Nhãn Việt lần đầu tiên xuất khẩu sang Úc

Sau vải, xoài, thanh long được xuất sang Úc, ngày 9/9/2019, quả nhãn đầu tiên của Việt Nam chính thức được cấp phép nhập khẩu vào thị trường Úc, mở ra cơ hội cho nhiều loại trái cây Việt tiếp tục xuất ngoại. Tuy nhiên, để trái cây Việt xuất khẩu bền vững vẫn còn nhiều thách thức.

 

Nhãn Việt được quản bá tại thị trường Úc

Vào được các thị trường khó tính nhất

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2017, trái cây Việt Nam xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với năm 2016 (1,7 tỷ USD). Năm 2018, đạt trên 4 tỷ USD. Tính đến nay, trái cây Việt Nam đã thâm nhập thị trường của 60 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, việc trái nhãn tươi của Việt Nam tiếp tục được xuất khẩu vào Úc không chỉ mở ra cơ hội mới cho trái cây Việt mà còn là nền tảng rất tốt để trái cây Việt Nam thâm nhập vào các thị trường khác, bởi một khi đã vượt qua được sự kiểm duyệt từ một thị trường khắt khe như Úc, sẽ thuận lợi để tỏa đi nhiều thị trường mới nữa với giá bán  tốt hơn. Đến thời điểm này, Việt Nam đã xuất khẩu nhãn vào nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc , EU… và đều đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn, đồng nhất, chất lượng và có đủ sản lượng cung ứng quanh năm.

Đại diện Hiệp hội Xuất khẩu rau quả Việt Nam cũng cho biết, hiện nay trái thanh long, nhãn tươi là một trong hai mặt hàng có kim ngạch cao nhất trong top 10 hoa quả xuất khẩu có kim ngạch cao của Việt Nam. Mặc dù Úc là một nước nông nghiệp và cũng có nhãn tươi nhưng diện tích trồng không nhiều, chủ yếu tập trung tại bang Queensland và một phần tại phía Bắc bang New South Wales. Nhãn tươi của Úc chỉ có một mùa kéo dài từ tháng 1 đến giữa tháng 6. Vì vậy, nếu nhãn tươi Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Úc, nhất là vào thời điểm trái mùa thì có thể được tiêu thụ với giá cao. Bên cạnh đó, cơ hội thị trường cũng rất lớn khi giao dịch thương mại giữa Việt Nam và Úc trong 10 năm gần đây tăng bình quân gần 10%/năm và Úc cũng là bạn hàng xuất khẩu lớn thứ 8 và nhập khẩu đứng thứ 12 của Việt Nam.

Hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết

Theo các chuyên gia trong ngành, việc được cấp phép nhập khẩu mới chỉ là giai đoạn đầu, thách thức lớn nhất với các doanh nghiệp là làm sao  trụ vững trên thị trường Úc và các thị trường khó tính khác. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải nỗ lực hơn nữa để hướng đến một nền sản xuất sạch hơn, ở đó chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải là sản lượng và giá cả thấp. Do vậy, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết.

Nhìn lại quá trình thâm nhập thị trường Úc của trái cây Việt trước đó, mới thấy chặng đường không hề dễ dàng. Chỉ tính riêng vải thiều và xoài, quá trình đàm phán hai loại trái cây này vào thị trường Úc mất lần lượt là 12 năm và 7 năm. Tương tự, lô thanh long tươi đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu sang Úc cũng mất 9 năm đàm phán và làm thủ tục.

Tuy nhiên, vào được thị trường rồi vẫn chưa vội mừng. Bởi thực tế, những chuyến hàng vải thiều và xoài đầu tiên khi nhập khẩu vào Úc có chất lượng rất tốt, bảo đảm, mang ra chợ bán được giá rất cao, nhưng sau đó giá bị giảm nhanh chóng do trong các lô hàng xuất khẩu tiếp theo, doanh nghiệp không đáp ứng được đủ các quy trình như các lô hàng đầu tiên, dẫn tới việc mất khách hàng.

Theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp Úc, các doanh nghiệp cần lưu ý về liều lượng chiếu xạ tối thiểu và tối đa trong việc xử lý quả nhãn, phải tuân thủ hàng loạt các quy định về kiểm tra chất lượng, dịch bệnh, đóng gói và các vấn đề kiểm dịch, vệ sinh thực phẩm. Ngoài việc phải được chứng minh nguồn gốc, sản xuất và xuất khẩu, quả nhãn cũng phải trải qua các biện pháp quản lý rủi ro bắt buộc. Đó là một trong những điều kiện để xuất khẩu nhãn tươi từ Việt Nam vào Úc được Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Úc chính thức công bố mới đây.

Ông Nguyễn Đình Tùng-  Tổng giám đốc Công ty T&T Vina cho biết, trái cây Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh rất lớn tại thị trường Mỹ, Úc, EU… Tuy nhiên, thông thường, trong 10 tấn sản phẩm thì chỉ lựa được vài ba tấn hàng đáp ứng thị trường. Tuy nhiên, đây chỉ một phần trong các điều kiện cần, doanh nghiệp còn phải xây dựng quy trình thu hoạch, đóng gói, vận chuyển, đặc biệt là sở hữu được công nghệ bảo quản mới giữ được chất lượng trái cây tốt cho đến khi đến tay người tiêu dùng”. Đơn cử như quả bưởi của Việt Nam hiện mới chỉ có 30% sản lượng đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Con số này sẽ tăng lên 70-80% nếu có đầu tư về chế biến, bảo quản.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi FarmTech Vietnam

Gần 100 tấn cá nuôi lồng bè chết trắng chưa rõ nguyên nhân tại Hà Tĩnh

Hơn 80 tấn cá nuôi trong lồng bè trên khu vực sông của 53 hộ dân ở xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) bỗng dưng chết hàng loạt chưa rõ nguyên nhân. Trước tình hình trên, người dân đã báo cơ quan chức năng xuống lấy mẫu để xét nghiệm tìm nguyên nhân.

Hàng chục tấn cá lồng bè chết trắng không rõ nguyên nhân

Nhiều cá nuôi trong lồng bè chết nổi la liệt ở khu vực ngay dưới cống Đò Điệm trên sông Nghèn của xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà. Lượng cá chết dày, chủ yếu là cá chẽm, cá hồng, cá mè. Ngoài ra, còn có một số cá tự nhiên như cá lệch, cáy, cá bống…

Ông Nguyễn Văn Định (45 tuổi) thả nuôi 6 ô lồng bè cá mè, cá hồng. Vào tối ngày 8/9, cá nuôi từ 2 đến 5 năm của ông bất ngờ chết hàng loạt.

Vớt những con cá bị chết bất thường, ông Định đếm được 470 con cá mè, loại từ 3 – 4kg trở lên và hơn 500 con loại 1kg trở xuống; cá hồng chết có hơn 500 con loại từ 0,5 – 1,5kg.

Ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Sơn cho biết, sáng sớm ngày 9/9, người dân địa phương đi ra khu vực sông để bắt cá thì phát hiện nhiều loại cá tự nhiên và cá nuôi trong các lồng bè trên sông bị chết hàng loạt nên đã trình báo sự việc lên chính quyền địa phương và cơ quan chức năng.

“Qua thống kê bước đầu toàn xã có hơn 50 hộ dân nuôi cá trong khoảng 230 ô lồng bè trên sông Nghèn bị chết gần 100 tấn cá (cá chẽm, cá hồng), con nặng nhất hơn 5kg, nhỏ nhất hơn 1kg/con.

Ước tính thiệt hại ban đầu về kinh tế lên đến hàng chục tỷ đồng. Hiện chính quyền địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng về lấy mẫu xét nghiệm, truy tìm nguyên nhân”, ông Thanh cho biết.

Ông Nguyễn Văn Sáu – Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Thạch Hà cho biết, qua thống kê sơ bộ, đã có khoảng 80 tấn cá trong 222 ô của 53 hộ nuôi ở xã Thạch Sơn bị chết chưa rõ nguyên nhân.

“Ngay khi nhận được thông tin, Phòng đã trực tiếp về kiểm tra, động viên bà con, đồng thời mời các cơ quan chức năng cấp tỉnh về lấy mẫu xét nghiệm, truy tìm nguyên nhân. Ngoài ra, huyện cũng đã ra thông báo nghiêm cấm bà con không bán cá ra thị trường khi chưa xác định rõ nguyên nhân.

Liên hệ với các đơn vị cấp đông, bảo quản cá tạm thời cho bà con nông dân để chờ kết luận chính thức từ cơ quan chức năng rồi mới đưa ra hướng xử lý”, ông Sáu nói.

Chi cục Thủy sản Hà Tĩnh đã lấy mẫu và gửi đi xét nghiệm, tuy nhiên vẫn chưa có kết quả. Đơn vị này khuyến cáo người dân không vứt cá chết ra ngoài môi trường, không dùng cá chết để làm thức ăn cho người và vật nuôi.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Chế tạo thành công 8 loại đèn LED phục vụ Nông Nghiệp Công Nghệ Cao

8 loại đèn LED chiếu sáng chuyên dụng chiếu sáng nông nghiệp cao, phục vụ 6 lĩnh vực chiếu sáng khác nhau đã được nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng thành công vào thực tiễn

Đây là kết quả của dự án “Nghiên cứu và phát triển công nghệ, sản xuất, thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm LED dùng trong chiếu sáng nhân tạo nông nghiệp công nghệ cao tại thị trường Việt Nam” đã được hỗ trợ từ dự án FIRST do CTCP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông phối hợp với các nhà khoa học thực hiện với mục tiêu: Đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm.

Các sản phẩm đèn LED được thử nghiệm tại các vườn hoa ở làng trồng hoa Tây Tựu (Hà Nội). Theo ông Nguyễn Hữu Yên, một trong những hộ có nghề trồng hoa lâu đời tại Tây Tựu, đây đã là vụ hoa thứ hai ông sử dụng những bóng đèn chuyên dụng mới này. Sản phẩm cho thấy hiệu quả vượt trội so với các sản phẩm chiếu sáng thông thường khác, trong khi lượng điện năng tiêu thụ chỉ bằng 1/3 so với những hộ khác đang dùng loại bóng đèn cũ.

Chia sẻ về dự án, ông Nguyễn Đoàn Thăng – Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc CTCP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông cho biết: Nhằm đón đầu hai xu hướng chất lượng LED tiến bộ nhanh, giá thành giảm và nhu cầu nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao của sản phẩm nông nghiệp, Nhóm Hợp tác đã xây dựng đề xuất Dự án “Nghiên cứu và phát triển công nghệ, sản xuất, thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm LED dùng trong chiếu sáng nhân tạo nông nghiệp công nghệ cao tại thị trường Việt Nam”.

Đèn LED chiếu sáng Công Nghệ Cao thuộc dự án

Dự án được triển khai với mục tiêu tạo được sản phẩm đầu ra là sản phẩm LED chuyên dụng chiếu sáng nhân tạo nông nghiệp công nghệ cao được sản xuất qui mô công nghiệp, phù hợp với trình độ và điều kiện nông nghiệp Việt Nam, kèm theo qui trình sinh học sử dụng phù hợp với một số đối tương góp một phần trong hiện đại hóa, tái cấu trúc nông nghiệp Việt Nam.

Theo đó, từ tháng 11/2016 đến tháng 6/2019, với tổng kinh phí Dự án là 3,71 triệu USD (tương đương 81,08 tỷ đồng), trong đó kinh phí tài trợ của FIRST theo tỷ lệ là 48,8%, nhóm nghiên cứu đã sản xuất thành công 8 loại đèn LED chiếu sáng chuyên dụng chiếu sáng nông nghiệp cao, phục vụ 6 lĩnh vực chiếu sáng khác nhau, gồm đèn chiếu sáng chuyên dụng cho: Nuôi cấy mô; trồng rau sạch; nuôi tảo; chiếu sáng ra hoa cây Thanh Long; chiếu sáng ra hoa cây hoa cúc; ngư nghiệp (đèn đánh bắt cá, đèn sinh hoạt, đèn cabin).

Theo ông Lương Văn Thắng – Giám đốc Ban quản lý dự án FIRST, thông qua những dự án được lựa chọn hợp tác với FIRST, Bộ Khoa học và Công nghệ: Doanh nghiệp luôn là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Các nhà nghiên cứu, viện nghiên cứu, trường đại học có liên kết với doanh nghiệp nên có sự thay đổi, lắng nghe doanh nghiệp, lắng nghe thị trường.

Có thể nói, hỗ trợ của FIRST sẽ có vai trò bà đỡ cho việc hình thành mô hình liên minh khoa học và công nghệ, chuỗi liên kết sản xuất và phân phối gắn bó hơn, gắn kết giữa nơi sản sinh ra tri thức với nơi sử dụng tri thức, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội; hỗ trợ mối liên kết giữa doanh nghiệp trung tâm với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, từng bước phát triển công nghệ hỗ trợ theo lộ trình đầu tiên phát triển khâu lắp ráp sản phẩm LED hoàn chỉnh, từng bước chuyển giao công nghệ, nội địa hóa một số linh kiện tại Việt Nam.

Ông Thắng cho biết, hầu hết những doanh nghiệp khi thực hiện dự án đều đã có lòng tin, có công nghệ và phương án quảng bá sản phẩm.

Dự án FIRST giúp tăng niềm tin cho doanh nghiệp để thực hiện việc đổi mới công nghệ theo quy định của Ngân hàng Thế giới, Bộ Khoa học và Công nghệ và các quy định khác. Mặt khác, mục tiêu dài hạn của dự án FIRST là hỗ trợ cho hệ thống đổi mới sáng tạo hiệu quả, giải quyết điểm nghẽn giữa sáng tạo của nhà khoa học với mong muốn đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam

Trồng Cà Rốt đều tăm tắp, nhà nông Cẩm Giang thu tiền tỷ

Trước đây, bà con nông dân xã Đức Chính (Cẩm Giàng, Hải Dương) chuyên trồng lạc, ngô nhưng do hiệu quả kinh tế kém nên đã mạnh dạn chuyển đổi sang trồng cà rốt.

Dự án trồng cà rốt an toàn được người dân triển khai từ năm 2007. Đến nay, Đức Chính đã trở thành một trong những vựa cà rốt sạch lớn nhất miền Bắc, sản phẩm không chỉ tiêu thụ nhiều trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Nhờ cây cà rốt, nhiều hộ đã trở thành tỷ phú.

Để có được những củ cà rốt to đẹp, chất lượng thơm ngon, người dân Đức Chính đã phát triển các vùng trồng chuyên canh tập trung, áp dụng quy trình chăm sóc, bón phân cẩn thận. Báo NTNN xin giới thiệu với bà con một số kỹ thuật trồng cà rốt của nông dân xã Đức Chính.

Nông dân Đức Chính, Huyện Cẩm Giang thu hoạch Cà Rốt vụ Đông

  1. Thời vụ gieo trồng:

Cà rốt được gieo trồng từ tháng 8 đến đầu tháng 2 năm sau; thu hoạch từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau; và có thể phân ra thành 3 trà:

– Trà sớm gieo hạt từ: Đầu tháng 8-15.10, cho thu hoạch từ tháng 11.

– Trà chính vụ gieo hạt từ: 16.10 -15.12, thu hoạch xung quanh tết âm lịch.

– Trà muộn gieo hạt từ: 16.12 đến 30.1 năm sau, thu hoạch đến tháng 5.

  1. Chọn giống:

Có rất nhiều giống, tuy nhiên hiện nay nông dân tại 2 xã Cẩm Văn và Đức Chính (huyện Cẩm Giàng) và các vùng phụ cận trồng chủ yếu 2 giống cà rốt lai là: Super VL-444 F1 và Ti-103 (Nhật Bản). Giống này có thời gian sinh trưởng từ 100-130 ngày. Năng suất trung bình đạt 1,5 tấn/sào, cao hơn có thể đạt 3 tấn/sào.

  1. Kỹ thuật làm đất:

– Nên chọn đất bãi bồi ven sông là đất thịt nhẹ, đất cát pha hoặc đất phù sa để trồng cà rốt là tốt nhất. Đất phải được dọn sạch cỏ dại, sau đó cày bừa kỹ, phay nhỏ, san phẳng rồi lên luống. Chiều rộng của luống từ: 85-90cm (trà sớm) và 80-85cm (trà chính vụ và trà muộn); độ cao từ: 20-25cm; rãnh rộng từ: 25-30cm.

– Sau khi san phẳng mặt luống, kẻ 3 hàng trên mặt luống theo chiều dọc và sâu khoảng 5cm, hàng cách hàng từ 13-15cm. (Nếu gieo bằng máy thì máy tự kẻ hàng).

  1. Phân bón:

* Cách bón:

Cây cà rốt là cây lấy củ nên cần bón phân sớm, bón tập trung và bón cân đối; hạn chế bón đạm, nhất là bón đạm muộn; không nên phun các chất kích thích sinh trưởng. Cụ thể cách bón và liều lượng bón như sau:

– Trộn toàn bộ phân chuồng ủ mục hoặc phân vi sinh với phân lân supe Lâm Thao rồi đem bón lót bằng cách rắc đều trên mặt luống, nếu lượng phân ít có thể chỉ rắc theo 3 đường kẻ trên mặt luống- Bón thúc lần 1 khi cây có lá thật (xoay lá); bón thúc lần 2 sau khi tỉa cây sơ bộ (khi cây có 3-4 lá thật); bón thúc lần 3 sau khi tỉa định cây lần cuối (rễ đã phát triển to bằng que đan). Bón thúc lần 4 sau khi củ đã hình thành (bón kali từ: 3-4kg/sào), hoặc chỉ bón (tưới) dặm những chỗ cây có biểu hiện thiếu đạm.

  1. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh:

* Phủ rơm, rạ:

Phủ một lớp rơm, rạ mỏng trên mặt luống nhằm hạn chế đất bị đóng váng (bề mặt bị lỳ do mưa, tưới); ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm đồng thời phủ rơm còn có tác dụng giữ ẩm, hạn chế cỏ dại và giữ cho cây không bị đổ khi còn nhỏ.

* Tưới nước:

– Sau khi phủ rơm, rạ xong nên tưới nhẹ bằng vòi sen, tưới phun mưa hoặc thùng doa; đảm bảo cho độ ẩm của đất từ 84-90% để cho cây mọc đều và phát triển tốt. Nếu ruộng có tỷ lệ cát cao, kết hợp với thời tiết hanh khô thì phải tưới hàng ngày. Khi thời tiết có mưa nhỏ, mưa phùn thì không phải tưới.

– Giai đoạn cây con từ 3 lá đến tỉa định cây lần cuối: Áp dụng phương pháp tưới rãnh (hạn chế tưới ẩm quá bề mặt -> củ ngắn).

– Giai đoạn phát triển củ cho đến trước khi thu hoạch: Duy trì độ ẩm đất khoảng từ: 60-75%. Không được tưới rãnh, không được tưới quá ẩm, khi có mưa ruộng phải thoát nước và cũng không được để ruộng quá khô (vì để quá khô khi gặp mưa lớn, nước nhiều, ẩm độ cao sẽ gây nứt củ).

* Thuốc trừ cỏ:

Sau khi gieo hạt, phủ rơm – rạ, tưới nước từ 1 – 3 ngày cho bề mặt đất ổn định mới phun thuốc trừ cỏ. Sử dụng thuốc với liều lượng theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. Đặc biệt lưu ý, khi hạt cà rốt đã mọc thì không được sử dụng thuốc trừ cỏ nữa.

* Nhổ, tỉa cố định cây:

– Khi cây mọc cao 4-5cm cần nhổ tỉa bỏ các cây mọc dày, không để 2 cây cùng 1 hốc, cây cách cây từ 7-8cm;

– Khi cây cao 7-10 cm, rễ đã to bằng que đan… ta tỉa định cây lần cuối.

– Khi tỉa nhổ cây kết hợp dọn, nhổ bỏ cỏ dại.

* Phòng trừ sâu, bệnh

Cây cà rốt có rất nhiều đối tượng sâu, bệnh (dịch hại) gây hại:

– Ở giai đoạn đầu, giai đoạn cây con, cần chú ý: Sâu hại rễ, bệnh lở cổ rễ và chuột hại. Ở giai đoạn phát triển thân lá: Thường xuất hiện giòi hại lá, sâu khoang, sâu đo xanh, bệnh phấn trắng, bệnh nấm hạch, bệnh sương mai… Ở giai đoạn phát triển củ cho đến trước khi thu hoạch: Cũng vẫn xuất hiện các đối tượng dịch hại như thời kỳ phát triển thân lá và bệnh thối đen, thối khô, thối nhũn. Ở giai đoạn này cần chú ý các bệnh về thối củ…

– Để phòng trừ các đối tượng dịch hại trên, nông dân nên sử dụng những loại thuốc đặc hiệu, ít độc, thân thiện với môi trường:

+ Đối với giòi hại lá nên sử dụng các loại thuốc có hoạt chất là Abamectin và Cyromazine.

+ Đối với sâu ăn lá có thể lựa chọn được rất nhiều loại thuốc có hoạt chất có tính đặc hiệu, ít độc như các dòng thuốc: Sinh học, thảo mộc, vi sinh, ức chế điều hòa sinh trưởng, dầu khoáng…

+ Đối với nấm bệnh, cần chú trọng các biện pháp canh tác như: Thời vụ, phân bón (đạm) và độ ẩm. Thuốc nên chọn thuốc có độ độc thấp, mang tính đặc hiệu như Valydamycin; Carbenzadim; Difenoconazole…

  1. Thu hoạch:

Cây cà rốt có thời gian sinh trưởng từ 100-130 ngày. Căn cứ vào thời vụ và nhu cầu tiêu thụ trên thị trường, bà con tiến hành thu hoạch khi cà rốt đạt kích cỡ củ trung bình dài 18-22cm, đường kính 3-4cm. Sau khi nhổ củ, cắt bỏ dọc, chọn lọc củ không mấu, tật, nứt, thối, thu gom đóng bao và tiêu thụ. Nếu thời tiết hanh khô có thể tưới ẩm trước khi nhổ từ 10-12 tiếng; để đất ẩm rễ nhổ (thu hoạch).

Cây cà rốt là cây trồng không thể thay thế được tại xã Đức Chính và Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng. Do đất đai tại địa phương có hạn cho nên nhiều gia đình tại đây phải đi thuê đất trồng cà rốt ở các vùng đất bãi ven sông Thái Bình, Kinh Thầy… Để tăng hiệu quả kinh tế, giảm chi phí nên việc gieo trồng cà rốt đã không ngừng được cải tiến và áp dụng cơ giới hóa ở tất cả các khâu như: Làm đất, lên luống, gieo hạt, tưới nước…

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam

Phát triển thương hiệu Bưởi Da Xanh Khánh Vĩnh

Là một trong bốn loại cây trồng chủ lực của huyện miền núi Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa, cây bưởi da xanh không chỉ giúp người trồng thoát nghèo mà còn là sinh kế bền vững.

Bưởi Khánh Vĩnh được chứng nhận tiêu chuẩn VietGap

Sau một thời gian “bưởi da xanh Khánh Vĩnh” được công nhận là nhãn hiệu tập thể, nông dân Khánh Vĩnh đang phấn đấu đưa bưởi da xanh tiếp cận rộng rãi hơn với thị trường tiêu thụ.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Vĩnh, huyện có hơn 500 ha bưởi da xanh được cấp thương hiệu, tập trung ở các xã Khánh Đông, Khánh Nam, Khánh Bình, Khánh Trung. Song song với việc xây dựng thương hiệu, huyện Khánh Vĩnh cũng phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền nông dân sản xuất theo hướng an toàn VietGAP.

Ông Phùng Văn Thông, xã Khánh Nam là một trong những nông dân trồng bưởi da xanh có năng suất và chất lượng cao của huyện. Ban đầu ông chỉ trồng xen canh bưởi với các loại cây ăn trái khác, nhưng càng về sau, cây bưởi cho giá trị thu nhập cao, ông đã phát triển vườn bưởi của mình lên đến 2 ha với khoảng 1.000 gốc bưởi da xanh. Sau khi trừ chi phí, kết thúc thu hoạch ông Thông lãi khoảng 400 triệu đồng/năm.

Không chỉ có ông Thông, ông Nguyễn Xuân Long, Tổ trưởng Tổ hợp sản xuất trái cây an toàn Khánh Vĩnh, một trong những người đầu tiên trồng bưởi da xanh tại đây cho biết, từ năm 2005 khi có chương trình bán hỗ trợ cây giống của huyện, gia đình ông đã mua 20 cây bưởi da xanh về trồng.

Thời tiết thuận lợi cộng thêm được hướng dẫn cách canh tác hiệu quả, 6 năm sau, cây cho quả và bán được 20 triệu đồng/năm. Kể từ đó, ông tích lũy vốn liếng và đầu tư mở rộng diện tích trồng. Đến nay gia đình ông có 2 ha bưởi da xanh. Bình quân mỗi năm thu hoạch khoảng 10 tấn bưởi/ha, trừ chi phí lãi 300 triệu đồng/ha.

Ông Nguyễn Xuân Long cho rằng: “Sau khi có được thương hiệu sẽ là cơ hội lớn để sản phẩm bưởi da xanh Khánh Vĩnh mở rộng thị trường, người tiêu dùng biết đến nguồn gốc sản xuất bưởi của địa phương, từ đó mở rộng cơ hội tiêu thụ. Đầu tiên là người nông dân, sau đó là các tổ hợp tác, do đó, Hợp tác xã của chúng tôi xác định cần tiếp tục sản xuất theo đúng quy trình mà nhà nước hướng dẫn, đảm bảo chất lượng bưởi da xanh khi đưa ra thị trường”.

Còn ông Thông thì khẳng định, thương hiệu bưởi da xanh Khánh Vĩnh sẽ giúp người trồng như ông có thể bán được giá hơn, mặc khác khi gắn với thương hiệu, vai trò, trách nhiệm sản xuất nông sản sạch của nông dân cũng được đề cao hơn.

“Do đó, không chỉ bản thân tôi áp dụng quy trình trồng VietGAP mà rất nhiều hộ khác đều chủ động tham gia, nhằm đưa đến người tiêu dùng những quả bưởi ngon và an toàn nhất”, ông Thông chia sẻ.

Ông Lương Nguyễn Nhật Trường, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Vĩnh cho biết, mới đây, Trung tâm Chất lượng Nông lâm thủy sản vùng 3 cấp giấy chứng nhận VietGAP đã cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn VietGAP đối với các sản phẩm bưởi da xanh, cam xoàn, xoài cho 54 hộ với vùng trồng rộng 85 ha.

Đây là kết quả nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc xây dựng thương hiệu cho cây ăn quả Khánh Vĩnh. Do đó, trong thời gian tới, các ban ngành chức năng của huyện xác định thực hiện nhiều giải pháp để phát triển được thương hiệu bưởi da xanh Khánh Vĩnh. Trong đó, tập trung vào công tác tuyên truyền, vận động nông dân sản xuất theo hướng an toàn; tiếp tục nghiên cứu sản xuất theo hướng hữu cơ để nâng cao chất lượng.

Theo lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện Khánh Vĩnh, định hướng đưa bưởi da xanh Khánh Vĩnh có chỗ đứng vững chắc không chỉ nhắm đến thị trường trong nước mà còn ở nước ngoài. Để phát triển bưởi da xanh vào các thị trường khác, các hộ đang áp dụng quy trình VietGAP cần tuyên truyền, vận động thêm bà con xung quanh phát triển VietGAP để phát triển vùng trồng rộng lớn hơn.

Các sở, ngành, cơ quan chuyên môn cần tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ nông dân các tiến bộ, khoa học kĩ thuật trong việc truy xuất nguồn gốc điện tử về: vùng trồng, mã số vườn theo tiêu chuẩn của các nước trên thế giới, có như vậy bưởi da xanh Khánh Vĩnh mới rộng đường xuất khẩu ra nước ngoài.

Nguồn: Tổng hợp và kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam

Nuôi cá chép Nhật, làm chơi ăn thật

Tận dụng hồ nuôi cá diêu hồng của gia đình, anh Nguyễn Bá Luyện ở thôn Tân Lập, xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn, Bình Định đã đầu tư nuôi cá Koi, cho thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.

Cá Koi còn gọi là cá chép Nhật, là một trong những loài cá cảnh được ưa chuộng nhất hiện nay. Trước đây, cá Koi thường được người chơi cá cảnh nuôi nhiều ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong khi ở Bình Định ít người làm. Vốn là người nuôi, cung cấp cá giống và ham tìm tòi những mô hình mới, năm 2014, anh Luyện vào thành phố Hồ Chí Minh mua hơn 500 con cá Koi giống thuần chuẩn về đất Bình Định nuôi thử nghiệm.

 Anh Luyện chăm sóc đàn cá Koi.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn cá Koi của gia đình anh Luyện ngày càng phát triển. Tổng đàn hiện có 400 con có kích cỡ lớn và gần 20 nghìn con lớn nhỏ khác. Ngoài nuôi cá trong hồ xi măng, hồ đất, anh đang thử nghiệm nuôi ghép cá Koi trong lồng nuôi cá thịt diêu hồng, bước đầu có triển vọng tốt.

Anh Luyện chia sẻ, khí hậu Bình Định khá phù hợp với giống cá Koi nên cá sinh trưởng rất tốt, ít nhiễm bệnh. Thức ăn của cá Koi cũng như các loại cá khác, chủ yếu là tảo, tôm, tép và cám.

Để cá lớn nhanh, ngoài việc nuôi ở hồ xi măng vì thoáng mát, người nuôi cũng có thể nuôi ở hồ đất tự nhiên. Hồ nuôi cá Koi càng rộng càng tốt vì sẽ có lượng thức ăn tự nhiên nhiều, như thế cá sẽ nhanh lớn và đạt kích cỡ, màu đẹp.

Người nuôi cần cho cá ăn đầy đủ. Cá Koi cũng là dòng cá ăn tạp nên dễ nuôi chung với các loại cá khác. Khi cá mới lớn khả năng nhiễm bệnh cao và sức đề kháng yếu vì vậy cần xử lý hồ nuôi tốt, tạo dòng chảy nhẹ, kín gió…

Hàng ngày phải theo dõi để sớm phát hiện bệnh. Những bệnh cá Koi hay nhiễm là bệnh hô hấp, nấm da, đòi hỏi người nuôi phải chăm sóc đúng kỹ thuật, nhiệt độ hồ nuôi phải được ổn định.

Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu chơi cá cảnh, nhất là cá Koi đang phát triển mạnh. Đây là đối tượng rất phù hợp để người nuôi có thể nuôi ghép với các đối tượng thủy sản khác như trắm, trôi, mè, rô phi, diêu hồng… Từ đó có thể giúp bà con tăng thêm được thu nhập trên cùng 1 diện tích nuôi thả.

Mặt khác, cá Koi thuộc giống cá chép – biểu trưng cho một sức sống mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng. Theo quan niệm của nhiều người đây là loài cá mang đến tài lộc, vận may, sự thành công và bình an cho gia đình. Nhiều người xem đây là loài cá phong thủy giúp cho gia đình may mắn, do đó những năm gần đây cá Koi luôn được thị trường ưa chuộng, nhất là những con cá đầu đàn màu sắc độc đáo có giá trị lên tới cả chục triệu đồng.

Với giá bán hiện nay, từ 200.000 đồng/kg đối với cá Koi nhỏ, cá Koi lớn có con bán từ 5 – 7 triệu đồng. Chỉ tính riêng trong năm 2018, anh Luyện xuất bán khoảng 1,5 tấn cá Koi, sau khi trừ chi phí cũng cho lãi hơn 200 triệu đồng. Ngoài ra, anh còn ương và nuôi cá diêu hồng thịt, cho lợi nhuận hơn 300 triệu đồng/năm.

Nguy cơ tôm hùm nhiễm bệnh do vi khuẩn

 

Đó là cảnh báo của Trung Giống và Kỹ thuật Thủy sản Phú Yên khi kết quả quan trắc, cảnh báo môi trường nước cho thấy mật độ Vibrio tổng số vượt ngưỡng giới hạn cho phép, xảy ra ở các vùng nuôi Xuân Thịnh, Xuân Phương và Xuân Yên (TX Sông Cầu).

                Người nuôi tôm hùm cần tuân thủ khuyến cáo của cơ quan chức năng.

Do đó sẽ làm tăng nguy cơ vật nuôi dễ nhiễm bệnh do vi khuẩn. Người nuôi nên san thưa mật độ nuôi trong lồng, dãn khoảng cách giữa các lồng nuôi, tách những cá thể tôm nhiễm bệnh nuôi riêng, cần tăng cường vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, tạo sự thông thoáng cho lồng nuôi và vùng nuôi.

Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì lồng nuôi tại tầng giữa hoặc gần tầng mặt để tránh thiếu oxy cục bộ cho tôm nuôi, dùng lưới lan (hai lớp) che mát trên mặt lồng nhằm làm giảm cường độ ánh sáng và chống tôm bị stress, treo các túi vôi ở các góc lồng nhằm hạn chế tảo tàn do mưa dông (nhất là với thời tiết bất lợi như hiện nay), sát trùng môi trường nước, ổn định pH tạm thời … Trường hợp trời oi, đứng gió cần phải sục khí để cung cấp Oxy hòa tan cho tôm nuôi.

Ngoài ra, các hộ nuôi cũng phải thường xuyên theo dõi diễn biến môi trường, màu nước chú ý kiểm tra sự phân tầng của nước (nhiệt độ, độ mặn, ôxy hòa tan…), nhất là vùng nuôi Xuân Phương đang có nhiệt độ nước vượt ngưỡng giới hạn cho phép. Cũng như thường xuyên theo dõi hoạt động, sức khỏe tôm nuôi (nhất là khi trời nắng và đứng gió) để có những giải pháp xử lý kịp thời.

Nên lựa chọn nguồn thức ăn tươi, đảm bảo chất lượng, cần thiết sát trùng thức ăn bằng thuốc tím để đảm bảo an toàn cho vật nuôi. Định kỳ bổ sung các chế phẩm sinh học, vitamin và khoáng chất nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm nuôi tránh các tác nhân gây bệnh. Người nuôi nên xuất bán khi tôm đạt kích cỡ thương phẩm; hạn chế thả nuôi mới; nên san thưa mật độ tôm nuôi… nhằm giảm bớt chi phí thức ăn, tránh những tổn thất khác do biến cố môi trường xảy ra…

Phòng trị một số bệnh thường gặp ở tôm

Thực tế cho thấy, thời tiết bất thường hiện nay làm cho tôm có dấu hiệu chuyển bệnh một cách nhanh chóng. Sau đây là cách phòng trị một số bệnh thường gặp ở tôm, mời bà con theo dõi:

1.Bệnh do vi khuẩn Vibrio

  • Dấu hiệu:

Đứt râu, thối mang, đen mang, thối đuôi, đốm đen.

Tôm bẩn mình, bẩn mang, cơ thể chuyển màu hồng đỏ, tôm yếu, bỏ ăn rồi chết.

Hiện tượng chết có thể xảy ra khi bệnh ở mức độ cấp tính. Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ…

  • Tác nhân gây bệnh:

Tác nhân chính gây ra các bệnh trên là vi khuẩn thuộc giống Vibrio.

Vi khuẩn Vibrio xâm nhập vào ao nuôi theo: nguồn nước, tôm giống, thức ăn, từ đáy ao nếu công tác tẩy dọn chưa tốt.

  •  Phòng – trị bệnh:

Áp dụng tổng hợp các biện pháp để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn:

Giữ chất lượng nước ao nuôi tốt.

Không nuôi mật độ quá cao.

Tránh làm tôm bị tổn thương.

Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ trong ao nuôi.

Giảm độ mặn nước xuống 15 – 20 ‰ có thể hạn chế vi khuẩn Vibrio phát triển.

Tăng sức đề kháng bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E.

Bệnh vi khuẩn thường xảy ra khi nước ao bẩn, tôm yếu, vì vậy nên áp dụng đồng thời các biện pháp:

Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung vitamin C vào thức ăn.

Sử dụng dầu mực bao gói thức ăn: 5-10ml/kg thức ăn

Kích thích lột xác bằng Saponine 10-15g/m3

2. Bệnh do vi khuẩn dạng sợi

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Mang tôm biến đen hoặc biến màu nâu, các chân ngực và chân bơi có màu xám bám đầy lông tơ.

Bệnh nặng thì mang chuyển sang màu vàng, màu xám hoặc màu xanh bám nhiều lông tơ làm ảnh hưởng đến hô hấp. Tôm thường nổi đầu, dạt vào bờ và chết rải rác.

Nghiêm trọng hơn làm tôm không lột xác được.

Bệnh thường gặp ở ao nuôi có hàm lượng chất hữu cơ cao, mật độ nuôi dày.

  • Tác nhân gây bệnh:

Chủ yếu là Vi khuẩn dạng sợi Leucothrix mucor, ngoài ra có thể do một số vi khuẩn dạng sợi khác: Cytophagr sp, Flexibacter sp, Thiothrix sp…Chúng có thể độc lập hay phối hợp với nhau gây bệnh ở mang, thân và các phụ bộ của tôm.

Các vi khuẩn dạng sợi này sống hoại sinh trong nước biển, cửa sông và có thể bám lên bề mặt ngoài của tôm gây bệnh, có khả năng phân giải kitin, xenlulose và nhiều hợp chất hữu cơ khác.

  • Phòng – trị bệnh:

Cải thiện môi trường: thay nước, quạt nước

Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tăng sức để kháng cho tôm: Bổ sung vitamin C

Không nuôi mật độ quá cao

Tránh làm tôm bị tổn thương

Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ. Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E, và betaglucan.

Ao đã bị bệnh thì dùng 1-2mg/m3 Saponine hoặc bột hạt chè phun đều khắp ao kích thích tôm lột xác. Lột xác xong lại thêm nước để giảm nồng độ Saponine, hoặc dùng 2-5mg/m3 KMnO4 ( thuốc tím) phun khắp ao sau 4 giờ thì thay nuớc.

3.Bệnh đóng rong hay mảng bám

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Các sinh vật bám vào chân, mắt, vỏ giáp thành một lớp lông tơ có màu đen (xem kính hiển vi rất rõ).

Tôm bị bệnh thường tách đàn nổi lên mặt nước bơi lờ đờ hay bám thành bờ, phản ứng chậm chạp, kém ăn, không lột xác được.

Bệnh nặng, các sinh vật bám phát triển bám vào mang làm tôm không thở được tôm bị thiếu ôxy nên chết.

  • Tác nhân gây bệnh:

Do các sinh vật bám gây ra:

Động vật nguyên sinh như Epistylis, Vorticella, Acineta, Ephelota.

Tảo lam như Spirulina subsalsa, Schizthrix calcicola; tảo lục như Enteromorpha sp; tảo khuê Amphora sp, Nitszchia sp.

  • Phòng – trị bệnh:

Bệnh sinh vật bám ở tôm xảy ra khi nước ao bẩn, có nhiều tảo bám, nhiều nguyên sinh động vật (trùng loa kèn) nên phải áp dụng các biện pháp:

Cải thiện điều kiện môi trường:

Duy trì độ trong thích hợp, ổn định tảo trong ao.

Tăng cường thay nước sạch (10 – 20% nước/lần) để làm giảm sinh vật bám trong ao, cải thiện môi trường

Tăng cường quạt nước để tăng hàm lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi

Cho ăn đúng mức để tránh ô nhiễm đáy ao.

Vớt tảo nổi trên bề mặt.

Xử lý nước ao bằng chế phẩm vi sinh để hấp thu khí độc NH3 và phân hủy chất hữu cơ, hạn chế sự phát triển của tảo.

Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress, tăng sức khỏe cho tôm.

Kích thích tôm lột xác: thay nước hoặc dùng Saponin 10-15g/m3 tạt khắp ao giúp tôm lột xác đồng đều.

Diệt sinh vật bám: nếu tỷ lệ tôm nhiễm bệnh cao có thể sử dụng hóa chất diệt bớt sinh vật bám như formol (25ml/m3) hoặc CuSO4.

4.Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Tôm nuôi thương phẩm bị bệnh mềm vỏ thường có dấu hiệu bệnh lý:

Tôm có màu xỉn, vỏ bị mềm có khi rất mềm, vỏ rời thịt.

Những con mềm vỏ thường yếu, kém hoạt động, dễ bị con khác ăn thịt hoặc dễ bị các sinh vật gây bệnh tấn công, dễ bị mắc các bệnh bẩn mình bẩn mang, chết rải rác.

Tôm bị mềm vỏ thường chậm lớn, giảm giá trị thương phẩm và dễ mắc các bệnh cơ hội. Bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh.

  • Tác nhân gây bệnh:

Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng có liên quan đến môi trường và dinh dưỡng. Do thiếu dinh dưỡng, thức ăn thiếu Canxi và phốt pho. Độ cứng thấp.

Nước ao nuôi nhiễm thuốc trừ sâu.

Hàm lượng lân trong nước thấp.

  • Phòng – trị bệnh:

Quản lý môi trường có độ kiềm từ 80-160mg/l bằng cách: bón vôi CaCO3 hay Dolomite (CaMg(CO3)2) định kỳ một tuần một lần cho ao nuôi.

Quản lý môi trường ao nuôi thích hợp và ổn định tránh gây sốc cho tôm.

Bổ sung thêm khoáng thích hợp vào khẩu phần thức ăn như: Canxi/phos, Premix.

5.Bệnh thiếu vitamin C

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Tôm bị bệnh thiếu vitamin C thường có các dấu hiệu bệnh lý:

Xuất hiện các vùng cơ màu đen dưới lớp vỏ ở mặt lưng của phần bụng, ở các chân bơi, chân bò, trên mang tôm cũng có các vệt đen.

Tôm ăn ít hoặc bỏ ăn, sức đề kháng giảm, khả năng chịu sốc kém, dễ bị các tác nhân gây bệnh cơ hội tấn công tôm sinh trưởng chậm, chết rải rác 1-5% hàng ngày (tỷ lệ hao hụt tổng cộng rất cao 80-90%).

Bệnh thường gặp trong ao nuôi thâm canh, đặc biệt trong những ao tảo kém phát triển.

  • Tác nhân gây bệnh:

Do khẩu phần ăn của tôm bị thiếu vitamin C

  • Phòng – trị bệnh:

Sử dụng thuốc và biện pháp trị bệnh như sau:

Bổ sung một lượng vitamin C thích hợp vào khẩu phần thức ăn cho đến khi khỏi bệnh.

Cho tôm ăn thường xuyên vitamin C với các ao nuôi bằng thức ăn công nghiệp, môi trường ao nuôi thiếu tảo.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nâng chất lượng tôm giống

Mới đây, tại Ninh Thuận, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức diễn đàn Khuyến nông @ công nghệ với chủ đề “Nâng cao chất lượng tôm giống gắn với vùng SX tôm thương phẩm.

Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phát biểu tại hội nghị

Đây là cơ hội để các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý về lĩnh vực thủy sản và DN nuôi tôm cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; tìm giải pháp hữu hiệu để hạn chế dịch bệnh, nâng cao chất lượng SX tôm giống nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao trước sự cạnh tranh thương mại ngày càng khốc liệt.

Theo Tổng cục Thủy sản, cuối năm 2018, cả nước có 2.457 cơ sở SX giống tôm nước lợ; trong đó có 1.855 cơ sở SX tôm sú và hơn 600 cơ sở SX giống tôm thẻ chân trắng, với sản lượng 120 tỷ con (tăng hơn 10% so với năm 2017). Khu vực sản xuất tôm giống trọng điểm là các tỉnh khu vực Nam Trung bộ gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Hằng năm, các cơ sở ở khu vực này cung cấp khoảng 56% số lượng giống tôm nước lợ cho nhu cầu thả nuôi của cả nước.

Ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, tôm giống có vai trò hết sức quan trọng đối với ngành tôm, nhưng nước ta vẫn chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ chọn tạo, gia hóa, chưa thể chủ động cung ứng giống. Mỗi năm vẫn phải nhập khẩu từ 200.000 – 250.000 con tôm chân trắng bố mẹ (khoảng 90% phải ngoại nhập). Trong khi đó, một phần tôm sú bố mẹ vẫn phải thu gom từ tự nhiên. Hiện tại nước ta chỉ có giống tôm sạch bệnh phục vụ nuôi công nghiệp, chưa có con giống kháng bệnh phục vụ nuôi quảng canh.

Bên cạnh đó, giá thành SX tôm ở nước ta vẫn cao hơn các nước trong khu vực. Nguyên nhân do thức ăn nuôi tôm chiếm tỷ lệ cao trong giá thành SX (khoảng 65 – 70%); chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa được đầu tư đồng bộ, dễ dẫn đến ô nhiễm; công nghệ nuôi chưa được cải tiến nên năng suất thấp. Đó chưa kể tình trạng lạm dụng thuốc, hóa chất, bơm chích tạm chất vào tôm nguyên liệu còn xảy ra ở các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, làm ảnh hưởng đến uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam.

Ngoài ra, thị trường xuất khẩu tôm vẫn gặp khó khăn về các loại rào cản như thuế chống bán phá giá; chương trình SIMP của Mỹ; giá tôm nhập khẩu từ Ấn Độ thấp; các thị trường ngày càng tăng cường kiểm soát chặt chẽ về an toàn và chất lượng thực phẩm…

Thời gian qua việc quản lý giống tôm nước lợ được Bộ NN-PTNT, Tổng cục Thủy sản và các địa phương rất quan tâm và chỉ đạo quyết liệt. Tổng cục Thủy sản yêu cầu Chi cục Thủy sản các tỉnh tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử lý vi phạm trong SXKD tôm giống.

Để xử lý triệt để các cơ sở vi phạm, sau mỗi đợt kiểm tra, Tổng cục Thủy sản đều công khai cơ sở vi phạm trên các phương tiên thông tin đại chúng; đồng thời gửi văn bản cho các tỉnh/thành, các ngành có liên quan để chấn chỉnh, có hướng xử lý đúng, góp phần nâng cao chất lượng giống tôm gắn với nuôi trồng.

Các đại biểu tìm hiểu mô hình nuôi tôm công nghệ cao

 

Sốt giống sầu riêng ‘xách tay’

Giống sầu riêng Musang King xuất xứ từ Malaysia có năng suất, chất lượng cao được thị trường Trung Quốc và Singapore ưa chuộng, giá bán trái từ 600.000 – 1.200.000 đồng/kg. Chính vì thế, một số cơ sở tại Lâm Đồng đã “xách tay” chồi giống này về Việt Nam, song chất lượng chưa được kiểm chứng…

Giống sầu riêng Musang King được quảng cáo “xách tay” về bán rộng rãi cho nông dân.

Vài năm qua, sầu riêng đã trở thành cây trồng được nhiều nông dân tỉnh Lâm Đồng quan tâm vì giá liên tục tăng cao. Cũng chính vì thế, không ít người đã tận dụng diện tích trồng xen trong vườn cà phê, điều, thậm chí phá bỏ diện tích cây trồng đang có để theo phong trào trồng sầu riêng.
Bước vào mùa mưa, thời điểm này thị trường cây giống sầu riêng tại Lâm Đồng càng trở nên sôi động, tấp nập cảnh người mua kẻ bán. Nhiều nông dân đi theo xe tải, sẵn sàng chở hàng trăm cây giống về trồng.
Theo lời giới thiệu, trong vai người đi mua giống sầu riêng, chúng tôi có mặt tại cơ sở sản xuất cây giống Trung Thành tại xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm. Thấy chúng tôi đến, anh bán cây giống mời chào: “Giống Musang King này “hot” nhất thị trường năm nay. Cơ sở của tôi cố gắng lắm mới nhập được hơn 5.000 chồi giống để về ghép, anh có lấy thì nhanh kẻo vài hôm nữa muốn mua cũng không còn”.
Khi được chúng tôi hỏi về nguồn gốc cây giống, anh Trung chủ cơ sở cho hay: Nông dân cứ có nhu cầu giống, loại nào, số lượng bao nhiêu thì anh săn hàng về cung cấp. Để có được giống Musang King này, anh phải nhờ người lặn lội sang tận Malaysia mua chồi mang về để ghép.
Tôi hỏi: “Thế anh mua bán có hóa đơn gì không?”. Chủ cơ sở cho hay: “Tất nhiên là không, cái này giống như hàng xách tay, họ có bán bản quyền giống cho mình bao giờ đâu mà có giấy tờ”…
Theo anh Trung, vài năm nay, người trồng sầu riêng trong tỉnh sốt sắng vì loại giống Musang King này. Đây là loại sầu riêng được mệnh danh vua của các loại sầu riêng, với giá bán rất cao, từ 600.000 đồng – 1.200.000 đồng/kg. Không chỉ vậy, loại sầu riêng này còn có hương vị đặc trưng hơn, mùi thơm nhẹ, vị béo như bơ, cơm rất vàng, hạt lép hoàn toàn. Do vậy, thời gian gần đây, người dân từ các huyện Bảo Lâm, Đạ Huoai, Di Linh và TP Bảo Lộc… đã tìm đến đây mua về trồng.
Tai huyện Đạ Huoai, nơi được coi là thủ phủ của cây sầu riêng tỉnh Lâm Đồng. Nông dân cũng đang hồ hởi phát triển mở rộng thêm diện tích với tốc độ rất nhanh, nhu cầu về giống là rất lớn.
Anh Nguyễn Quang Tùng, chủ một cở sở kinh doanh cây giống tại thị trấn Ma Đa Guôi cho hay: Nắm bắt được nhu cầu rất lớn của người dân, các cơ sở kinh doanh cây giống như anh đã chuẩn bị nguồn cây giống rất lớn được đưa từ các cơ sở “uy tín” từ các tỉnh miền Tây hay xã Hòa Thắng, TP Buôn Ma Thuột, sẵn sàng cung cấp khi nông dân có nhu cầu.
Khảo sát nhanh một số cơ sở sản xuất, kinh doanh cây giống trên địa bàn, ngoài “siêu giống” Musang King, các loại giống sầu riêng nội địa như Ri 6, Chuồng Bò, Cái Mơn hay Monthong Thái Lan được bày bán rộng rãi với giá bán dao động từ 60.000 – 150.000 đồng/cây. Riêng giống Musang King có giá hơn 200.000 đồng/cây, chiều cao đạt 50 cm trở lên.
Theo ông Lại Thế Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Lâm Đồng: Hiện nay, chồi giống đang là khâu khó quản lý của các cơ quan chức năng tỉnh. Bởi hiện nay, Lâm Đồng chỉ mới xây dựng và mới cấp chứng nhận cho 3 vườn sầu riêng được công nhận là cây đầu dòng. Tuy nhiên, diện tích rất nhỏ và sản lượng chồi giống là không đáng kể so với trên thị trường đang được bày bán hiện nay.
Riêng sầu riêng Musang King xuất xứ từ Malaysia là một loại giống có năng suất, chất lượng cao được thị trường Trung Quốc và Singapore ưa chuộng.
Tuy nhiên, đến nay chưa có đơn vị nào trong tỉnh đăng ký nhập khẩu chính thức giống sầu riêng này về làm khảo nghiệm, thử nghiệm tại địa phương, cũng chưa được cơ quan chuyên môn nghiên cứu đánh giá về khả năng sinh trưởng và phát triển, khả năng thích nghi với điều kiện thời tiết, chống chịu sâu bệnh… Còn Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cũng chưa công bố chính thức về việc nhập giống sầu riêng Musang King về lai ghép và trồng thực nghiệm tại Tây Nguyên để đánh giá về thổ nhưỡng, khí hậu và năng suất…
Trong thời gian tới, Chi cục cùng các ngành chức năng sẽ tiến hành tổng rà soát, kiểm tra các hộ sản xuất, kinh doanh giống trên địa bàn đúng theo quy định của Luật Trồng trọt, từ đó cung cấp thông tin các địa chỉ uy tín rộng rãi để người nông dân biết, tránh tình trạng để họ “tự bơi” như hiện nay.
“Bà con cần cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn, chuyển đổi loại cây trồng cho phù hợp. Bởi trồng sầu riêng mất từ 5 – 7 năm mới biết kết quả, không nên quyết định vội vàng” – ông Lại Thế Hưng khuyến cáo.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam