Tasmania là nơi có trại sản xuất tôm hùm giống đầu tiên trên thế giới

Trường đại học Tasmania  hợp tác với công ty nuôi trồng thủy sản biển PFG đang tìm cách thương mai hóa nghiên cứu sản xuất giống tôm hùm đá và mở trại sản xuất giống tôm hùm đầu tiên trên thế giới.

Tôm hùm đá có giá trị kinh tế cao nhưng do vòng đời dài và phức tạp đã gây khó khăn cho việc sản xuất giống thương mại. Tuy nhiên Viện nghiên cứu biển và Nam Cực (IMAS) thuộc trường đại học Tasmania được hỗ trợ bởi trung tâm nghiên cứu ARC về phát triển thương mại hệ thống nuôi tôm hùm đang tìm cách vượt qua những thử thách này.

PFG đã đầu tư vào một công ty công nghệ spin-out để đảm bảo quyền cấp phép của Úc  cho nghiên cứu này.

Phó giáo sư trường đại học Brigid Heywood cho biết nghiên cứu thành công sẽ trở thành biểu tượng của trường đại học Tasmania, dưới sự lãnh đạo của cựu sinh viên – Michael Sylvester, Tổng giám đốc của PFG – đã đồng ý giúp đỡ thực hiện dự án 15- cộng với nhiều năm làm.

“Chúng tôi rất đam mê với vai trò của nghiên cứu trong việc cung cấp một nền tảng cho đổi mới kinh tế và tạo ra các lĩnh vực hoàn toàn mới. Đây là một ví dụ rất hay về hành động”.

Heywood cho biết: “Sự hợp tác này mở đường cho Tasmania trở thành nơi sinh ra một ngành công nghiệp nuôi tôm hùm đá trên toàn cầu”.

Trong hai năm tiếp theo, các nhà khoa học làm việc tại IMAS Taroona sẽ hoàn thành công việc hai năm cuối cùng của trung tâm dưới sự hỗ trợ của Hội đồng Nghiên cứu Úc, tập trung vào việc tối ưu hóa công nghệ để tiến tới sản xuất số lượng lớn.

Cam kết của PFG bao gồm việc xây dựng trại sản xuất giống quy mô thương mại.

Sylvester cho biết “Quan hệ đối tác sẽ tạo cơ hội cho các sản phẩm và dịch vụ hiện có trong đó mở ra những thị trường xuất khẩu hoàn toàn mới. Bên cạnh đó, việc ngành công nghiệp sản xuất giống thành công sẽ tạo ra việc làm cho người dân Tasmania và cho phép chúng tôi xuất khẩu tài nguyên trí tuệ của mình ra toàn thế giới”.

PFG dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất thương mại đầu tiên tại cơ sở sản xuất giống mới trong vòng bốn năm tới.

Nguồn: Seafoodsource được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

 

Kỹ thuật sản xuất giống cá bớp

Cá bớp (cá bóp, cá giò) được nuôi ngày càng nhiều, đặc biệt là ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Vũng Tàu, Kiên Giang. Cá dễ nuôi, tăng trưởng nhanh, giá trị cao nhưng lại hạn chế về nguồn giống. Do đó, cần đẩy mạnh sản xuất giống cá bớp để đáp ứng nhu cầu về nguồn giống.

Cá bớp

Kỹ thuật sản xuất giống cá bớp

Nuôi vỗ cá bố mẹ

Địa điểm: Lồng nuôi vỗ phải được đặt ở nơi ít sóng gió, dòng chảy nhẹ từ 0,2 – 0,5 m/s, độ mặn 25 – 32‰, độ trong > 2m. Kích thước lồng 3mx6mx3m hoặc 10x10x10m, kích cỡ mắt lưới thích hợp là 2a=10cm.
Tuyển chọn cá bố mẹ: Chọn những con cá bố mẹ khỏe mạnh, trọng lượng từ 8 – 10 kg/con.  Nuôi vỗ với mật độ 5 – 6kg cá/1m3 lồng.
Nuôi vỗ cá bố mẹ: Chia làm 3 thời kỳ:
Nuôi duy trì: Thời gian nuôi vỗ từ tháng 6 – 9, thức ăn là cá tạp tươi, khẩu phần cho ăn bằng 3% trọng lượng thân. Đối với cá đã nuôi vỗ từ năm trước nhưng không cho đẻ thì dùng LRHa (liều lượng 10 – 15mg/kg cá mẹ) tiêm để loại bỏ hết sản phẩm sinh dục cũ, thời gian tiêm từ ngày 5 – 15/7. Đối với cá mới tuyển chọn lần đầu không cần tiêm.
Nuôi vỗ tích cực: Kéo dài từ tháng 10 – 12, lượng cho ăn bằng 5% trọng lượng thân, thức ăn bổ sung một số loại cá có chất lượng cao như mực, cá nục…
Nuôi vỗ thành thục: Từ tháng 1 năm sau cho đến khi cá đẻ. Đây là thời kỳ rất quan trọng, giảm khẩu phần thức ăn xuống từ 2 – 2,5% trọng lượng thân. Tuy nhiên, giai đoạn này cần bổ sung khoáng, các vitamin.

Sau thời gian nuôi vỗ, tiến hành chọn cá đã thành thục sinh dục (10 – 12 kg/con) để tiêm chất kích thích sinh sản: cá cái thành thục sinh dục có biểu hiện bụng căng tròn đều, lỗ sinh dục to và ửng hồng hay có thể dùng que thăm trứng có đường kính 1,2 mm. Khi trứng cá có màu vàng sậm, đường kính trứng đạt từ 0,7 mm trở lên và khi quan sát trứng bằng dung dịch sera nếu thấy nhân lệch hơn 50% trên tổng số trứng quan sát thì ta chọn cá để cho sinh sản. Đối với cá đực, cũng tiến hành lấy sẹ tương tự như lấy trứng, khi sẹ có màu trắng đục và có khả năng hòa tan nhanh trong môi trường nước.

Cá bớp được nuôi vỗ

 Kỹ thuật sinh sản cá bớp

Chuẩn bị bể đẻ: Bể đẻ tốt nhất là hình tròn, thể tích từ 50-150m3, chiều cao 2,5m. Nước được cấp từ dưới đáy bể lên để nước trong bể chảy thành dòng xoáy. Mỗi bể lắp từ 6 – 10 vòi sục khí mạnh. Trước khi đưa cá vào bể đẻ phải cấp nước đầy.

Tiêm kích dục tố LHRH-a với liều lượng 20µg/kg cho cá cái. Không cần tiêm cho cá đực.

 Thu trứng, tách và ấp trứng

Thu trứng: Trứng vớt được phải chuyển ngay vào bể hoặc thùng đựng trứng đặt trong bóng tối và có sục khí.
Tách trứng: Đưa trứng cá vào nước có độ mặn 35 – 36‰, những trứng tốt sẽ trương nước, có kích thước giọt dầu lớn và nổi lên mặt nước. Những trứng chìm và ở sâu trong tầng nước là trứng xấu, phải loại bỏ. Tách trứng từ 3 – 4 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ để loại bỏ hết trứng xấu và cho vào ấp.
Ấp trứng: Môi trường nước ấp trứng cần đảm bảo các điều kiện như độ pH từ 8 – 8,5; độ mặn 35 – 36‰; nhiệt độ nước 24 – 28 độ C. Mật độ ấp từ 400 – 500 trứng/l, bể ấp được sục khí nhẹ và liên tục trong suốt quá trình ấp. Cấp nước có độ mặn 30 – 32‰ liên tục vào bể, khi trứng nở độ mặn sẽ hạ xuống còn 31 – 32‰ (bằng với độ mặn bể ương và có thể chuyển ấu trùng mới nở sang bể ương đã chuẩn bị sẵn)

Ương ấu trùng

Có thể ương ấu trùng cá bớp trong bể xi măng, bể composite hay ao đất. Ao nuôi có diện tích 400 – 500 m2, sâu 1 – 1,2 m. Cần cải tạo kỹ và bón phân để gây màu và thức ăn tự nhiên trong ao nước khi thả ấu trùng ương. Nếu thức ăn tự nhiên kém thì phải bổ sung luân trùng. Mật độ ương trong ao là 1.500 – 2.000 con/m2. Sau 22 – 25 ngày ương, có thể cho ấu trùng ăn thức ăn nhân tạo bổ sung.

Mật độ ấu trùng trong bể ở các giai đoạn khác nhau như sau:

Giai đoạn 1 – 10 ngày tuổi: 70 – 80 con/lít

Giai đoạn 11 – 20 ngày tuổi: 20 – 30 con/lít

Giai đoạn 21 – 30 ngày tuổi: dưới 10 con/lít.

Thức ăn cho ấu trùng ương cho bể bao gồm tảo (Chlorella, Isochrysis, Tetraselmis) với mật độ 40.000 – 60.000 tế bào/ml cho giai đoạn 3 – 8 ngày tuổi, luân trùng 7 – 10 cá thể/ml cho giai đoạn đầu đến 12 ngày tuổi và Artemia 2 – 5 cá thể/ml từ ngày 17 – 18.

Luyện cho cá ăn thức ăn hỗn hợp hay thức ăn công nghiệp từ ngày 11. Khi cá đạt 22 ngày tuổi (2 – 3 cm/con) thì cho ăn chủ yếu thức ăn hỗn hợp hay công nghiệp.

Cần duy trì nước ương với độ mặn 28 – 30‰, nhiệt độ 24 – 300C và tốt nhất không thay đổi quá 1oC trong 1 ngày đêm, pH 7,5 – 8,5. Luôn luôn giữ hàm lượng ôxy trong nước lớn hơn 6 mg/l. Hàng ngày tiến hành tháo rốn bể và xi phông đáy đưa xác cá chết và thức ăn thừa ra khỏi bể ương, vệ sinh trống lọc và vớt váng.

Ấu trùng mới nở dài 2,5 mm và chưa có sắc tố, một ngày tuổi dài 3 mm, trong suốt, dọc lưng có một mảnh màu xanh nhạt và điểm mắt màu đen, tích cực vận động trên mặt nước.

Ngày thứ 10 đã có sự thay đổi lớn so với ấu trùng một ngày tuổi. Miệng, đầu, mắt đã phát triển hoàn chỉnh, vây ngực hiện rõ, chưa có vây bụng, cơ thể có màu nâu nhạt và dài khoảng 5 – 10 mm.

Từ ngày tuổi 25, cá bắt đầu phân đàn nhanh, vì thế phải thường xuyên phân cỡ cá để tránh hiện tượng chúng ăn thịt lẫn nhau (Chú ý: Khi cá còn nhỏ dùng gáo múc cả cá và nước không dùng vợt để vớt, khi cá lớn 5 – 6 cm trở lên mới được dùng vợt để vớt).

Cá bớp giống

Sau 30 ngày tuổi cá đã giống với cá trưởng thành: Vây đuôi xòe rộng dạng nan quạt, xuất hiện hai dải sắc tố màu vàng nhạt hai bên thân chạy dọc cơ thể từ đầu đến cuối đuôi, cá dài 6 – 9 cm thì chuyển nuôi thương phẩm. Tỷ lệ sống giai đoạn ương 0 – 25 ngày tuổi khoảng 15 – 20% và 25 – 50 ngày tuổi là 40 – 50%.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật sản xuất giống sò mía

Sò mía, hay ngao hai cồi, là đối tượng nuôi mới ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Loại sò này mang lại giá trị kinh tế rất cao và cho thu nhập ổn định.

Nuôi sò đang mở ra một hướng đi làm ăn mới cho người dân bởi nuôi sò không phức tạp, chu kỳ ngắn và đầu tư ít.

Sò mía dễ sản xuất giống, có thể cho đẻ quanh năm để cung cấp giống liên tục cho người nuôi.

Sò mía

Kỹ thuật sản xuất giống sò mía

Chuẩn bị công trình thiết bị

Bể ương là bể xi măng hình chữ nhật, dài 2m, rộng 1.2m, cao 1.5m. Bể đẻ hình trứng, khoảng 10m3. Bể ương cấp nước 1.2m, bể đẻ cấp nước 0.4m.

Bố trí sục khí 0.8m2/1 dây khí.

Nước trước khi cấp vào bể phải được xử lý và lọc.

Tuyển chọn sò bố mẹ và kích thích cho đẻ

Sò bố mẹ kích thước hơn 40mm, được nuôi trong bể xi măng, nuôi vỗ 2 – 5 ngày trước khi kích thích cho đẻ. Tiến hành sục khí và thay nước hàng ngày. Kiểm tra trứng của sò, nếu trứng rời, đều thì có thể cho đẻ được.

Thăm trứng của sò

Phơi sò dưới nắng râm 3 -5 giờ, sau đó kích thích bằng dòng nước mạnh và liên tục. Đến khi sò bắt đầu đẻ (mở miệng và thò chân ra ngoài) thì ngừng kích thích.

Phơi sò dưới nắng râm để kích thích đẻ

Sau khi sò đẻ khoảng 30 phút, dùng ống nhựa hút trứng và thu bằng lưới (mắt lưới 30µm) và cho vào bể ương. Khi thu trứng vừa hút nước vừa bơm thêm nước để tạo dòng chảy kích thích sò tiếp tục đẻ và pha loãng trứng và tinh trùng trong nước.

Sau khoảng 12 giờ trứng nở thành ấu trùng.

Chăm sóc và quản lý ấu trùng

Điều kiện môi trường bể ương: Nhiệt độ 27 – 28oC, pH 7.5 – 8.5, độ mặn 25ppt. Mật độ ương 2 – 5 con/ml.

Cho ăn ngày 2 lần lúc sáng sớm và chiều tối. Giai đoạn ấu trùng trôi nổi : cho ăn 5 – 10 lít tảo/lần/bể. Giai đoạn xuống đáy : bơm tảo đến khi nước đục. Quan sát đường ruột ấu trùng dưới kính hiển vi để tăng giảm lượng thức ăn cho phù hợp.

Các loại tảo cho sò ăn : Nanochloropsis sp., Isochrysis sp., Thalassiosira sp. Tảo được nuôi ngoài trời trong bể composite. Nhân tảo làm thức ăn cho sò bằng môi trường F2. (Đa lượng : đạm (N), lân (P).Vi lượng : sắt, silic (nếu là tảo silic), EDTA.)

Thường xuyên đo kích thước để theo dõi sinh trưởng của ấu trùng. Hằng ngày thay nước 30 -50%. Sục khí 24/24.

Thu hoạch và vận chuyển sò giống

Sò giống đạt kích thước 5- 7mm là có thể xuất bán. Đếm và phân cỡ sò giống khi thu, cho vào túi nilon 2 lít. Đóng oxi cho túi nilon, làm lạnh và cho vào thùng xốp để có thể vận chuyển sò đi xa.

Sò mía giống