Cá bớp (cá bóp, cá giò) được nuôi ngày càng nhiều, đặc biệt là ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Vũng Tàu, Kiên Giang. Cá dễ nuôi, tăng trưởng nhanh, giá trị cao nhưng lại hạn chế về nguồn giống. Do đó, cần đẩy mạnh sản xuất giống cá bớp để đáp ứng nhu cầu về nguồn giống.
Cá bớp
Kỹ thuật sản xuất giống cá bớp
Nuôi vỗ cá bố mẹ
Địa điểm: Lồng nuôi vỗ phải được đặt ở nơi ít sóng gió, dòng chảy nhẹ từ 0,2 – 0,5 m/s, độ mặn 25 – 32‰, độ trong > 2m. Kích thước lồng 3mx6mx3m hoặc 10x10x10m, kích cỡ mắt lưới thích hợp là 2a=10cm.
Tuyển chọn cá bố mẹ: Chọn những con cá bố mẹ khỏe mạnh, trọng lượng từ 8 – 10 kg/con. Nuôi vỗ với mật độ 5 – 6kg cá/1m3 lồng.
Nuôi vỗ cá bố mẹ: Chia làm 3 thời kỳ:
Nuôi duy trì: Thời gian nuôi vỗ từ tháng 6 – 9, thức ăn là cá tạp tươi, khẩu phần cho ăn bằng 3% trọng lượng thân. Đối với cá đã nuôi vỗ từ năm trước nhưng không cho đẻ thì dùng LRHa (liều lượng 10 – 15mg/kg cá mẹ) tiêm để loại bỏ hết sản phẩm sinh dục cũ, thời gian tiêm từ ngày 5 – 15/7. Đối với cá mới tuyển chọn lần đầu không cần tiêm.
Nuôi vỗ tích cực: Kéo dài từ tháng 10 – 12, lượng cho ăn bằng 5% trọng lượng thân, thức ăn bổ sung một số loại cá có chất lượng cao như mực, cá nục…
Nuôi vỗ thành thục: Từ tháng 1 năm sau cho đến khi cá đẻ. Đây là thời kỳ rất quan trọng, giảm khẩu phần thức ăn xuống từ 2 – 2,5% trọng lượng thân. Tuy nhiên, giai đoạn này cần bổ sung khoáng, các vitamin.
Sau thời gian nuôi vỗ, tiến hành chọn cá đã thành thục sinh dục (10 – 12 kg/con) để tiêm chất kích thích sinh sản: cá cái thành thục sinh dục có biểu hiện bụng căng tròn đều, lỗ sinh dục to và ửng hồng hay có thể dùng que thăm trứng có đường kính 1,2 mm. Khi trứng cá có màu vàng sậm, đường kính trứng đạt từ 0,7 mm trở lên và khi quan sát trứng bằng dung dịch sera nếu thấy nhân lệch hơn 50% trên tổng số trứng quan sát thì ta chọn cá để cho sinh sản. Đối với cá đực, cũng tiến hành lấy sẹ tương tự như lấy trứng, khi sẹ có màu trắng đục và có khả năng hòa tan nhanh trong môi trường nước.
Cá bớp được nuôi vỗ
Kỹ thuật sinh sản cá bớp
Chuẩn bị bể đẻ: Bể đẻ tốt nhất là hình tròn, thể tích từ 50-150m3, chiều cao 2,5m. Nước được cấp từ dưới đáy bể lên để nước trong bể chảy thành dòng xoáy. Mỗi bể lắp từ 6 – 10 vòi sục khí mạnh. Trước khi đưa cá vào bể đẻ phải cấp nước đầy.
Tiêm kích dục tố LHRH-a với liều lượng 20µg/kg cho cá cái. Không cần tiêm cho cá đực.
Thu trứng, tách và ấp trứng
Thu trứng: Trứng vớt được phải chuyển ngay vào bể hoặc thùng đựng trứng đặt trong bóng tối và có sục khí.
Tách trứng: Đưa trứng cá vào nước có độ mặn 35 – 36‰, những trứng tốt sẽ trương nước, có kích thước giọt dầu lớn và nổi lên mặt nước. Những trứng chìm và ở sâu trong tầng nước là trứng xấu, phải loại bỏ. Tách trứng từ 3 – 4 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ để loại bỏ hết trứng xấu và cho vào ấp.
Ấp trứng: Môi trường nước ấp trứng cần đảm bảo các điều kiện như độ pH từ 8 – 8,5; độ mặn 35 – 36‰; nhiệt độ nước 24 – 28 độ C. Mật độ ấp từ 400 – 500 trứng/l, bể ấp được sục khí nhẹ và liên tục trong suốt quá trình ấp. Cấp nước có độ mặn 30 – 32‰ liên tục vào bể, khi trứng nở độ mặn sẽ hạ xuống còn 31 – 32‰ (bằng với độ mặn bể ương và có thể chuyển ấu trùng mới nở sang bể ương đã chuẩn bị sẵn)
Ương ấu trùng
Có thể ương ấu trùng cá bớp trong bể xi măng, bể composite hay ao đất. Ao nuôi có diện tích 400 – 500 m2, sâu 1 – 1,2 m. Cần cải tạo kỹ và bón phân để gây màu và thức ăn tự nhiên trong ao nước khi thả ấu trùng ương. Nếu thức ăn tự nhiên kém thì phải bổ sung luân trùng. Mật độ ương trong ao là 1.500 – 2.000 con/m2. Sau 22 – 25 ngày ương, có thể cho ấu trùng ăn thức ăn nhân tạo bổ sung.
Mật độ ấu trùng trong bể ở các giai đoạn khác nhau như sau:
Giai đoạn 1 – 10 ngày tuổi: 70 – 80 con/lít
Giai đoạn 11 – 20 ngày tuổi: 20 – 30 con/lít
Giai đoạn 21 – 30 ngày tuổi: dưới 10 con/lít.
Thức ăn cho ấu trùng ương cho bể bao gồm tảo (Chlorella, Isochrysis, Tetraselmis) với mật độ 40.000 – 60.000 tế bào/ml cho giai đoạn 3 – 8 ngày tuổi, luân trùng 7 – 10 cá thể/ml cho giai đoạn đầu đến 12 ngày tuổi và Artemia 2 – 5 cá thể/ml từ ngày 17 – 18.
Luyện cho cá ăn thức ăn hỗn hợp hay thức ăn công nghiệp từ ngày 11. Khi cá đạt 22 ngày tuổi (2 – 3 cm/con) thì cho ăn chủ yếu thức ăn hỗn hợp hay công nghiệp.
Cần duy trì nước ương với độ mặn 28 – 30‰, nhiệt độ 24 – 300C và tốt nhất không thay đổi quá 1oC trong 1 ngày đêm, pH 7,5 – 8,5. Luôn luôn giữ hàm lượng ôxy trong nước lớn hơn 6 mg/l. Hàng ngày tiến hành tháo rốn bể và xi phông đáy đưa xác cá chết và thức ăn thừa ra khỏi bể ương, vệ sinh trống lọc và vớt váng.
Ấu trùng mới nở dài 2,5 mm và chưa có sắc tố, một ngày tuổi dài 3 mm, trong suốt, dọc lưng có một mảnh màu xanh nhạt và điểm mắt màu đen, tích cực vận động trên mặt nước.
Ngày thứ 10 đã có sự thay đổi lớn so với ấu trùng một ngày tuổi. Miệng, đầu, mắt đã phát triển hoàn chỉnh, vây ngực hiện rõ, chưa có vây bụng, cơ thể có màu nâu nhạt và dài khoảng 5 – 10 mm.
Từ ngày tuổi 25, cá bắt đầu phân đàn nhanh, vì thế phải thường xuyên phân cỡ cá để tránh hiện tượng chúng ăn thịt lẫn nhau (Chú ý: Khi cá còn nhỏ dùng gáo múc cả cá và nước không dùng vợt để vớt, khi cá lớn 5 – 6 cm trở lên mới được dùng vợt để vớt).
Cá bớp giống
Sau 30 ngày tuổi cá đã giống với cá trưởng thành: Vây đuôi xòe rộng dạng nan quạt, xuất hiện hai dải sắc tố màu vàng nhạt hai bên thân chạy dọc cơ thể từ đầu đến cuối đuôi, cá dài 6 – 9 cm thì chuyển nuôi thương phẩm. Tỷ lệ sống giai đoạn ương 0 – 25 ngày tuổi khoảng 15 – 20% và 25 – 50 ngày tuổi là 40 – 50%.
Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam