủy cây bệnh, luân canh với lúa nước, phun ngừa bệnh bằng thuốc kháng sinh: Kasugamycin, Streptomycin hoặc tưới gốc bằng thuốc gốc Đồng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.