Tôm Hùm chết hàng loạt ở Phú Yên

Người dân điêu đứng khi tôm hùm nuôi trên vịnh Xuân Đài có trọng lượng từ 0,4-0,7 kg bất ngờ chết, buộc bán tháo mong gỡ vốn.

Tôm Hùm Phú Yên

Ông Lê Minh Lộc (phường Xuân Thành, thị xã Sông Cầu) cho biết, gia đình có 30 lồng nuôi với hơn 1.500 con tôm hùm. Gần tháng nay, tôm bất ngờ có hiện tượng chết hàng loạt. “Thoạt đầu chết vài con, nhưng sau đó tăng dần số lượng”, ông Lộc cho biết.

Nhiều lần lặn tầng đáy kiểm tra, ông phát hiện nhiều con rơi vào tình trạng lờ đờ, ngắc ngoải. Nước sủi bọt, bốc mùi hôi thối. “Gia đình nâng lồng lên cách đáy 2-3 m, giúp nước trong hơn nhưng tôm vẫn chết”, ông Lộc nói.

Chủ lồng cho hay, gần 1.000 tôm hùm nuôi gần năm với trọng lượng 0,4-0,7 kg đã chết. “Loại này bán khoảng 1,6 triệu đồng một kg, nhưng chết rồi chỉ bán với giá 400.000-600.000 đồng”, ông Lộc rầu rĩ nói.

Tôm hùm nuôi của gia đình ông Nguyễn Long (xã Xuân Phương) và nhiều hộ khác cũng xảy ra tình trạng tương tự. Mọi người đã sử dụng mọi cách, biện pháp xử lý để cứu tôm nhưng không hiệu quả, nên buộc phải bán tháo mong gỡ vốn.

Lãnh đạo địa phương cho biết, tôm hùm người dân nuôi trên vịnh Xuân Đài chết rải rác, nên chưa thể thống kê được số lượng.

Người dân lo lắng khi tôm hùm nuôi trên vịnh Xuân Đài chết hàng loạt

Theo trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản Phú Yên, kết quả môi trường sau khi xét nghiệm, nguyên nhân ban đầu có thể do tôm nhiễm vi khuẩn bệnh sữa. Khu vực nuôi lồng bè dày đặc đã làm nước bị ô nhiễm, thiếu oxy.

Vịnh Xuân Đài có gần 29.000 lồng nuôi tôm hùm. Hồi năm 2017, hơn 1,6 triệu con tôm hùm của gần 700 hộ dân bị chết, gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tăng cường chuyển giao tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi

Ngành chăn nuôi từng bước chuyển đổi từ phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, quảng canh sang chăn nuôi tập trung với quy mô phù hợp và phát huy những lợi thế của từng vùng, miền, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân.

Nuôi gà thịt lông màu an toàn sinh học

Hàng năm, bằng nguồn kinh phí trung ương và địa phương, hệ thống khuyến nông các tỉnh, thành phố đã triển khai xây dựng được khoảng 450 – 500 điểm trình diễn khuyến nông lĩnh vực chăn nuôi cho khoảng 9.188 hộ nông dân tham gia và hưởng lợi từ các dự án, mô hình này.

Ngoài ra, các cơ quan nghiên cứu, các doanh nghiệp cũng tổ chức hàng trăm điểm trình diễn để chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho người chăn nuôi.

Dưới đây là một số mô hình tiêu biểu có hiệu quả, sức lan tỏa tốt góp phần tái cơ cấu ngành chăn nuôi.

1.  Dự án “Xây dựng mô hình cải tạo đàn bò địa phương bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và vỗ béo bò thịt để đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao tại các vùng chăn nuôi chính”

Dự án chuyển giao với quy mô 1.025 bò được vỗ béo và 616 bò cái nền được thụ tinh nhân tạo (TTNT). Địa bàn triển khai tại 8 tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk, Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Lào Cai, Lạng Sơn và Thái Nguyên.

Mô hình cải tạo đàn bò bằng kỹ thuật TTNT: Phương pháp nhân giống bằng TTNT đã cải thiện được năng suất, chất lượng con lai. Dự án đã góp phần tăng tỷ lệ bò lai trong cả nước nói chung và tại các địa phương triển khai mô hình dự án nói riêng lên 10,25%.

Do đã lựa chọn bò cái nền ở độ tuổi từ 3 – 5 lứa đẻ và chọn tinh bò nhập ngoại có năng suất chất lượng cao (BBB, Drouhtmaster, Brahman), hướng dẫn các hộ cách phát hiện bò động dục để cho tỷ lệ thụ thai cao nên tỷ lệ phối chửa lần 1 khá cao, bình quân đạt 75,3%, khối lượng bê sơ sinh 22,1kg/con. Mỗi con bò lai có giá trị cao hơn bò nội khoảng 3 – 5 triệu đồng. Mặt khác, do không phải chi phí nuôi bò đực giống nên hiệu quả mang lại so với chăn nuôi bò địa phương đạt trên 15%.

Mô hình bò vỗ béo: Bò được tiêm tẩy nội ngoại ký sinh trùng trước khi vỗ béo và cho ăn thức ăn tinh kết hợp với thức ăn xanh một cách hợp lý nên có khả năng tăng trọng nhanh, bình quân đạt 740 gram/con/ngày, vượt so với yêu cầu 40 gram/con/ngày (tương ứng 5,7%). Bò tăng trọng nhanh, lại có giá bán cao hơn bò nội nên hiệu quả kinh tế của các hộ tham gia dự án tăng 14,8% so với chăn nuôi truyền thống. Đến tháng 12/2017 dự án đã có sự tham gia của 184 hộ với quy mô 674 con.

2. Dự án “Xây dựng mô hình nuôi ong mật chất lượng cao trong nông hộ tại các tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung – Tây Nguyên”

Dự án đã chuyển giao với quy mô 1.640 đàn ong, trong đó 600 đàn ong ngoại và 1.040 đàn ong nội tại Đắk Lắk, Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Thái Nguyên, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn La. Năng suất ong ngoại đạt bình quân 41,5kg/đàn, ong nội đạt bình quân 18,3kg/đàn. Sản phẩm mật ong có chất lượng tốt, hiệu quả kinh tế của các hộ tham gia dự án tăng 13,8%. Đến nay, dự án đã nhân rộng được trên 1.000 đàn ong mới, thu nhập bán giống và mật đạt doanh thu ban đầu từ 15 – 35 triệu đồng/hộ.

3. Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi an toàn có kiểm soát dịch bệnh để hướng tới xuất khẩu”

Năm 2017 đã có 72 cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh được công nhận, trong đó 14 cơ sở chăn nuôi lợn và 58 cơ sở chăn nuôi gà với quy mô 1.167.000 con gia súc, gia cầm.

Kết quả của dự án đã góp phần hình thành nên các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Nam Định và Thái Bình.

Dự án đã kiện toàn và thành lập mới 10 tổ hợp tác chăn nuôi. Tỷ lệ tiêm phòng tại các cơ sở chăn nuôi tham gia mô hình đạt 100%. Mô hình của dự án đã trở thành những điểm tham quan học tập của người chăn nuôi trên địa bàn.

4. Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn sinh sản áp dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo và các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất sinh sản tại nông hộ”

Dự án đã xây dựng 6 mô hình với 12 điểm trình diễn tại Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long với quy mô 24 lợn đực giống và 120 lợn nái. Dự án chuyển giao lợn đực giống có năng suất cao như giống Duroc, YL, Pidu… thông qua công tác TTNT, tỷ lệ thụ tinh đạt từ 80 – 86% đã tạo ra đàn lợn có năng suất, chất lượng, nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, năng suất các mô hình trong dự án cao hơn lợn nái đang chăn nuôi tại địa phương.

Số con sơ sinh/nái lứa đầu đạt 11,28 – 12 con. Khối lượng lợn con sơ sinh đạt 1,23 – 1,25kg/con. Hiệu quả kinh tế của các hộ tham gia dự án tăng từ 15 – 18%. Dự án đã góp phần đảm bảo an toàn dịch bệnh cho đàn lợn, thúc đẩy phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn và bền vững.

5. Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi gà thịt lông màu có năng suất, chất lượng, an toàn sinh học”

Dự án đã xây dựng được 6 mô hình trình diễn với quy mô 40.740 con gà Lương Phượng lai, gà Ri vàng rơm lai thương phẩm. Đây là các giống được công nhận tiến bộ kỹ thuật, đưa vào sản xuất chăn nuôi nhằm nâng cao năng suất, chất lượng gà thịt trong chăn nuôi nông hộ. Tỷ lệ nuôi sống đến xuất chuồng đạt 94,5%, khối lượng cơ thể 2kg/con.Dự án đã giúp nâng cao nhận thức, khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật cho các hộ tham gia mô hình và các hộ trong địa bàn triển khai.

Thông qua hoạt động của các dự án khuyến nông chăn nuôi, hàng nghìn nông dân đã được học tập kinh nghiệm chăn nuôi an toàn sinh học, phòng chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm,… góp phần phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện thành công nhiệm vụ tái cơ cấu ngành và xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nguồn: nognghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cá Măng thương phẩm

Cá măng là loài cá ăn tạp, thức ăn chủ yếu của chúng là các sinh vật nhỏ, mùn bã hữu cơ, rong tảo…

Cá Măng

Với những đặc điểm của cá măng như: nhanh lớn, ít dịch bệnh, có thể nuôi ghép, chất lượng thịt của cá cao, dễ tiêu thụ… nên cá măng là một trong những loài thích hợp cho mục đích đa dạng hóa các đối tượng trong nuôi trồng thủy sản.

I. Một số đặc điểm sinh học của cá măng

1. Hình thái cấu tạo

Cá có thân dài và dẹp bên, đầu to, vừa. Lưng có màu xanh lục, lườn và bụng có màu trắng, mép vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi đều có viền đen, vây ngực và vây bụng đen ở gốc. Chiều dài thân cá không kể đuôi gấp 3,5 lần chiều cao thân.

2. Đặc điểm phân bố của cá măng

Cá măng là loài cá rộng nhiệt. Ở nước ta, cá phân bố ở phía đông vịnh Bắc bộ và vùng biển Trung bộ. Cá lớn nhanh ở nhiệt độ 28-300C, nhiệt độ dưới 150C cá phải được trú đông. Cá măng sống rộng muối, cá trưởng thành sống ở ngoài khơi. Ấu trùng sau khi nở sẽ di chuyển vào bờ, và lớn lên ở vùng đầm, cửa sông nước lợ hay có thể vào sâu trong sông hồ nước ngọt. Độ mặn tốt nhất cho sự tăng trưởng của cá là 15- 250/00.

3. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá măng

Trong tự nhiên, thức ăn của cá măng chủ yếu là phiêu sinh thực vật. Vì vậy, cá có cấu trúc mang với rất nhiều lược mang có tác dụng lọc và tập trung thức ăn. Cá con ăn phiêu sinh thực vật, phần lớn là mùn bã hữu cơ và các chất vẩn trong nước hay đáy thủy vực. Cá có tập tính ăn ban ngày vào lúc 7 giờ và 13 giờ. Sau 3 tuần tuổi, cá măng có đặc tính ăn các loại lab-lab bao gồm các loại tảo lam, tảo lục, tảo khuê và giáp xác, ấu trùng côn trùng, giun đất; mùn bã hữu cơ làm thức ăn chủ yếu nên góp phần giải quyết các chất cặn bã tiềm ẩn trong ao nuôi, giúp cải thiện và đảm bảo tính ổn định về môi trường.

Ngoài ra, trong điều kiện nuôi, cá măng cũng có thể thích nghi và sử dụng tốt các thức ăn nhân tạo như thức ăn công nghiệp dạng viên hạt hay thức ăn tự chế biến.

4. Đặc điểm sinh sản của cá măng

Tùy từng vùng với điều kiện môi trường tự nhiên khác nhau, tuổi thành thục của cá măng cũng khác nhau. Cá cái thông thường thành thục ở 5-6 năm tuổi, cá đực ở 4 năm tuổi. Mùa vụ sinh sản của cá bắt đầu từ khoảng tháng 4-5. Mùa vụ sinh sản có thể kéo dài và có thể đẻ nhiều lần trong năm. Cá thường di cư sinh sản vào những kỳ trăng non, lúc nước cường.

II. Chuẩn bị ao nuôi và thả cá măng giống

Ao nuôi: Có diện tích từ: 1.000 – 5.000 m2, ao nuôi có nguồn nước cấp chủ động, có cống cấp và cống thoát riêng biệt.

1. Chuẩn bị ao nuôi cá măng

Trước khi nuôi, chuẩn bị ao thật kỹ là khâu rất quan trọng quyết định đến tỷ lệ sống của cá nuôi và năng suất thu hoạch. Các bước tiến hành như sau:

– Tiến hành cải tạo ao: Tháo cạn ao, vét bùn đáy, chỉ để lớp bùn đáy dày 5-10 cm, lấp kín hang hốc, diệt tạp để hạn chế địch hại.

– Bón vôi nung CaO: với liều lượng 10 kg/100m2. Phơi đáy ao trong thời gian từ 3 – 5 ngày.

– Lấy nước vào ao qua lưới lọc. Mực nước trong ao ban đầu khoảng 0,8 – 1,2m.

– Kiểm tra các yếu tố môi trường nước trước khi thả cá giống:

+ Độ mặn: 10 – 300/00; + Độ pH: 7,5 – 8,5;

+ Nhiệt độ: 25 – 320C; Trong việc chuẩn bị ao, vấn đề quan trọng là phải tạo được lớp lab-lab và phiêu sinh vật cho cá.

1.1 Tạo lab-lab

Cho nước vào tiếp khoảng 10 cm. Bón phân DAP với lượng 50-100kg/ha. Mỗi ngày thêm 5cm nước, sau đó làm đầy đến mức nước 0,8-1,2m đối với ao nuôi thương phẩm. Để duy trì sự phát triển liên tục của lab-lab trong quá trình nuôi, định kỳ bón 15kg phân DAP/ha/7–10 ngày. Trước khi thu hoạch 20 ngày nên ngừng bón phân. Đáy ao cứng và nước mặn 25-320/00 là điều kiện tốt để tạo lab-lab.

1.2 Tạo phiêu sinh vật

Phương pháp gây màu nước tạo phiêu sinh vật không giống như phương pháp tạo lab-lab do yêu cầu mức nước sâu hơn và thường gây màu tạo phiêu sinh vật vào mùa mưa trong khi tạo lab-lab vào mùa nắng. Gồm các bước như:

a.Tháo cạn đáy ao rồi tiến hành các bước cải tạo ao nuôi.

b. Sau đó lấy nước mới qua lưới lọc đến độ sâu 60cm.

c. Bón phân vô cơ DAP với lượng 15kg/ha. Sau đó tăng dần mức nước trong ao lên đến 1,2m.

d. Sau khi bón phân 1 tuần thì thả cá giống.

e. Mỗi tuần bón phân với liều lượng trên để duy trì độ trong của nước: 25- 35cm.

2. Cách thả cá măng giống

Thời gian thả cá giống thích hợp nhất từ tháng 3 – tháng 5 dương lịch. Mật độ thích hợp cho nuôi thương phẩm là 1 – 2 con/m2.

Cỡ cá giống: ≥4cm/con, kích cỡ đồng đều. Ngoại hình cá cân đối, màu sắc cá tươi sáng, vây, vẩy hoàn chỉnh, cá không bị xây xát, bơi lội nhanh nhẹn, không có dấu hiệu cá bị bệnh.

III. Hướng dẫn cách chăm sóc cá và quản lý ao nuôi cá măng

1. Cho cá măng ăn  

– Ngay sau khi thả cá giống, chọn vị trí thích hợp cho cá ăn  tập trung, đúng giờ. Ngoài thức ăn tự nhiên là lab-lab, thức ăn cho cá măng: chủ yếu sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi dành cho cá, có độ đạm từ 25 – 40%. + Cho cá ăn 2 lần/ngày (buổi sáng từ 6 – 7 giờ, buổi chiều từ 18 – 19 giờ).

+ Khi cá còn nhỏ, cho cá ăn 2 lần/ngày với khẩu phần từ 3 – 5% trọng lượng thân.

+ Khi cá đạt trọng lượng ≥300g/con, cho cá ăn 1 lần/ngày với khẩu phần giảm dần còn 2% trọng lượng thân.

+ Kiểm tra thức ăn sau 02 giờ để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

– Cần định kỳ bổ sung thêm vitamin C và Premix khoáng, men tiêu hóa vào thức ăn khi cho cá. Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể, có thể dùng kháng sinh phòng trị bệnh trong quá trình chăm sóc cá. 2. Quản lý các yếu tố môi trường nước

– Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường nước trong ao nuôi và kết hợp lịch thủy triều để thay nguồn nước tốt. Mỗi lần thay nước khoảng 20 – 30% lượng nước trong ao nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường ao nuôi, kích thích cá phát triển. Khi nước trong ao có nhiều chất lơ lửng, nổi bọt khí, hoặc nước quá trong, thì thay nước ngay.

– Quản lý chất lượng nước trong điều kiện thích hợp là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc nuôi. Trong những ngày mưa hay trời mát kéo dài, lab-lab có thể bị chết, dẫn đến thiếu oxy, do đó cần có biện pháp xử lý khi cần thiết như thay nước, sục khí…

– Trong 2 tuần đầu tiên, cấp thêm nước vào ao cho đến khi đạt mực nước 1,5m để giúp cá thích nghi dần với môi trường nước mới.

– 2 tuần tiếp theo, thay từ 10 – 20% lượng nước trong ao.

– Từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 3: lợi dụng thủy triều hoặc dùng bơm để thay nước trong ao ít nhất 2 lần/tuần, mỗi lần thay 30% lượng nước trong ao.

– Từ tháng thứ 3 trở đi: Thường xuyên thay nước, mỗi lần thay 30% lượng nước trong ao hoặc nhiều hơn khi nước trong ao nuôi bị ô nhiễm.

– Định kỳ đánh Zeolite để xử lý đáy ao 2 lần/tháng, với liều lượng 10 – 20kg/1000m2. – Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước như: pH, độ mặn, màu nước, oxy hoà tan, nhiệt độ nước… Duy trì các chỉ số ổn định trong giới hạn thích hợp, bảo đảm cho cá phát triển bình thường trong suốt thời gian nuôi. Cụ thể như sau:

+ pH:  7,5 – 8,5

+ Nhiệt độ:  25 – 320C

+ Độ mặn: 10 – 30 0/00

+ Độ trong: 25 – 35cm

3. Hướng dẫn cách chăm sóc cá măng

– Khi cá lớn với mật độ dày, có thể chủ động quạt nước về đêm hoặc gần sáng để đảm bảo đủ oxy cho cá nuôi.

– Theo dõi thường xuyên và quan sát màu sắc da cá, hoạt động bắt mồi của cá để phát hiện bệnh cá và có biện pháp xử lý kịp thời.

– Định kỳ thu mẫu để kiểm tra sức khỏe cũng như tốc độ tăng trưởng của cá. Ghi chép các số liệu về tốc độ tăng trưởng, lý do cá chết, cách xử lý. Vớt bỏ cá bị chết để ngăn chặn việc lây lan bệnh.

Thu hoạch cá măng

– Tùy theo cỡ cá giống thả mà thời gian nuôi khác nhau, từ 8 đến 10 tháng. Với cỡ cá giống ≥ 4  cm/con, sau 8 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân  0,7kg/con. Kích cỡ cá thu hoạch tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách hàng.

– Tránh làm trầy vảy hoặc tổn thương cá khi thu hoạch để đảm bảo giá trị thương phẩm của cá.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cách phân biệt các loại dây Lạc Tiên

Vị thuốc cây chùm bao hay con gọi là cây nhãn lòng trong y học cổ truyền thường dùng là bộ phận trên mặt đất của cây lạc tiên (Passiflora foetida L.). Ở Việt Nam có tới 15 loài, trong đó chỉ có loài P.foetida được dùng làm thuốc an thần gây ngủ.

Lạc tiên là loại dây leo bằng tua cuốn. Thân mềm tròn và rỗng, có lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, thùy giữa lớn hơn hai thùy bên, mép uốn lượn có lông mịn. Gốc lá hình tim, đầu lá nhọn. Hoa to, đều, lưỡng tính, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, 5 cánh, màu trắng hoặc hơi tím. Quả mọng, hình trứng, dài độ 3cm, bao bọc bởi tổng bao lá bắc tồn tại. Lạc tiên mọc hoang và được trồng ở nhiều vùng nước ta. Để làm thuốc, người ta thu hái các bộ phận trên mặt đất, rửa sạch, phơi khô, cắt đoạn 3-5cm. Trước khi dùng sao hơi vàng, dùng dần.

Trường hợp ngủ không yên giấc: sắc riêng 20 – 40g lạc tiên khô, uống.

Trường hợp tim hồi hộp, loạn nhịp, mất ngủ, lo âu, đau đầu, choáng váng:

Lạc tiên nấu thành cao lỏng với tỷ lệ 1 phần lạc tiên 1 phần nước, pha thêm chút đường cho dễ uống, ngày 2-3 lần, mỗi lần 50 -100ml, sau mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cũng có thể phối hợp với một số dược liệu an thần khác như lạc tiên, lá vông, lá dâu, lá sen, mỗi loại 20g, tâm sen 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống 2-3 tuần, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.

– Trong dân gian, bà con ta thường thu hái quả, rửa sạch, bổ đôi, nạo hết ruột, ép và lọc lấy dịch quả, thêm ít nước đun sôi để nguội và chút mật ong hoặc đường đủ ngọt để uống. Dịch quả lạc tiên thơm, ngon, bổ, mát; thích hợp cho giải nhiệt mùa hè. Hoặc hái phần ngọn và lá non của lạc tiên mỗi lần khoảng 100 – 200g nấu canh ăn giúp ngủ ngon.

Phân biệt các loại lạc tiên:

Ngoài loài lạc tiên nói trên, để tránh nhầm lẫn, cần lưu ý tới một số loài khác cũng mang tên lạc tiên.

– Lạc tiên Nam Bộ (Passiflora cochinchinensis  Spreng) cũng là cây leo nhưng cành hơi dẹt, có khía rãnh. Lá thuôn hẹp, gốc lá và đầu lá hơi tròn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có ít lông. Cụm hoa màu trắng. Quả nhỏ hình trứng nhẵn. Cây này không được dùng làm thuốc an thần như lạc tiên nói trên.

Lạc tiên Nam Bộ

– Lạc tiên tây (Passiflora incarnata L.): là dây leo, dài đến 9 – 10m. Thân có rãnh dọc, vỏ màu xám nhạt, sau chuyển màu đỏ tía, khi non có lông mịn. Lá mọc so le, ba thùy, mép có răng cưa, có tua cuốn ở kẽ lá. Hoa to, màu trắng, thơm, có cuống dài, màu tím hoặc hơi hồng. Quả hình trứng. Khi chín có màu vàng. Quả có vị chua, chứa vitamin. Có tác dụng bổ mát, giải nhiệt.

Lạc tiên tây

– Lạc tiên trứng, còn gọi là dây mát (Passiflora edulis Sím): Là dây leo, mảnh, dài hàng chục mét. Thân mềm, hình trụ, có rãnh dọc, nhiều lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, nhẵn, mép khía răng cưa, gốc lá hình tim, có hai tuyến nhỏ, đầu lá nhọn. Hoa mọc riêng ở kẽ lá, có cuống dài, màu trắng. Quả mọng hình trứng, khi chín màu da cam.

Lạc tiên trứng

Ở  nước ta, dây mát mọc hoang ở vùng Kỳ Sơn, Nghệ An. Dây mát cho quả thơm ngon, vỏ quả chứa nhiều vitamin C, axít hữu cơ, tanin, đường, các nguyên tố vi lượng: Si, K, P… Dịch quả cũng chứa nhiều vitamin C, tinh dầu, axít amin và  β- caroten. Quả lạc tiên trứng được dùng làm thực phẩm, pha chế đồ uống, đồ hộp, bánh kẹo, kem, đồ tráng miệng sau bữa ăn và làm thuốc bổ có tác dụng kích thích thần kinh và giúp cho việc tiêu hóa được tốt hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chi phí và lợi nhuận cho một vụ Lúa

Trong sản xuất cây lúa hay bất cứ các cây trồng nào khác, muốn có lợi cao, thường phải có năng suất cao và bán được giá lời.

Về năng suất thì phụ thuộc giống tốt hay xấu, kỹ thuật tiên tiến hay lạc hậu, thời tiết có thuận hòa không. Về giá cả thì thường phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng hơn là phụ thuộc vào người sản xuất. Nhưng năng suất và chất lượng của sản phẩm thì chủ yếu là phụ thuộc vào người sản xuất, là yếu tố chủ quan.

Để có được năng suất cây trồng cao cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cả khách quan và chủ quan…

Về yếu tố khách quan, đó là thời tiết thuận lợi. Yếu tố này là yếu tố vũ trụ, con người khó kiểm soát. Tuy nhiên có kinh nghiệm và có kỹ thuật cao thì con người vẫn có thể khắc phục hay né tránh được các điều kiện khách quan để có được năng suất cây trồng cao và ổn định (trường hợp của Israel sống trên sa mạc mà vẫn sản xuất được mọi loại rau, cây trái năng suất cao, chất lượng tốt).

Về yếu tố lời, lỗ thì vừa phải kết hợp năng suất cao vừa phải kết hợp nguồn chi phí đầu tư hợp lý, bất kể giá bán cao hay thấp. Vậy làm sao để thực hiện được các khoản chi phí thấp mà vẫn đạt được năng suất cao, chất lượng tốt.

Để trả lời câu hỏi này ta hãy tham khảo kết quả chương trình sản xuất lúa thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu, do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã thực hiện từ năm 2016 đến 2017.

Các số liệu thu được trong tài liệu này là do các cán bộ khuyến nông các huyện cùng theo dõi, tính toán với người nông dân mà có, vả lại đây là số liệu thu được mỗi vụ từ 65 nông dân thực hiện tại 13 tỉnh ở ĐBSCL, đại diện cho các vùng tiểu sinh thái khác nhau, vì vậy các thông tin này rất đáng tin cậy.

1. Vụ đông xuân năm 2015 – 2016:

Dưới tiêu đề “Từ ruộng vườn đến trường quay”. Vụ này với mục tiêu là biến ruộng đồng thành trường học, cán bộ kỹ thuật và nông dân cùng nhau ra đồng để trao đổi về cách làm lúa có lời cao. Chỉ tiêu chủ yếu trong vụ này là sử dụng loại phân hợp lý, chưa đề cập đến giảm lượng giống sạ, lượng giống sạ giữa mô hình và trong ruộng của dân vẫn 140kg/ha.

Thế nhưng trong mô hình nhờ sử dụng loại phân Đầu trâu có chất lượng cao, đầy đủ dinh dưỡng, nên dù chất N giảm xuống 29%, mà năng suất lúa của mô hình vẫn cao hơn đối chứng 754kg/ha.

Trong vụ này bình quân 65 mô hình có chi phí là 15.172.000đ/ha, còn bình quân ruộng đối chứng có chi phí 16.441.000 đ/ha, cao hơn ruộng mô hình là 1.269.000đ/ha. Nhờ vậy mà tiền lời thu được trong ruộng mô hình cao hơn đối chứng là 7.760.000 đ/ha.

2. Vụ hè thu năm 2016:

Quy mô thực hiện cũng trải khắp 13 tỉnh, 65 nông dân cùng tham gia. Vụ này tiêu chí đặt ra là mô hình phải giảm lượng giống sạ còn 80kg/ha,đồng thời vẫn sử dụng phân Đầu Trâu để giảm số lượng bón. Áp dụng các kỹ thuật làm giảm phèn mặn, quản lý nước và sâu bệnh đồng bộ. Vụ này chi phí của mô hình là 15.947.000 đ, còn ở ruộng đối chứng là 16.958.000 đ, vẫn cao hơn mô hình là 1.101.000 đ/ha. Năng suất ruộng trong mô hình cao hơn đối chứng 496kg thóc/ha. Nhờ vậy làm giá thành cũng hạ hơn đối chứng là 420 đ/kg thóc, nên cuối cùng ruộng mô hình vẫn có lời hơn đối chứng 3.660.000 đ/ha.

3. Vụ đông xuân năm 2016-2017:

Xét về chi phí đầu tư cả mô hình và đối chứng tương đương nhau. Nhưng do mô hình có năng suất lúa cao hơn đối chứng là 775 kg/ha, nên cuối cùng lợi nhuận của mô hình cũng cao hơn đối chứng 4.960.000đ/ha.

4. Vụ hè thu năm 2017:

Về suất đầu tư thì mô hình vẫn giữ mức sạ 80kg, còn đối chứng dân vẫn sử dụng 150kg/ha và phân bón sử dụng cũng cao hơn mô hình, nên tổng chi phí của ruộng đối chứng bình quân 15 địa điểm là 17.551.429 đ, còn ở mô hình chi phí là 15.619.136 đ/ha, thấp hơn ruộng đối chứng là 1.932.293 đ/ha. Trong đó chi cho giống cao hơn mô hình là 676.100 đ, phân bón là 348.350 đ; thuốc bảo vệ thực vật là 1.025.522 đ; chi phí khác là 324.534 đ/ha. Thực tế năng suất lúa khô của mô hình cao hơn đối chứng là 601kg/ha,dẫn đến giá thành hạ là 695 đ/kg thóc nên lợi nhuận của mô hình cao hơn đối chứng 5.792.398 đ/ha.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây Lạc Tiên (Phần 2)

B. Bệnh hại

Phòng và trị bệnh cho cây lạc tiên để cây có chất lượng trồng tốt nhất

1. Bệnh do vi khuẩn

* Bệnh đốm dầu do vi khuẩn: (Pseudomonas passiflorae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh gây hại trên lá, thân và quả dẫn đến sự mất mùa thậm chí có thể gây chết cây. Trên lá bệnh tạo nên những vết thương từ mầu oliu tới màu nâu, thường bao quanh bởi quầng sáng màu vàng nhạt, bệnh nặng dẫn đến rụng lá, trên thân còn non, dấu hiệu đầu tiên của sự xâm nhiễm là những vết lõm màu xanh đen, mọng nước. Sau sẽ phát triển thành màu nâu sáng, có viền rõ ràng với phần không bị bệnh.

Trên thân gỗ già, triệu chứng ban đầu là những đốm nhỏ hình tròn có màu xanh đen, hơi lõm xuống, sau đó lan rộng ra và có màu nâu tối, những vết bệnh này bao quanh chồi non và gây chết cây. Những dấu hiệu đầu tiên của sự nhiễm bệnh trên trái là trái nhỏ, màu xanh tối, vết bệnh phát triển thành những vòng tròn, thô nhám, mảng lốm đốm mọng nước, làm trái rụng sớm và thối trái. Đốm dầu thường xảy ra vào mùa thu và mùa khô.

* Bệnh héo rũ vi khuẩn: (Pseudomnas syringae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Loài vi khuẩn này có mối liên hệ mật thiết đối với mầm bệnh của vi khuẩn gây bệnh đốm dầu. Triệu chứng của 2 loại bệnh này tương tự nhau, và cách thức phòng trừ cũng giống nhau. Nếu quản lý tốt bệnh đốm dầu thì bệnh héo vi khuẩn sẽ ít có khả năng xuất hiện.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Sau khi thu hoạch, thu gom sạch tàn dư của cây, đặc biệt là những cây bị bệnh và cỏ trên vườn đem tiêu hủy để hạn chế nguồn bệnh ban đầu trên đồng ruộng cho vụ sau. Không nên trồng dày để vườn luôn thông thoáng, giảm bớt độ ẩm trong ruộng. Bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali, tăng cường bón thêm phân hữu cơ, vôi bột và phân kali hoặc tro trấu cũng có tác dụng làm giảm tác hại của bệnh. Kiểm tra vườn để phát hiện và nhổ bỏ sớm những cây bị bệnh đem tiêu hủy để tránh lây lan ra cây khác. Sau khi nhỏ bỏ bón vôi bột vào chỗ vừa nhổ để khử trùng đất.

Biện pháp hoá học: Tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất: Copper hydroxideCopper  Oxychloride + KasugamycinCopper Oxychloride 50% + Metalaxyl 8%Ningnanmycin phun xịt khi cây chớm bệnh.

2. Bệnh đốm nâu: (Alternaria passiflorae)

–  Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Đây là một bệnh nghiêm trọng, ảnh hưởng đến lá, thân và quả, xuất hiện vào mùa xuân và đầu mùa hè.

Trên lá, đầu tiên xuất hiện những đốm màu nâu nhỏ, sau đó lan rộng ra thành đốm lớn có tâm màu sáng và có hình dạng bất định. Trên thân, vết bệnh có hình thon dài với màu nâu đen, thường xuất hiện gần nách lá hoặc gân lá (do bị tổn thương cơ giới, cây bị chảy nhựa). Khi vết bệnh bao quanh thân cây thì chồi non sẽ bị héo, quả teo lại và rụng sớm. Trên quả, vết bệnh đầu tiên chỉ nhỏ như mũi kim sau lan rộng thành những vòng tròn lớn với vết nâu lõm có tâm màu nâu. Dần dần phần vỏ quả xung quanh vết bệnh bị nhăn nheo và quả bị rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, loại bỏ lá bệnh và những cành kém hiệu quả để cây thông thoáng.

Biện pháp hóa học: Sử dụng các thuốc hoạt chất Azoxystrobin (Amistar 250SC); hoặc hỗn hợp thuốc Mancozeb + Metalaxyl-M (Ridomil GoldÒ68WP);  Difenoconazole (Score 250EC); Chlorothalonil (Daconil 500SC); hoặc Thiophanate – Methyl (Topsin M 70WP) để phòng trừ.

Chú ý phun vào những đợt lá ra vào đầu mùa mưa.

3. Bệnh đốm xám: (Septoria passiflorae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh tấn công các bộ phận lá, thân, và quả, gây hại nặng có thể làm rụng lá, rụng quả sớm dẫn đến giảm năng suất. Bệnh thường xuất hiện trong suốt mùa hè và mùa thu.

Trên lá, vết bệnh thường không có hình dạng cố định, chỉ là những đốm nhỏ màu nâu sáng, nhanh chóng lan rộng và làm lá rụng. Trên thân, vết bệnh xuất hiện tương tự như ở trên lá. Nhưng có đặc điểm vết bệnh thường lõm sâu vào trong thân. Trên quả, vết bệnh đầu tiên cũng là những đốm nhỏ, tương tự như trên lá và thân. Sau đó những đốm này tạo thành những vết thương tổn lớn gây nên hiện tượng rụng lá và quả.

–  Phòng trừ bằng biện pháp hoá học: Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất: Azoxystrobin + Difenoconazole (Amistar top 325SC); Mancozeb + Metalaxyl – M (Ridomil GoldÒ 68WP); Carbendazim (Carbenvil 50SC); Cuprous Oxide (Norshield 86.2WP)

4. Bệnh thối hạch: (Sclerotinia sclerotiorum)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trên thân, vết bệnh lan rộng làm bong lớp vỏ, làm gãy đổ chồi non. Các hạch nấm màu đen, cứng hình thành là nguyên nhân làm cho bệnh lây lan từ vụ này qua vụ khác và thường ảnh hưởng đến chồi ngọn. Loài nấm này cũng có thể gây hại trên trái, vết bệnh lan nhanh và có màu nâu nhạt bao phủ toàn bộ trái, cuối cùng trên trái sẽ hình thành các hạch nấm màu đen có nhìn thấy bằng mắt thường, lúc này trái sẽ bị rụng. Bệnh này phát triển thuận lợi trong điều kiện ẩm ướt kéo dài và nhiệt độ từ 15 -200C.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn trồng, tiêu hủy tàn dư cây bệnh. Trồng mật độ hợp lý, tỉa bỏ bớt lá già, lá gốc để tạo độ thông thoáng, tránh ẩm độ cao trong đất.

Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo dùng một số loại thuốc có hoạt chất IprodioneTrichoderma spp.

5. Bệnh héo rũ: (Fusarium avenaceum, Giberella, baccata, Gibberella saubinetii)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trong điều kiện thời tiết ẩm ướt, nấm bệnh phát triển nhanh, vết bệnh có thể xuất hiện trên cả cổ rễ và thân. Đầu tiên cây có biểu hiện vàng lá sau đó thân lá và trái héo rũ xuống và chết dần. Ở phần thân, nơi tiếp xúc với mặt đất, các bó mạch dẫn bị nấm tấn công tạo các vết bệnh nâu đen vòng quanh thân làm cho nước và dinh dưỡng không thể truyền được từ rễ lên, gây hiện tượng héo rũ thân lá dẫn đến chết cây.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Hạn chế việc tạo vết thương cho cây trong quá trình chăm sóc, bón phân, tỉa cành, làm cỏ, giữ cho vườn luôn sạch sẽ. Phòng trừ tốt các loại bệnh do nấm và các loài sên, nhớt. Phần gốc cây cần được bảo vệ chống lại ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ và đặt các viên thuốc để dẫn dụ sên nhớt đến tiêu diệt. Những cây bị bệnh cần được di chuyển cẩn thận, đem phơi khô và đốt.

Biện pháp hoá học: Sử dụng các loại thuốc Trichoderma 3,2 x 10bao tử/g sử dụng 3kg/1000mtrộn với phân chuồng hoặc phân vi sinh bón vào đất.

6. Bệnh thối rễ:

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại:

Gây ra bởi Phytophthora cinnamomi thường hoạt động vào mùa hè và mùa thu và Phytophthora megasperma thường hoạt động mùa xuân. Cả 2 loại nấm này đều tấn công trên cây trưởng thành ngoài vườn lẫn trong vườn ươm gây chết cây, nhưng tác hại chính của chúng là nguyên nhân mở đường cho sự tấn công của nấm Fusarium và chết cây do thối ngọn.

Phytophthora cinnamomi là một loại nấm rễ gây bệnh tắc mạch dẫn và gây chết đối với nhiều loài thực vật. Bệnh phát triển mạnh trong môi trường ẩm và ký sinh trên rễ và mô thân gần gốc. Bệnh làm suy yếu hoặc giết chết cây vì gây cản trở việc vận chuyển nước và dinh dưỡng trong cây. Trên cây trưởng thành xuất hiện các triệu chứng cháy lá. Lá chuyển sang màu xanh nhạt rồi chuyển sang màu đồng. Trên trái xuất hiện các vết bệnh lớn, màu xám. Hoa và trái xanh của cây bệnh rất dễ bị rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Điều chỉnh chế độ tưới nước cho phù hợp cũng là biện pháp để giảm sự tấn công của bệnh. Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Thuốc gốc đồng, Fosetum aluminium,

7. Virus:

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Các nhà khoa học trên thế giới đã tìm ra 16 loài virus gây hại trên cây Lạc tiên, trong 16 đó có 2 loại nguy hiểm nhất là PWV và CABMV là nguyên nhân gây ra các vết khảm lá, làm lá nhăn nheo, trái bị biến dạng, gỗ hoá, giảm sự sinh trưởng, phát triển của cây.

Tại Lâm Đồng, việc xác định chính xác có bao nhiêu loại virus gây hại cây Lạc Tiên và phân biệt triệu chứng từng loại chưa được thực hiện, hiện tại các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên có thể nhận biết chung các loại vius qua các triệu chứng như sau:

+Trên trái: Các cây bị virus gây hại trái thường có màu sắc nhợt nhạt, chuyển sang trạng thái khô cứng. Bệnh gây hại nặng có thể làm trái sinh trưởng không bình thường, chuyển sang màu vàng, bị biến dạng, méo mó, khô lại, da quả nhăn nheo, bóp không vỡ, héo khô và rụng nhiều.

Ngoài ra một số vườn trên trái xuất hiện các đốm màu nâu nhạt có thể xuất hiện trên trái bình thường hoặc các trái đã bị biến dạng, méo mó, vỏ quả trở nên dầy và cứng hơn bình thường. Các đốm này có thể hình tròn, màu sắc nhợt nhạt với các đám tập trung đường kính khoảng 3 -7mm. Chúng phát triển dần và lan rộng ra, không có hình dạng nhất định, xuất hiện ở tất cả các vị trí trên trái. Ở các trái chín các đốm bệnh thường trở nên đậm và sáng. Nếu xuất hiện trên trái vẫn còn xanh, tâm của vết bệnh có màu xanh xám. Cuối cùng nhiều vết bệnh liên kết với nhau tạo thành các đốm lớn màu xám trắng.

+ Trên lá: Có rất nhiều các vết lốm đốm nhỏ màu vàng loang lổ trên lá, các đốm này có thể xuất hiện rời rạc hoặc lẫn với các đốm bệnh khác trên lá. Lúc đầu có hình dạng tròn, nhưng khi lan rộng thì nó không có hình dạng nhất định. Và thỉnh thoảng có tâm màu vàng. Vết bệnh cũng có thể xuất hiện ở trên dây hoặc trên cuống lá. Triệu chứng biểu hiện rõ nhất là trên lá già. Lúc đầu các vết bệnh màu vàng nhạt về sau chuyển sang màu vàng sáng, mép lá có những nếp nhăn, méo mó. Lóng trên thân ngắn, tán lá mọc thành chùm, cây chậm sinh trưởng. Gân lá phình to. Ngọn bị vàng và không phát triển được.

+ Trên thân: Các đốm màu xanh sáng có thể xuất hiện ở trên thân và cuống lá của những cây bị ảnh hưởng và rất dễ nhận thấy trên đồng ruộng.

– Sự lan truyền bệnh:

Đầu tiên virus lan truyền bởi quá trình ghép, qua các dụng cụ ghép từ cây bệnh vào trong cây khỏe. Ngoài ra quá trình cắt tỉa cành bằng dao, kéo cũng làm cho virus lây lan. Không có sự lan truyền qua hạt giống, mà có thể lây lan trong quá trình vận chuyển.

Các loài rệp như rệp muội Aphis gossypii rệp đào Myzus Persicae, bọ phấn và các loài chích hút là các môi giới truyền bệnh virus gây hại Lạc tiên.

– Biện pháp phòng trừ tổng hợp:

Giống: Hiện tại chưa có giống kháng bệnh rõ rệt, vì vậy cần nghiên cứu cho ra các giống mới ít nhiễm bệnh virus, chống chịu được sâu bệnh, thích nghi với điều kiện địa phương.

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn trồng, cắt tỉa chồi, lá bệnh, quả bệnh đem tiêu hủy, tưới đủ nước, giữ nước trong mùa khô, luân canh cây trồng, không trồng Lạc tiên trên đất đã trồng các cây họ cà: cà tím, ớt, khoai tây, thuốc lá và dưa chuột vì các loại cây trồng này đều là ký chủ của loài virus, bón phân cân đối và hợp lý, tránh bón quá nhiều đạm nhất là trong mùa mưa. Trong quá trình cắt tỉa từng cây cần có biện pháp xử lý tiệt trùng dụng cụ bằng xà phòng hoặc Na2PO4 (3%) để tránh lây nhiễm từ cây cây bị bệnh sang cây khỏe.

Biện pháp khác: Đối với virus hiện tại chưa có loại thuốc hóa học nào có khả năng phòng trừ hiệu quả. Vì vậy biện pháp quản lý tốt các môi giới truyền bệnh có ý nghĩa rất quan trọng.

Dùng bẫy dính màu vàng để thu hút trưởng thành các loại côn trùng chích hút, dùng giấy bạc, tạo ánh sáng phản xạ xua đuổi côn trùng chích hút, dùng lưới côn trùng quây quanh để bảo vệ vườn trồng.

+ Phòng trừ triệt để ngay từ đầu một số đối tượng trung gian lây truyền virus như các loại rệp, bọ phấn và các loài chích hút bằng các biện pháp như đã hướng dẫn ở trên.

8. Tuyến trùng:

Lạc tiên có 4 loài tuyến trùng gây hại gồm Pratylenchus spScutellonema truncatumHelicotylenchus sp; Meloidogyne javanica. Tuyến trùng không nhìn thấy được bằng mắt thường, kích thước thấy được khi được soi qua kính hiển vi điện tử. 4 loài tuyến trùng đều tấn công bộ phận rễ cây chúng xâm nhập vào rễ theo vết thương cơ giới, hệ thống mạch dẫn của rễ như hệ thống dẫn nước, dinh dưỡng.

Khi chúng xâm nhập vào bộ phận rễ, chúng hút dinh dưỡng để sống, tuyến trùng tấn công vào rễ làm cho bộ rễ phình to lên ở những đoạn có thành phần Kitin, xenlulo kém, khi bộ rễ phình to sẽ làm tắc hệ thống dẫn nước, dinh dưỡng sẽ làm cho cây Lạc tiên héo một cách bất thường, làm lá vàng, quả non rụng giống như triệu chứng thiếu nước.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Bón phân cân đối, chọn giống tốt, chống chịu với sâu bệnh… vệ sinh vườn trồng ngắt tỉa cành lá, tạo độ thông thoáng cho cây.

Biện pháp hóc học: Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Carbosunfan, Ethoprophos xử lý theo liều lượng khuyến cáo

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây Lạc Tiên (Phần 1)

A. Đối với sâu hại

Hiện nay, chưa có danh mục thuốc bảo vệ thực vật đăng ký sử dụng cho cây Lạc tiên. Tuy nhiên, đây là cây ăn quả, dư lượng thuốc BVTV có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người sử dụng. Do vậy, khuyến cáo các tổ chức, cá nhân canh tác cây Lạc tiên nên sử dụng các loại thuốc có tên trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên cây ăn quả và cây rau.

Lạc tiên

Lưu ý: Các loại thuốc khuyến cáo sử dụng như trong phần biện pháp phòng trừ chỉ mang tính chất tham khảo, cần phải được thử nghiệm trên diện tích nhỏ trước khi triển khai áp dụng đại trà để tránh gây thiệt hại trong sản xuất.

1. Nhện đỏ

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Nhện đỏ có kích thước cơ thể rất nhỏ, lấm tấm như cám, mắt thường khó phát hiện. Con trưởng thành đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới của phiến lá. Trứng hình tròn, lúc mới đẻ có mầu trắng hồng, sau đó chuyển sang hồng. Sau khi đẻ khoảng 4-5 ngày thì trứng nở ra ấu trùng. Ấu trùng có mầu xanh lợt (lúc mới nở chỉ có 6 chân, từ tuổi 2 trở đi cho đến khi trưởng thành chúng có 8 chân), khi lớn chuyển dần sang mầu nâu đỏ. Cả ấu trùng và trưởng thành đều sống tập trung ở mặt dưới phiến lá của những lá  non đang chuyển dần sang giai đoạn bánh tẻ.

Triệu chứng: Nhện đỏ gây hại bằng cách hút dịch của mô tế bào lá làm cho mặt trên của lá bị vàng loang lổ, nếu mật độ cao làm lá bị xoăn lại, lá mau rụng và chậm ra lá non. Gặp điều kiện thuận lợi sinh sản rất nhanh, làm cho từng mảng lớn của lá bị vàng, khô, thậm chí toàn bộ lá bị khô cháy và rụng. Hoa bị thui chột không đậu trái được, trái non bị hại lốm đốm vàng và có thể bị rụng, gây thiệt hại lớn cho nhà vườn. Nhện đỏ thường phát sinh và gây hại nặng trong mùa khô nóng hoặc những thời gian bị hạn trong mùa mưa.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cắt bỏ những lá có mật số nhện quá cao đã chớm bị vàng úa đem tiêu hủy để diệt nhện. Có thể dùng máy bơm nước có áp suất lớn xịt mạnh tia nước vào mặt dưới của lá để rửa trôi bớt nhện.
Biện pháp hoá học: Do nhện đỏ có tính kháng thuốc rất mạnh nên khi phát hiện trên cây có nhiều nhện cần dùng luân phiên nhiều loại thuốc. Có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Abamectin, Emamectin benzoate, Propargite sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

2. Bọ xít(Nezara viridula), (Leptoglossus australis)

– Đặc điểm hình thái và tập tính gây hại:

Bọ xít trưởng thành có cánh màu nâu đen với một vài đốm đỏ ở sau đầu và mặt dưới của cơ thể, mình thon mảnh dài 18mm, rộng 6mm, chân dài, râu dài. Sâu non có hình dáng tương tự con trưởng thành nhưng không có cánh, chúng có màu đỏ ở giai đoạn mới nở, giai đoạn sâu non kéo dài khoảng 50 ngày, trưởng thành sống trong vài tuần.

Bọ xít gây hại bằng cách tấn công (chích hút) vào hoa, đọt non và quả non làm cho quả lốm đốm, nếu gây hại nặng làm cho quả rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, dọn cỏ dại, phát quang bờ lô, bụi rậm, bón cân đối N-P-K, dùng vợt tay để bắt bọ xít vào lúc sáng sớm hay chiều mát. Kiểm tra vườn phát hiện và thu gom ổ trứng của chúng đem tiêu hủy.

Nếu mật độ cao có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: AbamectinAcephateAzadirachtinMatrine, …sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

3. Bọ trĩ(Thysanopterasp)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Là loài gây hại dạng chích hút, chúng thường xâm nhập vào bộ phận hoa, lá, quả non để chích hút làm cho hoa khó thụ phấn, quả khó hình thành, gây hại trái làm trái méo mó, dị hình, bề mặt trái bị nám.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Hàng năm xới xáo, thu gom tàn dư thực vật trên đất để tiêu hủy, bón phân, làm cỏ… đúng yêu cầu kỹ thuật. Tưới phun trực tiếp vào các bộ phận bị hại khi bọ trĩ rộ có thể giảm đáng kể tác hại của bọ trĩ.

Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: OxymatrineImidaclopridThiamethoxam.…sử dụng theo liều lượng khuyến cáo, hạn chế sử dụng thuốc phổ rộng.

4. Bọ phấn(Bemisia tabaci)

– Đặc điểm gây hại: Là loài gây hại dạng chích hút, chúng thường xâm nhập vào bộ phận hoa, lá, quả non để chích hút làm cho hoa khó thụ phấn, quả khó hình thành. Bọ phấn tập trung ở mặt dưới lá, chích hút nhựa làm cây suy yếu, bị héo, vàng lá.

Chất bài tiết của bọ phấn tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Bọ phấn thường gây hại trong mùa khô, chúng phân tán nhờ gió.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp cơ giới vật lý: Dùng bẫy dính màu vàng để thu hút con trưởng thành.

Biện pháp hóa học:  Hạn chế phun thuốc hóa học và bảo vệ các loài thiên địch có ích. Sử dụng một trong các loại thuốc có các hoạt chất:

ThiamethoxamOxymatrineDinotefuranAbamectinPetroleum spray oil,  Citrus oil.

5. Rệp các loại

– Đặc điểm và tập tính gây hại: Có nhiều loại: Rệp sáp (Planococcus citri and P. kenya), Rệp muội (Aphis gossypi), Rệp đào (Myzus persicae) và rệp vừng màu xanh quả đào (Myzus persicae)

Các loài rệp này gây hại phổ biến trên cây Lạc tiên, chúng gây hại bằng cách bám vào các bộ phận như: thân, lá, quả non, các khe cạnh giữa cuống quả, lá chúng hút nhựa để sống, làm giảm sự quang hợp của lá, làm cho lá, quả rụng bất thường. Nguy hiểm nhất là rệp sáp chích hút nhựa cây làm cây chậm phát triển, quả nhỏ. Chất bài tiết của rệp là môi trường cho nấm bồ hóng đen phát triển, bám đen cả cành lá và vỏ trái làm giảm giá trị sản phẩm. Hai loài rệp đào (Myzus persicae) và rệp muội (Aphis gossypii) đối tượng mang một loài virus rất nguy hiểm đó là woodiness (PWV).

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cắt tỉa những cành sâu bệnh, cành vô hiệu để giảm nơi sinh sống của rệp. Vệ sinh vườn, dọn sạch cỏ rác, lá cây mục ở xung quanh gốc để phá vỡ nơi trú ngụ của kiến, mùa nắng dùng vòi bơm nước phun vào chổ có nhiều rệp đeo bám có tác dụng rửa trôi bớt rệp, đồng thời tạo ẩm độ trên cây làm giảm mật độ rệp. Kiểm tra để phát hiện sự xuất hiện của rệp, nếu thấy có rệp dù với số lượng ít cũng phải diệt trừ ngay.

Tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có hoạt chất như sau: Abamectin, Abamectin+AlphaCypermethrin, Acephate, Chlorantraniliprole + Thiamethoxam, Emamectin benzoate, Etofenprox,  Thiamethoxam.

Không nên sử dụng liên tục một loại thuốc BVTV nhiều lần/vụ, hoặc qua các năm liên tục, để tránh hiện tượng “quen thuốc ” của rệp sáp.

6. Ruồi đục trái

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Có 2 loài ruồi đục trái gây hại trên Lạc tiên: Bactrocera cucurbitae và Ceratitis capitata. Trái non bị hại nhăn nheo và rụng sớm, vết thương do ruồi đục sẽ làm giảm giá trị thương mại của quả, sự tác động và gây hại của ruồi đục trái trên Lạc tiên thường không nghiêm trọng như trên các cây trồng khác vì vậy nếu gây hại ở mức độ nhẹ thì chưa cần phòng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, cắt tỉa lá già, bệnh, thu gom những trái rơi rụng đem chôn sâu có khử trùng bằng vôi. Thu hái trái sớm hơn bình thường, không để trái chín quá lâu trên cây. Sử dụng biện pháp bao trái bằng túi giấy hoặc báo trước khi trái chín để hạn chế trưởng thành đẻ trứng trên trái. Có thể dùng chất pheromon dẫn dụ với tên thương mại là Vizubon-D để làm bẫy dẫn dụ và tiêu diệt con trưởng thành đực (con ruồi đực). Biện pháp này muốn có kết quả cao nên vận động nhiều nhà vườn cùng tiến hành đồng loạt trên diện rộng.

Biện pháp hoá học: Sử dụng Protein thủy phân trộn chất độc làm bả diệt ruồi đục trái.

Cách làm như sau: pha 100ml Protein thủy phân với 3-5ml thuốc trừ sâu Regent 5SC, pha loãng với 1 lít nước rồi đem phun cho mỗi cây trên diện tích khoảng 1m2 tán lá với lượng 50ml hỗn hợp. Mỗi tuần phun 1 lần lúc 8-10 giờ sáng, ruồi sẽ đến ăn và chết làm giảm được số lượng nên không gây hại được.

7. Sâu đục thân

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Sâu trưởng thành tìm những kẽ nứt của thân cây để đẻ trứng, sâu non nở ra đục vào thân cây tạo thành đường vòng quanh thân, dần dần đục sâu vào trong thân làm rỗng thân. Khi cây vừa bị sâu hại, lá non ở đầu nhánh có màu xanh hơi đậm, hơi xoăn và nhỏ hơn lá bình thường. Cây bị hại nặng thì lá vàng và héo, vỏ thân cây Lạc tiên có dấu hiệu nứt nẻ.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cần tạo hình và cắt tỉa nhánh được tiến hành thường xuyên. Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên giàn đã cho trái, để lại thân và các cành từ mặt đất tới giàn.

Biện pháp vật lý: Quan sát kỹ các thân cây nếu có vết đục của sâu đục thân thì dùng dụng cụ rạch phần thân để bắt sâu, sau đó dùng bao nilon sạch buộc lại vết đạ rạch, kể cả vết đục.

Biện pháp hoá học: Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như Abamectin + MatrineCypermethrinDiazinon Cartap,…sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Lạc Tiên

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Lạc Tiên

Lạc tiên

Giống: Tại Lâm Đồng chủ yếu sử dụng giống Đài nông 1 (quả tím) và một số giống do các công ty nhập khẩu từ Đài Loan. Hiện nay người ta dùng giống quả tím ghép lên gốc ghép giống quả vàng, để tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, tuyến trùng và khả năng sinh trưởng phát triển,

Chuẩn bị đất: Trước khi trồng cây phải xử lý đất để diệt trừ mầm sâu, bệnh bằng cách cày sâu 30-35cm, nhặt sạch cỏ dại và tàn dư thực vật khác.

Thiết kế đường lô, mật độ khoảng cách trồng:

– Thiết kế đường lô: Thích hợp với những nơi đất bằng phẳng, độ dốc <80, vườn trồng có thể thiết kế theo hình chữ nhật hoặc hình vuông diện tích từ 0,2 – 0,5ha/lô, đường lô rộng 3m. Trồng trên đất dốc, hàng cây phải bố trí theo đường đồng mức để thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư, chăm sóc và thu hoạch.

– Tùy theo điều kiện đất đai, địa hình và khả năng thâm canh, có thể trồng các mật độ: 1.660 cây/ha: khoảng cách 3 x 2m; 1.330 cây/ha: khoảng cách 3 x 2,5m; 1.100 cây/ha: khoảng cách 3 x 3 m; 850 cây/ha: khoảng cách 3 x 4m.

Cách trồng: Hố trồng có kích thước 60x60x60cm, đào một hố nhỏ ở giữa bồn có độ sâu bằng bầu, đặt cây và lấp đất phủ kín bằng mặt bầu. Sau đó rắc thuốc xung quanh để tránh mối, kiến, dế cắn phá. Dùng cây chống cắm xung quanh và dùng các vật liệu che chắn nhằm hạn chế gió.

Tưới nước: Cây Lạc tiên có bộ rễ ăn cạn, cho nên vấn đề tưới giữ ẩm và tủ gốc là rất cần thiết. Không để nước ngập úng trong mùa mưa nhưng phải đủ nước tưới trong mùa khô đặc biệt trong giai đoạn cây ra hoa. Định kỳ tưới 2 lần/tuần vào mùa khô.

Bón phân: Cây Lạc tiên rất thích hợp với các loại phân hữu cơ, nhất là phân chuồng ủ hoai. Lượng phân bón cho cây theo giai đoạn sinh trưởng, tuỳ thuộc mật độ trồng khác nhau cần điều chỉnh lượng phân bón cho phù hợp.

Giai đoạn kiến thiết cơ bản (1-6 tháng tuổi)

Lượng phân bón cho Lạc tiên mật độ trồng 850cây/ha, như sau:

+ Phân chuồng hoai: 15-20 tấn; vôi bột: 1.000kg.

+ Phân hóa học (lượng nguyên chất): Bón với tỷ lệ N-P-K: 2-2-1,5. Lượng phân hóa học nguyên chất:  170kg N-170kg P2O-145kg K2O.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn hoặc NPK tương đương:

Cách 1: Ure: 370kg; super lân: 1.062,5kg; KCl: 242kg.

Cách 2: NPK 20-20-15: 850kg; KCL: 29kg.

* Bón theo cách 1:

Bón lót: Đào hố xong xử lý đất bằng vôi, dùng phân chuồng hoai trộn lẫn với phân lân, vôi hoặc dùng phân hữu cơ vi sinh để bón lót. Thực hiện bón trước khi trồng từ 25-30 ngày với lượng: phân chuồng 15-20 tấn/ha + vôi 1.000kg/ha.

Bón thúc: Phân Ure và kali bón sau trồng 20 ngày, các lần tiếp theo cứ 15 ngày bón 1 lần (chia đều 10-12 lần bón) bón 28-32kg urê + 18-22kg KCL.

Phân lân bón riêng và chia hai lần bón, lần thứ nhất sau khi trồng 60 ngày, lần tiếp theo 150 ngày sau trồng. Bón lấp xung quanh bồn (dùng nĩa để nĩa đất nhằm tránh gây đứt rễ).

* Bón theo cách 2:

Bón lót như cách 1.

Bón thúc: Sau trồng 15 ngày bón 29kg KCL + 70kg NPK 20-20-15 và các lần tiếp theo cứ 15 ngày (chia đều 10-12 lần bón) bón 70-85kg NPK 20-20-15 mỗi lần.

Giai đoạn kinh doanh (từ 7 tháng tuổi trở lên)

Bón tỷ lệ N-P-K: 2-1-4.

Lượng phân bón cho Lạc tiên mật độ trồng 850cây/ha, giai đoạn kinh doanh (từ 7 tháng tuổi trở lên) như sau:

Phân hóa học bón với tỷ lệ N-P-K: 2-1-4. Lượng phân hóa học nguyên chất:  400kg N-204kg P2O-820kg K2O.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn hoặc NPK tương đương:

Cách 1: Ure: 870kg; super lân: 1.275kg; KCl: 1.367kg.

Cách 2: NPK 20-20-15: 1.020kg; Ure: 426kg; KCL: 1.112kg.

* Bón theo cách 1:

Phân đạm và kali (bón khoảng 20 lần), cứ 15-20 ngày bón 1 lần: 30-40kg Urê + 50-55kg Kaliclorua/ha/lần bón.

Phân lân chia làm 3 lần bón, bón lấp xung quanh bồn (dùng nĩa để nĩa đất nhằm tránh gây đứt rễ).

Trong giai đoạn kinh doanh cần bón thêm phân hữu cơ hoặc phân chuồng hoai với lượng 15-20 tấn/năm, bón 2 lần vào đầu và giữa mùa mưa.

* Bón theo cách 2:

Phân NPK 20-20-15 + đạm + kali (bón khoảng 20 lần), cứ 15-20 ngày bón 1 lần: 50kg NPK 20-20-15 + 20-22kg Urê + 55-60kg Kaliclorua/ha/lần bón.

* Ngoài ra, trong quá trình canh tác cần phun thêm các loại phân bón qua lá có chứa các trung, vi lượng như Ca, Mg, S, B, Mo, Fe,…nhằm thúc đẩy cây sinh trưởng phát triển, kích thích ra hoa đậu trái sau các lần thu họach.

Làm bồn, diệt cỏ dại: Thường xuyên phá lớp váng đất mặt tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển giúp cây sinh trưởng tốt.

Cây Lạc tiên có bộ rễ ăn cạn, cho nên việc diệt cỏ dại chủ yếu dùng biện pháp thủ công, hạn chế tối đa việc làm đứt rễ làm cây dễ nhiễm bệnh.

Làm giàn, tạo hình và tỉa cành lá: Kỹ thuật làm giàn có ảnh hưởng lớn đến việc ra hoa và đậu trái của cây Lạc tiên vì cây chỉ ra hoa ở các mặt đầu cành thứ cấp nằm ngoài mặt tán. Làm giàn theo kiểu chữ T để giúp Lạc tiên phát triển tốt hơn do ánh sáng tiếp xúc bề mặt tán lớn, hạn chế nấm bệnh. Nên làm giàn cao 1,8-2,2m với các trụ tre, gỗ hoặc bê tông, khoảng cách các cột nên cắm theo khoảng cách trồng; bên trên căng lưới thép với khoảng cách ô vuông 40 x 40cm cho cây leo.

Cây mới trồng phát triển chiều cao khoảng 1m thì bấm bớt lá gốc. Cây có bộ lá to, dày, xanh tốt, không bị nấm bệnh là biểu hiện cây sinh trưởng mạnh, đồng thời lá to sẽ giúp cây trao đổi chất tốt hơn do vậy cần chú ý bảo vệ.

Khi cây đã lên giàn cần tạo hình, tỉa bớt lá già hoặc những chỗ mật độ lá quá dày, đặc biệt trong mùa mưa, để hạn chế sâu bệnh gây hại, đồng thời nhằm ức chế sinh trưởng, giúp cho cây ra nhiều nụ, đậu nhiều trái, giúp cây sinh trưởng phát triển tốt.

Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên mặt giàn đã cho trái, cây sẽ ra chồi mới, phân cành cấp 2, 3 và các cành quả. Nếu Lạc tiên không được tỉa hoàn toàn vào cuối năm, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển, đặc biệt làm hạn chế đến năng suất các năm sau.

Tạo tầng: Khi cây kín giàn thì kéo các nhánh xuống phía dưới để chủ động tạo nhiều tầng sinh trưởng, nhằm tăng diện tích giàn, tăng năng suất trên một đơn vị diện tích. Tùy theo độ cao của giàn và khả năng sinh trưởng mà ta để nhánh có độ dài, ngắn khác nhau rồi bấm ngọn. Sau khi thu hoạch ta cắt bỏ hết để cho nhú đọt non và tiếp tục tạo tầng mới.

Thu hoạch:  Trái Lạc tiên chín là những trái già tự rụng hoặc khi thấy vỏ trái đã chuyển sang màu tím là thu hái được.

Thu hoạch quả Lạc tiên

Đối với trái ăn tươi bảo quản trong thùng giấy carton hoạc sọt tre theo yêu cầu của người mua hàng.

Đối với trái dùng để múc dịch quả thủ công làm nguyên liệu, đựng trong xô nhựa có lót bịch ny lông, dịch quả được cột chặt trong bịch ny lông và vận chuyển đến nơi chế biến trong ngày. Nếu để lâu phải có kho lạnh bảo quản.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đặc điểm thực vật học và yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh cây Lạc Tiên

1. Đặc điểm thực vật học

Cây Lạc tiên (còn gọi là cây chanh dây, mác mác), tên khoa họcPassiflora edulis Sims, thuộc họ lạc tiên Passifloraceae, bộ Violales. Chi Passiflora hiện có hơn 400 loài, trong đó có khoảng 60 loài cho trái ăn được.

Lạc tiên

Lạc tiên là một loại dây leo, thân nhỏ, hình trụ có rãnh dọc, nhiều lông thưa. Cây mọc leo có khi dài tới hàng chục mét, lá mọc xen, mang lá kèm ở mỗi đốt. Cuống lá dài 2-5cm, mang phiến lá có 3 thùy dài, kích thước lá 10-15 x 12-25cm, bìa phiến có răng cưa nhỏ, tròn đầu. Hoa mọc ở kẽ lá, màu trắng hồng, đài 5 cánh màu xanh lục, cánh hoa dài 2-2,5cm, tràng 5 cánh rời nhau, xếp xen kẽ với các lá đài; tràng phụ do 4-5 hàng sợi trắng, gốc tím, cuống nhụy dài 1,5cm.

Trái hình cầu đến bầu dục, kích thước 4-12 x 4-7cm, màu tím sậm hay vàng chanh, tự rụng khi chín. Hạt có nhiều áo, hạt màu cam. Hạt rất mau mất sức sống (chỉ vài tuần), cây con trồng hạt rất yếu, không đồng đều, dễ nhiễm bệnh vì vậy không nên trồng bằng hạt. Nên trồng lạc tiên bằng cây ghép, giâm cành (bằng cành bánh tẻ), dễ cho nhiều nhánh khỏe bò lan.

Lạc tiên cần nhiều ánh sáng để ra hoa và đậu trái, mầm hoa mọc từ các chồi nách, từ khi thụ phấn đến trái chín là 60-70 ngày (giống trái vàng) hoặc 60-90 ngày (giống trái tím). Lạc tiên có loại giống quả tím và quả vàng:

+ Lạc tiên quả tím (Passiflora edulis Sims): Là loại cây leo lâu năm, lá có 3 khía, màu xanh, có răng cưa, gốc hình quả tim, hoa nở vào sáng sớm, trước trưa hoa cụp lại. Cành mới ra mỗi đốt có một hoa, quả hình tròn hoặc hình trứng đường kính khoảng 4-5cm, khi chín quả có màu tím đậm. Vỏ quả cứng, hạt đen, nhỏ nhiều hạt. Thịt quả vàng, thơm dịu, nhiều nước, có vị chua nhưng rất dễ chịu và cho hương vị trái ngon.

+ Lạc tiên quả vàng (Passifalora edulis F.flavicarpa Degener). Tương tự loại quả tím nhưng phát triển mạnh hơn. Thân, gân, lá, râu leo màu hồng, hoa tím hồng. Gốc hoa màu tím thẫm, quả lớn, vỏ màu vàng, vị thịt quả chua. Hạt màu nâu sẫm. Hoa nở vào ban trưa, 9-10 giờ tối thì cụp lại.

2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh

Lạc tiên đòi hỏi khí hậu ấm và ẩm, lượng mưa trung bình từ 1.600mm trở lên, phân bố đều, trong thời kỳ ra hoa ít bị mưa, nhiệt độ thích hợp từ 16-30oC, không có sương muối; độ ẩm từ 75-80%.

Cây lạc tiên có thể trồng những vùng có khí hậu nóng

Cây Lạc tiên không kén đất, có thể trồng ở những vùng có khí hậu nóng, kể cả đất có pH cao, tốt nhất là chọn đất thoát nước tốt, không để nước đọng. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng canh tác sâu >50cm, độ mùn trên 1% và pH 5,5-6. Lạc tiên quả tím thích hợp vùng á nhiệt đới, cao độ 1.000-1.200m so mặt biển cho chất lượng quả tốt. Ngược lại giống quả vàng thích hợp vùng nhiệt đới, độ cao < 600m.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật xử lý để Cam, Quýt ra hoa đậu trái nghịch vụ

Hiện nay,  có nhiều nhà vườn đã quen với việc xử lý cho cây trồng ra hoa đậu trái nghịch vụ bằng các loại thuốc kích thích, thuốc BVTV.. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá các loại thuốc này thì chẳng khác nào con dao hai lưỡi do giá thành cao, gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người và làm giảm tuổi thọ của cây.

Quýt nghịch vụ

Để góp phần khắc phục và hạn chế những cách làm cũ, hãy cùng tìm hiểu kỹ các bước xử lý cho cam, quýt ra hoa đậu quả nghịch vụ mà không cần lạm dụng đến hóa chất và thuốc kích thích, thuốc BVTV, mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Kỹ thuật xử lý để Cam, Quýt ra hoa đậu trái nghịch vụ

► Giai đoạn sau thu hoạch

– Bón vôi: Sau khi cuốc đất làm đứt rễ bà con nên phơi khô từ 5-7 ngày sau đó mới bón vôi. Bón vôi bột 1kg/gốc

– Bón phân: Sau khi bón vôi từ 5-7 ngày thì tiến hành bón phân
+ Phân hữu cơ đã ủ hoai mục với Nấm đối kháng Trichoderma NANO: Bón 10-20kg/gốc
+ Phân Urê: 200g
+ Phân DAP: 100g
+ Đậu tương nghiền nhỏ: 1-2,5 kg/gốc tùy tuổi cây
Lượng phân này cũng sẽ chống lại hiện tượng cây ra trái cách niên (tức năm có, năm không). Việc sử dụng Nấm đối kháng trichoderma là rất quan trọng, để ngăn chặn sự xâm hại của tuyến trùng và nấm bệnh gây thối rễ trên cây trồng.

– Phun sương qua lá bằng chế phẩm sinh học theo tỷ lệ 1:2000

► Giai đoạn xử lý ra hoa

– Hái bỏ trái vào khoảng tháng 4 – 5 âm lịch.
– Vào tháng 6-7 âm lịch tiến hàng xiết nước và ngưng tưới để cho cây có thời gian “ngủ nghỉ”. Đến khi có mưa, “đánh thức” cây dậy bằng cách tưới thêm vào những ngày nắng.
– Bón phân: 200g DAP + 50g KCl hoặc 200g AT2. Nửa tháng sau cây ra hoa khoảng 50%.
– Kết hợp phun chế phẩm sinh học qua lá. Theo tỷ lệ 1:2500. Cách 7-15 ngày phun 1 lượt. Đến khi cây ra hoa rộ thì dừng phun.
– Tháng 8 âm lịch bón phân bằng 1/2 đợt vừa rồi cho cam ra hoa đợt hai.
– Tháng 9 bón phân liều lượng bằng đợt vừa bón cho cam ra hoa đợt ba.

► Giai đoạn nuôi trái

– Bón phân: 200g NPK 20-10-15 cho một cây.
– Phun phun chế phẩm sinh học qua lá. Theo tỷ lệ 1:2500. Cách 7-15 ngày phun 1 lượt >> Để giúp cây có đủ dinh dưỡng nuôi trái. Hạn chế hiện tượng rụng trái non
– 1 tháng sau bón phân bằng 1/2 đợt bón nuôi trái lần đầu và phun phân bón lá lần hai.
– Neo trái, chống hiện tượng rụng trái: Bón thêm 100g NPK 20-10-15 cho mỗi cây. Đợt này không nên phun phân bón lá vì trái cam không còn lớn và dễ tạo điều kiện cho nấm phát triển trái sẽ bị đen.

► Phòng trừ sâu, bệnh hại

– Nếu có điều kiện, dùng túi chuyên dụng loại 16 x 20cm bao trái lại vào ngày thứ 45 sau đậu trái nhằm bảo vệ trái không bị da lu, da cám do nhện, ngài (bướm), ruồi, bọ xít, nấm… đeo bám.
– Nuôi kiến vàng: Kiến vàng là loài có lợi cho các loại cây có múi vì nó tấn công các loại sâu ăn lá, sâu vẽ bùa, sâu cuốn lá, sâu đục bông, bọ xít, rầy chổng cánh và xua đuổi các loài bướm tới đẻ trứng hoặc ăn ấu trùng của sâu, nhện… Vì vậy nếu có điều kiện nên hốt ổ kiến vàng thả nuôi hoặc giăng dây dẫn dụ chúng từ các cây khác bò sang vườn cây của mình.
– Tưới nước: Tưới bằng mô tơ điện hoặc bơm nước bằng máy dầu ở những nơi không có điện (để đỡ tốn nhiên liệu). Phun trực tiếp vào gốc, lá cây và trái (nếu không bao trái); phun gần sẽ tạo áp lực mạnh làm cho ấu trùng, sâu, nhện đỏ, nhện vàng, nhện trắng… hạn chế rất nhiều do không có khả năng đeo bám.

♦ Lưu ý

– Thu hoạch cam, quýt vụ nghịch vào khoảng tháng 1,2,3 âm lịch là chuyện dễ dàng vì không cần sử dụng phân và thuốc kích thích, cây vẫn ra hoa bình thường, nhưng thời điểm này giá thành cam chỉ ở mức trung bình, khoảng 4.000 – 5.000đ/kg.
– Điều khiển sao cho thu hoạch cam vào khoảng tháng 4 – 5 âm lịch lúc thị trường cần và khan hiếm sẽ bán được giá cao hơn, khoảng 15.000 – 20.000đ/kg, gấp 6 lần so với vụ thuận.
– Nên tuyển chọn hái bỏ bớt trái xấu, giữ lại những trái đẹp, kích cỡ đồng đều sẽ bán được giá cao, cây sẽ kéo dài thêm tuổi thọ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.