Kỹ thuật nuôi cầy hương

I/. Giống và đặc điểm giống:

I/1. Tên gọi:

Tên Việt Nam gọi là cầy hương (có nơi còn gọi là chồn hương, chồn mướp, ngận hương, cầy xạ, cu tỏi).

Tên khoa học là Viverricula indica.Họ: Cầy Viverridae. Bộ: Ăn thịt Carnivora. Nhóm:Ở Việt Nam có 11 loài. Thú.

I/.2. Phân bố, tập tính, sinh thái và môi trường sống:

Cầy hương phân bố chủ yếu ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cầy hương có ở hầu khắp các tỉnh miền núi và trung du.

Trong tự nhiên, cầy hương sinh sống trong các khu vực rậm cỏ hay cây bụi thấp như nương rẫy ven suối, bụi rậm trong rừng, ven đồi… Bản tính tự nhiên của cầy hương hoạt động và kiếm ăn vào ban đêm là chủ yếu (thường từ chập tối đến nửa đêm) và thường sống đơn độc.

I/.3. Vóc dáng:

Cầy hương nhỏ hơn cầy giông. Cầy hương là loài thú ăn thịt, ăn tạp cỡ nhỏ hoặc trung bình. Cầy hương trưởng thành có thân hình thon dài trung bình từ 55-75 cm, cân nặng trung bình từ 2-5 kg. Bốn chân thấp, ngắn, màu đen, có năm ngón. Đầu dài, mõm nhọn. Bộ răng 36-40 chiếc. Bộ lông màu xám vàng, xám đen, nâu thẫm hoặc xám sẫm. Hai tai và mõm hơi đen. Phần hông có các vệt đen hay đốm đen mờ xếp thành hàng chạy dọc từ vai xuống mông (phần mông rõ nét hơn). Đuôi dài từ 35-50 cm (khoảng hai phần ba thân) với các vòng đen trắng hoặc nâu thẫm xen kẽ nhau (thường từ 7-10 vòng tùy theo loài).

I/.4. Sinh trưởng, phát triển và sinh sản:

Mùa sinh sản của cầy hương không rõ ràng nhưng thường tập trung vào tháng 4-6 hàng năm. Chúng là loài thú có nhiều chu kỳ động dục trong năm. Độ tuổi thuần thục sinh lý và chu kỳ mang thai không rõ ràng.

Cầy hương, thường đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa đẻ từ 3-5 con. Thường đẻ trong hang tự đào hoặc các hốc cây, hang động nhỏ. Cầy hương con rất khỏe, ít bệnh tật…Con non sinh trong hang (chưa mở mắt và còn yếu) được con mẹ cho bú.

Tuổi thọ trung bình trong tự nhiên khoảng 8-9 năm, trong điều kiện nuôi nhốt khoảng 22 năm.

I/.5. Thức ăn:

Cầy hương bắt mồi (chim, chuột, rắn…) rất giỏi. Thức ăn chính là các loài động vật. Thức ăn ưa thích của cầy hương là côn trùng, chuột, chim nhỏ, thằn lằn, sâu bọ, trứng… Ngoài ra, chúng còn ăn nhiều loại củ, quả và rễ cây…

I/.6. Giá trị và thị trường:

Thịt cầy hương mềm, thơm, ngọt và ngon, cùng da và xương được dùng như một vị thuốc y học cổ truyền.

Cầy hương đực có tuyến xạ nằm giữa kẽ hai tinh hoàn. Xạ hương là một dược liệu quý, vị cay, tính ấm, mùi thơm, có tác dụng khai khiếu, trấn tâm, chống độc, tiêu viêm, giảm đau, thông kinh, thường được sử dụng trong sản xuất nước hoa… Xạ hương của cầy nuôi không thơm như cầy tự nhiên.

Thịt cầy hương đang là món ăn đặc sản trong các nhà hàng khách sạn, có giá rất cao. Cầy hương trong tự nhiên ngày càng khan hiếm nên người ta đã tổ chức nuôi.

Cầy hương dễ nuôi, ít dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao. Trung bình nuôi một đôi cầy hương trong 4-6 tháng là có thể xuất chuồng.

I/.7. Thực trạng và giải pháp:

Cầy hương có giá trị kinh tế cao nên nguy cơ bị tận diệt là rất lớn. Số lượng trong tự nhiên đang giảm mạnh, cần được bảo vệ nghiêm ngặt và tổ chức chăn nuôi để phát triển vững bền loài cầy hương. Lưu ý: Cầy hương là loại động vật hoang dã thuộc Phụ lục III của Cites. Cần phải có giấy phép khi nuôi và vận chuyển.

II/. Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng:

Cầy hương rất dễ nuôi, ít dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao, yêu cầu về chăm sóc nuôi dưỡng rất đơn giản.

                                                   Cầy hương sinh sản

II/.1. Chuồng trại:

Chuồng nuôi cầy hương được thiết kế đơn giản bằng cách xây tường xi măng trên một khoảng sân trống hình chữ nhật. Tường xây cao khoảng 1m bao quanh phía trên tường là lưới B40 và có cửa mở ra vào chắc chắn…

Chuồng nuôi cầy hương làm theo hướng đông nam, mái lợp ngói, cao ráo, thoáng mát, có hệ thống cửa sổ đóng mở thuận lợi, có lắp đặt quạt thông gió, đảm bảo đông ấm, hè mát.

Bên trong chuồng cầy hương sinh sản, được thiết kế mặt bằng xi măng, hoặc bằng đất và được chia thành nhiều ngăn, mỗi ngăn có diện tích khoảng 5-10m2, có lỗ trống để thoát nước dễ dàng… Mỗi ngăn được thả nuôi hai con cầy hương đực và cái.

Trong chuồng có thể thiết kế giàn nhiều tầng (2-3 tầng) bằng bê tông hay tre, gỗ chắc chắn để chứa cũi nhốt cầy, mỗi tầng cao 0,7-0,8 m, các cũi để trên một tầng phải được ngăn kín bằng tấm các tông màu để cầy hương trong hai cũi không trông thấy nhau, nhằm phòng chống hiện tượng stress. Nền từng tầng được làm bằng bê tông hơi dốc (khoảng 5-60) về phía có rãnh thoát nước thải của nền chuồng. Thông thường cũi nhốt cầy được làm kiên cố bằng lưới sắt B40, cửa có then cài chắc chắn, để cầy không chui ra được.

Mỗi cũi hình hộp chữ nhật có thể tích 1 m3 (rộng 1 m, dài 2 m, cao 0,5 m, có 4-6 chân cao 0,2 m), có thể nuôi được 2-3 con. Đáy cũi bằng lưới sắt hay tre, gỗ chắc chắn và thưa (cách nhau 7-10 cm) để phân lọt xuống nền tầng, khi vệ sinh dọn phân được dễ dàng.

II/.2. Chọn giống và thời vụ nuôi thịt:

II/.2.1. Chọn giống nuôi:

Chọn những con khỏe mạnh, không bị thương tật, lông mượt, mắt, mũi nhanh nhẹn, tinh tường… Cầy hương giống có khối lượng từ 1,0-1,5 kg/con thì dễ nuôi.

II/.2.2. Thời vụ nuôi:

Thông thường thả cầy hương vào tháng 2-3. Thu, bán vào tháng 6-8. Cầy hương nếu được chăm sóc tốt, tăng trọng lượng rất nhanh có thể đạt 0,7-1,0 kg/con/tháng. Khi cầy đạt khối lượng khoảng 4-6 kg thì xuất bán theo nhu cầu của khách hàng.

II/.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng:

II/.3.1. Thuần dưỡng cầy hương:

Trong tự nhiên, bản tính tự nhiên của cầy hương thường hoạt động và kiếm ăn vào ban đêm là chủ yếu, thức ăn chính của cầy hương là côn trùng, chuột, chim, rắn, nhông, kiến, mối, trứng chim và nhiều loại củ, quả và rễ cây… Vì vậy, khi nuôi cầy hương ta nên cho cầy ăn bữa tối là chính, bữa sáng là phụ và tập cho cầy hương ăn thức ăn nhân tạo do con người cung cấp.

Tập cho cầy hương ăn thức ăn nhân tạo:

Muốn nuôi cầy ta phải mất thời gian tập cho chúng ăn thức ăn hoàn toàn mới lạ đối với bản năng tự nhiên của chúng, việc này phải tiến hành từ từ, kiên trì trong 5-10 ngày, cầy mới chịu ăn uống bình thường.

Trước tiên, ta để cầy nhịn đói trong 1-2 ngày, sau đó cho chúng ăn chuối chín bóc vỏ để cả quả (1-2 quả/con/bữa) trộn lẫn với cháo đường (cho tương đối ngọt như nấu chè) nấu nhuyễn. Ban đầu cầy chỉ ăn chuối và liếm cháo đường bám xung quanh, cho ăn như vậy khoảng 4-5 bữa. Sau đó, nghiền nhuyễn chuối chín với cháo đường cho ăn trong 1-2 ngày. Khi cầy chịu ăn, cho ăn cháo đường trước, hoa quả ăn bổ sung sau.

Để tăng khối lượng nhanh cần tập cho cầy ăn cháo đường ninh nhừ với các loại động vật như: Heo, chó, mèo, tôm, cá… và bổ sung thêm B.Complex, vitamin tổng hợp, cám gà đậm đặc (Concentrat)…

II/.3.2. Vệ sinh chuồng trại:

Ngoài việc cho ăn vừa đủ, tránh thức ăn thừa ôi thiu, hàng ngày cần phải dọn vệ sinh và thỉnh thoảng cho phơi chuồng dưới ánh nắng mặt trời để tiêu diệt mầm bệnh, đảm bảo chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát, không gây ô nhiễm môi trường. Phân, nước tiểu được thoát ra ngoài qua hệ thống cống rãnh được bố trí khi thiết kế. Chuồng trại vệ sinh sạch sẽ, giúp cầy hương phát triển nhanh, sinh sản nhiều và không bị bệnh tật.

Có lẽ mang trong mình mùi thơm ngào ngạt nên cầy hương rất kỵ với những chuồng nuôi mất vệ sinh. Chuồng nuôi nào không quét dọn sạch sẽ chúng hay bị bệnh và bỏ đi chuồng khác.

II/.3.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng:

Cầy hương đã được thuần dưỡng, thường quanh quẩn gần chuồng nuôi và ngoan hiền như mèo, nhưng cần lưu ý, khi đẻ thì chúng rất dữ.

Cầy hương đã được thuần dưỡng, mỗi năm có thể đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 2-5 con. Cầy hương con rất khỏe, ít bệnh tật…

Lưu ý, khi cầy hương tìm ổ đẻ, ta có thể dùng bồn sành sứ (loại bồn rửa mặt…) đặt vào chuồng rồi bắt cầy hương mang thai bỏ vào bồn cho chúng đẻ… trong điều kiện nuôi thuần hóa, nếu làm chuồng dưới đất hay đào hang sẵn cho cầy đẻ chúng chỉ nằm ì ở đó. Cầy hương chỉ đẻ khi chủ nuôi đưa chúng đặt vào bồn để đẻ. Lúc vừa mới đẻ xong, nếu bắt chúng đi, cầy mẹ sẽ xù lông cắn. Khi nào cầy con cứng cáp tìm cách ra khỏi bồn chúng mới ngoan ngoãn cho chúng ta bắt nhốt vào chuồng.

Bình quân, cứ đầu tư vài trăm ngàn đồng thức ăn, sau một năm nuôi, con cầy hương sẽ đạt trọng lượng trên dưới 5kg. Cầy hương vài ba tháng tuổi đã có thể xuất bán với giá 10 triệu đồng/cặp.

III/. Phòng và trị bệnh:

Cầy hương trong điều kiện nuôi dưỡng nhân tạo rất mẫn cảm với các loại thức ăn mới lạ. Khi thay đổi thức ăn chúng thường hay bị bệnh tiêu chảy, phân không thành khuôn, loãng, nhiều nước. Nên phòng bệnh tiêu chảy bằng cách, cho cầy hương uống thuốc kháng sinh phòng bệnh hoặc trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn mới cho cầy hương ăn (liều phòng chỉ bằng 1/2-1/3 liều điều trị)…

Cầy hương cũng có thể bị bệnh cầu trùng (phân lẫn máu) hoặc bị bệnh thương hàn (sốt cao, phân lỏng màu vàng) như các loại gia súc gia cầm khác. Ta có thể điều trị bằng các loại thuốc thú y phòng chữa cho gia súc, gia cầm của các hãng sản xuất thuốc thú y có uy tín (trộn lẫn với thức ăn)… Liều lượng tính lượng thuốc/kg thể trọng, tương tự như liều dùng đối với gia cầm. Với thuốc uống theo kinh nghiệm của nhiều hộ nuôi cầy lâu năm, nên tăng gấp 3 lần so với hướng dẫn trên bao bì thì mới nhanh khỏi bệnh…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Rắn ri voi

Rắn ri voi là vật dễ nuôi. Con giống hiện chỗ tôi không đủ cung cấp. Nhu cầu bà con cần đến tháng 12 năm nay là 10 triệu con giống, mà khả năng tôi chỉ cung ứng chừng 250.000 – 300.000 con. Bảy tháng rưỡi chúng mới đẻ một lần. Để bán rắn đúng thời điểm nên nuôi từ tháng 5 âm lịch.                                                         rắn ri voi

– Vốn đầu tư cho một ao rắn không nhiều tiền. Nhưng ao không nên quá 2000 m vuông mặt nước, mật độ nuôi có thể từ 10-185cn/ m vuông. Cứ muốn tăng trọng 1kg thịt rắn, chúng ta cần 10 kg thức ăn. Rắn ri voi con sinh ra3-4 giờ đã tự biết tìm thức ăn. Lúc nhỏ, rắn ăn cá trê, nhái, cá chốt đỏ, lúc lớn lên ăn tốt hơn. Rắn này cũng thuộc loại ăn tạp.
– Cách chăm sóc rắn ri voi thật sự cũng không có gì phiền phức, chưa bao giờ thấy rắn bị dịch, chỉ xuất hiện nấm, đẹn khi nước quá dơ. Chúng ta cố gắng giữ nguồn nước sạch. Ao (hồ) nuôi rắn xây âm xuống 1m, cao lên khỏi mặt đất 1,2m; bơm rửa cho sạch, đừng để xi măng xây dựng hòa trong nước nuôi. Nếu chỗ nuôi có cống ra – vào sông nước sạch thì tiện, nếu không, tốt hơn hết, một tháng thay nước 1 lần. Thường bà con hay hỏi làm sao phân biệt rắn ri voi và rắn ri cá.
– Rắn ri cá lưng đen sẫm, bụng trắng, hai bên có hai dãy nút đen chạy dọc theo bụng dài 30-40cm. Thịt rắn ri cá người tiêu dùng cho là ít dinh dưỡng, tanh, lạt; chỉ bán trong nước 1 con 600g bán 70.000 – 80.000 đồng.
– Rắn ri cá bặt một thời gian không xuất hàng được, mới đây Trung Quốc, Đài Loan, Đan Mạch, Nhật Bản đã “ăn” hàng lại. Họ dùng da rắn ri cá làm giày, dép, bóp, dây nịt, còn rắn ri voi họ ăn thịt.
– Rắn ri voi thịt thơm, nhiều dinh dưỡng, dài chừng 20cm, bụng màu vàng, trên lưng vàng sẫm, có một vằn ngang dưới bụng sẫm vàng hơn màu bụng. Bình quân 1kg rắn ri voi con khoảng 10.000 đồng; rắn ri cá chừng 5.000 – 6.000 đồng là cao.
– Với những người mới nuôi rắn ri voi lần đầu, nên nuôi chỗ có nước ra vào hoặc đặt cống dẫn nước từ sông nước sạch vào ao nuôi. Mực nước ao nuôi khi nước lớn chỉ chừng 1m, nước ròng còn 6-7 tấn là tốt nhất. Không phải thay nước. Xung quanh ao, trồng rau cỏ cho rắn núp nắng, đừng để rắn tụ vào một nơi (thí dụ: mỗi mét khối nước có tới 10 kg rắn tụ vào) và chỗ khác trống, nắng thì dễ ô nhiễm…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi rắn và chăm sóc rắn theo mùa

Lãnh thổ Việt Nam nằm trọn trong vùng nhiệt đới nhưng khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng khí hậu riêng biệt theo phân loại khí hậu Köppen:

   

     * Miền bắc: mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm ấm, kiểu khí hậu này thông thường xảy ra ở các bờ biển phía đông. mùa đông có thể khô và lạnh hơn so với các khu vực khác, do hệ thống áp cao Siberi, và mùa hè rất ẩm ướt do ảnh hưởng của gió
* Bắc trung bộ: là khí hậu nhiệt đới gió mùa, kiều khí hậu này có tháng khô nhất (diễn ra gần như ngay thời điểm hay chỉ ngay sau khi có đông chí cho nửa đó của đường xích đạo) với lượng giáng thủy ít hơn 60 mm
* Miền nam và nam trung bộ: mang đặc điểm nhiệt đới Xavan, kiểu khí hậu mùa khô rõ rệt, với tháng khô nhất có lượng giáng thủy nhỏ hơn 60 mm
– Thời tiết lạnh hoặc nhiệt đô thay đổi gây ảnh hưởng không tốt hầu hết các loài động thực vật. Rắn là loài chịu nóng, vì vậy nuôi và chăm sóc rắn chịu ảnh hưởng theo từng vùng và nhiệt độ, rắn thường bị nhiễm bệnh và thay đổi tâp tính theo thời tiết như sau:
Mùa nóng:
– Rắn ăn uống bình thường và hay phơi nắng để  tạo hiệu ứng từ nhiệt nhằm thay đổi nhiệt độ cơ thể để hỗ trợ quá trình chuyển hóa thức ăn và khử trùng trên da. Đồng thời bổ sung thêm nguồn Vitamin D dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. rắn cần phơi nắng khoảng 10 phút tự tổng hợp Vitamin D. Vitamin D có vai trò trung gian trong quá trình tổng hợp và tăng canxi máu, phospho máu, tăng thải canxi niệu và tác dụng chủ yếu trên các cơ quan chính. Hiệu ứng từ nhiệt thực chất là sự chuyển hóa năng lượng. Vì vậy nên cho rắn thường xuyên tắm nắng để kích thích rắn ăn nhiều và  nâng cao cao khả năng phòng bệnh.

* Tác động lên ruột: Ở tá tràng và ruột non vitamin D tổng hợp các protein chuyên chở, giúp canxi di chuyển chủ động qua màng ruột. Đó là nguyên nhân mùa lạnh rắn bỏ ăn và bị khô da do tác động thời tiết bên ngòai thiếu độ ẩm và thiếu Vitamin, nên bổ sung sung nhiều Vitamin C,  Men tiêu hóa và dưỡng chất

nuôi rắn

* Tác dụng lên xương: Vitamin D có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch, làm xương chắc khỏe phòng chống các bệnh, đặc biệt là lở loét nhiễm trùng đường niệu cấp, bênh lây qua đường hô hấp. Thiếu vitamin D rắn không hấp thu canxi, phospho trong thức ăn, làm giảm lượng canxi và phospho trong máu, xương xốp và giòn, có thể dẫn đến còi xương. Nhất là rắn lớn lọai từ 01 năm trở lên dễ bị loãng và nhuyễn xương

Mùa lạnh: khí hậu nhiệt đới Việt Nam thường xảy ra
– Miền Bắc: từ tháng 10 AL cho đến hết tháng 3 AL
– Miền nam: từ tháng 10 AL hết tháng 12 AL
– Rắn thường giảm ăn và bỏ ăn, da khô, không chỉ tạo tác động từ bên ngoài, nên bổ sung dưỡng chất từ bên trong như các loại dưỡng chất như đạm và dầu cá, chúng là những loại dưỡng chất nhiều chất béo sẽ giúp da hấp thụ thêm dưỡng ẩm và tích nước vừa đủ. Thông thường rắn ăn mồi chết giảm ăn it hơn rắn ăn mồi sống, vì mồi chết được nhúng qua nước nóng, rắn cảm nhận thân nhiệt sẽ bò ra ăn
* Trời lạnh, buổi sáng rắn họat động chậm do đau xương, thậm chí không cử động vì đau giữa các khớp
* Vào thời điểm chuyển mùa, nhất là vào thời tiết lạnh sức đề kháng của rắn giảm rõ rệt khiến cho các yếu tố gây bệnh như vi khuẩn, virus dễ dàng tấn công thường lây qua đường hô hấp. Thời tiết lạnh hàm lượng Lipit trong máu tăng cao làm axit uric trong máu bị kết tủa lắng đọng vào khớp xương gây viêm.
– Để giảm hiện tượng khô da, cứng khớp, các bệnh lây qua đường hô hấp. Giữ ấm và bổ sung thêm đạm thủy phân Hi Protamin, men tiêu hóa Bioyest De200f Enzyme + Vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn cho rắn

Phòng cắn mổ nuốt nhau khi chuyền mùa:
– Rắn có hiện tượng cắn mổ và nuốt nhau có nhiều nguyên nhân do mật độ nuôi dày , thiều dinh dưỡng và thường xảy ra trong giai đoạn chuyển mùa hoặc thời tiết nóng bức. Vì vậy cần có biện pháp tổng hợp cho rắn nhằm phòng chống phân đàn và hạn chế thiệt hại
– Cho ăn no và sử dụng liều cao Vitamine tổng hợp + Bioyeast De200f Enzyme + Hi Protamine

Cách giữ ấm cho rắn
– Nuôi chuồng lưới xi măng: sưởi ấm bằng bóng đèn tròn 75W có mắc bộ điều áp, vị trí ngay giữa chuồng. Nên tắm nắng cho rắn vào lúc 10h sáng. Không thắp đèn buối sáng để giảm thiểu điện năng và mở đèn sưởi bắt đầu từ 5h chiều. Khu vực miền bắc thắp 24/24 vào mùa đông
– Nuôi chuồng lưới trong chuồng xi măng như chuồng heo: che bạt phủ kín tòan bộ mặt chuồng. Bỏ 01 thùng xốp vào bên trong chuồng lưới, đục nhiều lỗ tròn để rắn tự chui vào tránh lạnh
– Nuôi trong phòng lớn: nuôi nhiều như miền bắc nên tập cho rắn ở trong thùng sốp và cho ăn uống bên ngoài, rắn sẽ tự động vào thùng khi thời tiết trở lạnh. Mùa đông thắp bóng đèn hoặc sưởi ấm bằng máy trong phòng

Các điều cần chú ý chăm sóc rắn vào mùa đông
– Bỏ nhiều nước vào chuồng để tránh tình trạng khô da đảm bảo độ ẩm phù hợp cho rắn sinh trưởng
– Bổ thêm đạm cá thủy phân Hi Protamin, men tiêu hóa Bioyest De200f, Vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn, không cho nhiều thức ăn vào chuồng. Đặc biệt rắn cái đang mang trứng nên cho ăn ít tránh tình trạng ruột chèn ép làm trứng nhỏ và không đạt yêu cầu giống

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Xác định giới tính chim trĩ

Trong chăn nuôi, việc biết rõ giới tính của vật nuôi là điều quan trọng. Vì có biết rõ giới tính của chúng, ta mới biết con nào thuộc giống cái hay giống đực để tiện tuyển lựa nuôi gầy giống cái hay giống đực để tiện tuyển lựa nuôi gầy giống sau này. Phân biệt giới tính của loài thú thì rất dễ, tuy nhiên loài gia cầm như gà, vịt, chim thì lại rất khó… Nhiều giống chim như chim cu gáy, bồ câu, khướu, yến phụng … dù ngay chim đã trưởng thành đã sinh sản được nhiều lứa mà giới tính của chúng ra sao, ngay nhiều chủ nuôi có kinh nghiệm lâu năm cũng không phân biệt được!

Vậy làm thế nào để phân biệt được chim trĩ trống và chim trĩ mái, bà con có thể đọc bài viết sau:

Chim trĩ dưới 3 tháng tuổi, trên mình còn phủ kín lớp lông măng màu xám tối thì chỉ có người nhiều kinh nghiệm lâu năm trong nghề mới có thể đoán được giới tính của từng con. Bởi giống chim trĩ rất khó để phân biệt được giới tính, đặc biệt trong giai đoạn con con. Riêng chim trĩ trưởng thành từ ba bốn tháng tuổi thì trên mình đã mọc lông vũ. Khi đó chúng ta phân biệt trống mái ra sao rất dễ, ngay người ngoài nghề cũng xác định được dễ dàng.

chim trĩ

Đối với trĩ trống: Sắc long trên mình trĩ tươi tắn, sặc sỡ và có nét rất đệp, thân mình mảnh khảnh, nhanh nhẹn và năng động. Đây là cách phân biệt dễ nhất.

Đối với trĩ mái: Sắc lông trên mình trĩ mái tối sẫm mặc dù đã thay lớp lông măng, nhìn không hấp dẫn…

Bài viết trên là phương pháp giúp bà con phân biệt được giới tính của chim trĩ, tuy nhiên để chính xác nhất bà con nên đợi lớp lông của chim trĩ về chiều dưới ánh hoàng hôn sẽ dễ phân biệt đâu là trĩ trống, đâu là trĩ mái, tiện cho việc phân loại trong chăn nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Một số điểm cần lưu ý trong chăn nuôi thỏ

Chăn nuôi thỏ có nhiều lợi thế do chi phí đầu tư thấp, tận dụng được các phế phụ phẩm nông nghiệp, lao động nhàn rỗi, lao động phụ. Thỏ thuộc loại đẻ khỏe, phát triển nhanh. Một thỏ mẹ nặng 4 – 5kg trong một năm có thể sản xuất ra 90 – 140 kg thịt, hiệu suất cao hơn nhiều so với các loài gia súc khác.

Về cơ bản, thỏ thuộc loại dễ nuôi, tuy nhiên để nuôi thỏ đạt hiệu quả cao cần chú ý các vấn đề sau đây:

1. Vấn đề thức ăn và nước uống cho thỏ

Do đặc điểm của dạ dày thỏ là co giãn tốt nhưng co bóp yếu. Manh tràng có dung tích lớn và có khả năng tiêu hóa chất xơ nhờ hệ vi sinh vật. Vì vậy, cần cho thỏ ăn nhiều thức ăn thô xanh chất lượng tốt, để vừa đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của thỏ, vừa có tác dụng chống đói và đảm bảo sinh lý tiêu hóa bình thường. Thức ăn thô xanh cho thỏ phải được rửa sạch bằng nước máy hoặc nước giếng. Những loại rau lá có hàm lượng nước lớn như bắp cải, khoai lang…, sau khi rửa cần phơi tái cho bớt nước trước khi cho thỏ ăn.

Cho thỏ ăn thức ăn nghèo chất xơ hoặc thức ăn chứa nhiều nước, thức ăn không tươi, bị dập nát dễ dẫn đến tình trạng rối loạn tiêu hóa như chướng bụng đầy hơi hoặc ỉa chảy và thỏ có thể bị chết.

Cũng cần lưu ý là thỏ thiếu nước còn nguy hiểm hơn thiếu thức ăn, đặc biệt là đối với thỏ đẻ và tiết sữa. Không cung cấp đầy đủ nước uống cho thỏ dẫn đến tình trạng thiếu sữa hoặc thậm chí thỏ mẹ ăn thịt thỏ con. Trong thời gian nuôi con nên cho thỏ mẹ uống thêm nước đường hoặc ăn mía để nhanh phục hồi cơ thể, tiết nhiều sữa và đàn con phát triển tốt.

2. Vấn đề sinh sản của thỏ

Tùy theo giống, thỏ có thể thành thục tính dục lúc 3 – 4 tháng tuổi. Để đề phòng hiện tượng cắn xé nhau và giao phối tự do, dẫn đến tình trạng giảm trọng hoặc rối loạn sinh sản, khi thỏ được 3 tháng tuổi nên nhốt riêng thỏ đực với thỏ cái.

Không nên cho thỏ phối giống ngay khi thỏ động dục lần đầu mà nên chờ đến 5 – 6 tháng tuổi, lúc thỏ đạt 75 – 80% khối lượng của thỏ trưởng thành. Cho phối giống trước 5 tháng tuổi thì đàn con đẻ ra sẽ yếu ớt, đồng thời ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của thỏ bố mẹ.

Do đặc điểm của thỏ là trứng chỉ rụng sau khi giao phối 9 – 10 giờ nên trong thực tế, để tăng số trứng được thụ tinh và tăng số con đẻ ra, nên áp dụng phương pháp phối giống bổ sung, tức là phối lại lần thứ hai sau lần thứ nhất từ 6 đến 9 giờ.

Khi cho thỏ phối giống cũng cần chú ý là bắt thỏ cái đến lồng thỏ đực mà không nên làm ngược lại, vì khi lạ chỗ thỏ đực khó làm quen với thỏ cái và thỏ cái thường kháng lại thỏ đực.

Để tránh đồng huyết, không để thỏ đực phối với thỏ cái cùng gia đình.

3. Vấn đề làm lồng và chuồng nuôi thỏ

Cần phải làm lồng nuôi thỏ. Lồng thỏ bảo đảm phải chắc chắn, thỏ không chui lẫn đàn, tránh được chuột tấn công và chăm sóc thuận tiện.

Phải làm ổ đẻ có nắp đậy cho thỏ. Sau khi thỏ đẻ, mỗi ngày chỉ nên đưa ổ đẻ vào lồng thỏ mẹ một lần để cho con bú, tránh hiện tượng thỏ mẹ chui vào ổ ỉa đái, bới ổ và dẫm đạp lên đàn con.

Thỏ là loài gia súc nhạy cảm với các tác nhân ngoại cảnh. Thỏ có ít tuyến mồ hôi dưới da, cơ thể thải nhiệt chủ yếu qua đường hô hấp. Khi nhiệt độ không khí tăng trên 35 độ C và kéo dài, thỏ rất dễ bị cảm nóng. Do các đặc điểm này lồng nuôi thỏ cần đặt tại những vị trí thoáng, mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông.

Trong trường hợp chăn nuôi thỏ quy mô lớn cần xây dựng chuồng trại cẩn thận. Chuồng trại phải đảm bảo thông thoáng và dễ làm vệ sinh. Trong trường hợp nuôi thỏ quy mô gia đình, có thể đặt lồng dưới gốc cây có bóng mát ngoài vườn, đầu nhà, có mái che chống được mưa, nắng, gió lùa. Không nên đặt lồng thỏ trong chuồng lợn hoặc chuồng gà, vừa ngột ngạt, hôi thối, vừa dễ lây lan dịch bệnh.

4. Vấn đề vệ sinh phòng trị bệnh

Thỏ là loài gia súc yếu, sức đề kháng cơ thể kém, dễ cảm nhiễm các mầm bệnh và phát triển thành dịch. Để hạn chế tối đa tổn thất kinh tế do dịch bệnh, điều rất quan trọng trong chăn nuôi thỏ là tạo ra môi trường tiểu khí hậu chuồng nuôi hợp vệ sinh và tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Cụ thể, hàng ngày cần làm vệ sinh lồng nuôi, chuồng nuôi; định kỳ sát trùng lồng, chuồng, máng ăn, máng uống, ổ đẻ; cần cung cấp cho thỏ đầy đủ thức ăn và nuớc uống sạch sẽ, chất lượng tốt.

Các bệnh thỏ thường mắc là bệnh bại huyết, bệnh ghẻ, bệnh cầu trùng ..v..v. Cách sử dụng các loại thuốc để phòng trị các bệnh này như sau:

– Đối với bệnh bại huyết: Tiêm vắc xin để phòng bệnh bại huyết cho thỏ con lúc 2 tháng tuổi. Đối với thỏ sinh sản, tiêm định kỳ 6 tháng 1 lần.

– Đối với bệnh ghẻ:
Điều trị: Dùng Ivermectin 0,7 ml/3kg thể trọng hoặc dùng Dextomax 0,1 ml/3kg thể trọng.

– Đối với bệnh cầu trùng:
Phòng bệnh: vệ sinh, sát trùng chuồng trại. Sử dụng thuốc Anticoc, HanE3 bằng 1/2liều điều trị.
Điều trị bệnh: thuốc Anticoc, HanE3: 0,1-0,2g/kg thể trọng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Chế phẩm sinh học từ trùn quế

Các nhà khoa học ở Viện Sinh học nhiệt đới đã tạo ra 3 chế phẩm sinh học từ trùn quế để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm và phân bón cho cây. Với công nghệ đơn giản, các hộ nông dân nghèo ở các vùng xa xôi có thể áp dụng dễ dàng.

Trong nông nghiệp, trùn quế được coi là loại thức ăn đạm cao cấp cho vật nuôi. Các loài cá, baba, tôm, ếch, lươn, cua biển… đều rất thích ăn trùn. Đối với gia súc, gia cầm, trùn là loại thức ăn bổ dưỡng. Tuy nhiên, trùn quế tươi chỉ có thể để không quá một ngày ở nhiệt độ thường nên rất khó lưu trữ.

Từ thực tế đó, TS Võ Thị Hạnh cùng các cộng sự thuộc Phòng Vi sinh Viện Sinh học nhiệt đới đã tạo ra 3 chế phẩm sinh học từ trùn quế để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, làm phân bón cho cây… Các chế phẩm này có thể được bảo quản, lưu trữ trong thời gian dài, từ 6-10 tháng.

Một ưu điểm nổi trội của các chế phẩm này là vẫn giữ nguyên mùi trùn tươi, các chất dinh dưỡng không bị mất đi hoặc biến chất theo thời gian. Chế phẩm đầu tiên là BIO-T, dùng làm thức ăn cho tôm sú, cá tra, gà lương phượng và vịt xiêm. Điều đáng nói là nếu sử dụng trùn quế tươi phải cần một lượng nhiều gấp 10 lần so với BIO-T mới có hiệu quả tương tự. BIO-T được sản xuất bằng cách sử dụng trùn quế tươi phối trộn với hỗn hợp vi khuẩn hữu ích và enzyme tiêu hóa dùng trong chăn nuôi, lên men tạo sản phẩm có mùi trùn, giàu dinh dưỡng (đạm protein và amin cao), enzyme tiêu hóa, vi khuẩn hữu ích và các chất kháng sinh…

Chế phẩm thứ hai là BIO-BL, đã được dùng để bón cho cây trà ô long và một số cây hoa màu, cây kiểng… Kết quả sau khi sử dụng cho thấy búp trà tươi, màu sắc đẹp hơn, mùi hương của trà cũng thơm hơn. BIO-BL được tạo thành từ trùn quế tươi phối trộn với hỗn hợp vi sinh vật hữu ích và enzyme dùng trong trồng trọt, lên men tạo sản phẩm có mùi trùn, giàu đạm protein và amin cao, enzyme tiêu hóa có hoạt lực cao, vi khuẩn hữu ích…

Chế phẩm BIO-PT được tạo ra bằng cách dùng phân trùn ủ lên men, sản phẩm làm ra có mùi thơm, độ ẩm 40%, đạm tổng 2%, chất hữu cơ, kháng sinh và hỗn hợp vi khuẩn hữu ích. BIO-PT dùng để gây màu và xử lý nước ao nuôi tôm dùng trong nuôi trồng thủy sản.

Nhóm tác giả cho biết ưu điểm của phương pháp chế biến trùn quế bằng công nghệ vi sinh là không cần dùng thiết bị đông lạnh hay thiết bị sấy nên không tốn chi phí điện, năng lượng, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với công nghệ đơn giản, các hộ nông dân nghèo ở các vùng xa xôi có thể áp dụng dễ dàng. Việc có thêm các chế phẩm sinh học mới có giá thành rẻ góp phần làm cho ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và trồng trọt phát triển tốt hơn.

 

 

Các hình ảnh về trùn quế và chuồng nuôi trùn quế

Nguồn : Báo NLĐ, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kĩ thuật nuôi thỏ theo mô hình công nghiệp

 Nghề nuôi thỏ đã có tự lâu đời ở nước ta, từ Bắc chí Nam. Từ nông thôn và thậm chí nuôi ngay khu dân cư thành thị. Bởi vì thỏ rất dễ nuôi, cho thu nhập nhanh và lợi nhuân cũng rất cao.

                                           Kĩ thuật nuôi thỏ trong công nghiệp

Trước tình hình dịch cúm gia cầm đang lan rộng, việc nuôi thỏ làm thực phẩm, đã được nhiều địa phương xem như một trong những giải pháp thay thế.

Đặc tính chung

Nuôi thỏ tương đối đơn giản, nguồn thức ăn dễ kiếm, đa số tận dụng rau xanh, lương thực trong nhà. Chi phí cho chuồng trại, thuốc phòng bệnh, công chăm sóc cũng không cao.

Thỏ là gia súc có nhiều ưu thế: Đẻ khỏe, phát triển nhanh, sản phẩm lại có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu.

Thỏ sinh sản nhanh, dễ tạo đàn. . Thịt thỏ cho lượng protein cao và năng lượng thấp hơn so với một vài loại thịt động vật khác. Lượng cholesterol trong thịt thỏ thấp hơn thịt gà, trong thời dịch cúm gia cầm có thể nuôi thỏ công nghiệp cung cấp một lượng lớn thịt cho người tiêu dùng. Những người cao tuổi, người cần giảm béo và người có bệnh tim nên ăn thịt thỏ tốt hơn thịt heo, bò, gà…

Phân loại

Thỏ thuộc bộ gặm nhấm (Rodentia), trên thế giới có rất nhiều giống như: Thỏ trắng khổng lồ Bauxcat và Flandra (Pháp) trọng lượng 6,5 ? 6,8 kg, Thỏ trắng Belie (Pháp), Thỏ trắng Nga (lớn và nhỏ), Thỏ Tân Tây Lan trắng, Thỏ California (Mỹ), Thỏ Chinchila (Anh)? Riêng tại Việt Nam, hiện nay không còn giống thỏ thuần, phần lớn bị lai tạp, chỉ có 3 giống chính là: Thỏ trắng Tân Tây Lan – Việt Nam (nhập từ Hungari (1978), thỏ xám Việt Nam, thỏ đen Việt Nam.
Thỏ nuôi hiện nay, phần lớn có nguồn gốc lai tạo từ thỏ hoang châu Âu và châu Phi vào thời Trung cổ. Thỏ hoang có sức đề kháng tốt hơn thỏ nhà. Thỏ nhà có khoảng 80 loại, căn cứ theo trọng lượng hoặc theo màu sắc lông để chia nhóm giống thỏ.

Trọng lượng từ 0,9-2,7 kg (thỏ nhỏ con), từ 2,8-4 kg (thỏ trung bình), từ 4,1-5 kg (thỏ to con), trên 5 kg (thỏ khổng lồ).

Thỏ trung bình và hơi to con, thường ăn ít, lớn nhanh. Thịt ngon, xương nhỏ. Nuôi lấy thịt có lợi.

Thỏ khổng lồ ăn nhiều, xương to, ít thịt, sinh sản chậm, hiệu quả kinh tế thấp.

Chọn giống thỏ

Thỏ giống tốt được nuôi từ 6 tuần đến 5 tháng phải hội đủ tiêu chuẩn: Vành tai bóng và sạch. Bàn chân và kẽ chân không ghẻ. Mí mắt không sưng và tròng mắt trong. Bộ lông mịn và sáng. Bụng mềm có lông xốp. Đuôi không dính phân ướt. Da lưng mềm và không tróc lông. Cục phân to tròn và khô. Thỏ chắc thịt, hiếu động. Được tiêm ngừa đầy đủ.

Không nên chọn mua thỏ đang có thai hoặc đã sinh sản về nuôi. Thỏ đang mang thai, di chuyển có thể chết hoặc đẻ non. Thỏ đi khập khiễng, lưng uốn cong, cào chân, liếm lông, nghiến răng, hơi thở nhanh… là dấu hiệu thỏ bệnh.

Khi thỏ bị bệnh đường ruột, viêm vú, viêm thận, viêm tinh hoàn, bệnh đường hô hấp, thuốc điều trị tốn kém gấp nhiều lần giá trị một con thỏ.

  1. Giống thỏ ngoại mới

Thỏ New Zealand trắng: Có nguồn gốc từ New Zealand, nuôi phổ biến châu Âu, Mỹ. New Zealand trắng là giống thỏ tầm trung, mắn đẻ (mỗi năm đẻ 6-7 lứa, mỗi lứa 6-8 con), sinh trưởng nhanh, thành thục sớm, nhiều thịt, phù hợp với phương thức chăn nuôi công nghiệp và gia đình. Thỏ có ngoại hình lông dày, màu trắng tuyền, mắt hồng, trọng lượng trưởng thành từ 5-5,5kg/con. Giống thỏ New Zealand trắng nhập vào Việt Nam tỏ ra thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau.

Thỏ Panon: Giống thỏ này xuất phát từ dòng của giống New Zealand trắng được chọn lọc nghiêm ngặt về khả năng tăng trọng và trọng lượng trưởng thành tạo nên. Thỏ Panon cũng giống như thỏ New Zealand nhưng tăng trọng cao hơn. Trọng lượng khi trưởng thành đạt 5,5-6,2kg/con. Giống thỏ này cũng đã được nuôi đạt kết quả ở nhiều vùng nước ta.

Thỏ California: có nguồn gốc từ Mỹ, được lai tạo giữa 3 giống thỏ: Chinchila, thỏ Nga, thỏ New Zealand. Là giống thỏ tầm trung, trọng lượng trung bình 4,5-5kg, có thân ngắn hơn thỏ New Zealand, lông trắng nhưng tai, mũi, bốn chân và đuôi có điểm lông màu đen. Giống thỏ này đã được nuôi nhiều ở Việt Nam.

Chuồng nuôi

Thiết kế chuồng nuôi thỏ phải thoáng, ánh nắng ban mai lọt vào, dễ chăm sóc và làm vệ sinh, có rào chắn tránh chuột và mèo gây hại.

Chuồng bằng lưới sắt có giàn đỡ bằng sắt hoặc bằng cây phủ lớp sơn, cao cách mặt đất trên 0,6m. Thỏ tơ từ 6 tuần đến 4 tháng tuổi có thể nuôi 10 con trong chuồng kích cỡ 2×0,7×0,5m; loại chuồng có kích cỡ 0,7×0,5×0,5m chỉ dành nuôi 1 con thỏ trưởng thành trên 4 tháng tuổi.

Thức ăn

Thức ăn nước uống phải thật sạch, không dính đất cát bẩn, không nhiễm dịch bệnh, chất độc (thuốc trừ sâu…). Vì thỏ rất mẫn cảm với các bệnh ở đường tiêu hóa như chướng bụng đầy hơi, bệnh cầu trùng, bệnh sán lá gan, bệnh tiêu chảy do E.coli… Cần cho thỏ ăn các loại lá cây, thân cành ở xa mặt đất (cành lá keo dậu, lá dâu, lá râm bụt…), các loại cỏ, rau trồng trên cạn, đất màu (cỏ voi, ngọn lá mía, rau lá đậu, sắn dây…). Không nên cho thỏ ăn rau cỏ mọc tự nhiên nơi ẩm ướt, hồ ao. Nếu dùng bèo sen thì phải nấu chín cho ăn đặc như cho lợn ăn.

Thỏ con nuôi vài tuần đến 4 tháng tuổi, chỉ cần cho ăn cám viên là đủ. Ăn thêm rau cỏ, thỏ dễ bị bệnh tiêu chảy và chết. Thỏ trưởng thành, sức đề kháng tốt hơn, có thể cho ăn rau cỏ rửa thật sạch để ráo nước. Lượng rau cỏ mỗi ngày chừng 20g/con.

Thức ăn viên phải đảm bảo thành phần dinh dưỡng cho thỏ tăng trưởng theo thời gian nuôi. Thỏ con nuôi đến trưởng thành có nhu cầu dinh dưỡng mỗi ngày từ 8-10% protein, 2-4% lipid, 10-20% glucid, trên 4 tháng tuổi thêm một ít chất xơ.

Thỏ có thai và cho con bú cần lượng dinh dưỡng mỗi ngày từ 10-15% protein, 5-7% lipid, 10-20% glucid, một ít chất xơ cần thiết.

Thỏ lứa ăn chừng 30-50g cám viên, mỗi ngày chia hai lần. Thỏ đực giống, thỏ cái nuôi con và mang thai, ăn chừng 80-100g cám viên. Chia hai lần sáng và chiều.

Thức ăn cám viên nuôi thỏ được chế biến từ nguồn ngũ cốc có sẵn. Nhu cầu lượng thức ăn chừng 4% trọng lượng cơ thể thỏ.

Mỗi con thỏ cần từ 0,2-1 lít nước trong ngày. Cho thỏ uống nước sạch, không có hàm lượng sắt. Nước uống phải được lắng lọc khử trùng. Nước lạnh dưới 80C không cho thỏ uống. Nhiệt độ thích hợp cho thỏ uống là 150C.

Nhiều người cho rằng thỏ không cần uống nước là sai lầm vì nước rất cần cho trao đổi chất. Thỏ chết không phải do uống nước và hay ăn cỏ ướt mà vì uống phải nước bẩn, ăn rau bị nhiễm độc…

Chăm sóc

Thỏ rất nhạy cảm với những tác động của môi trường. Phản ứng xấu với những thay đổi đột ngột về ăn uống, chăm sóc, khí hậu…Khi nuôi, cần lưu ý đến các nguyên tắc chăm sóc như sau:

Thỏ rất dễ bị bệnh rối loạn tiêu hóa, bệnh đường ruột. Do đó nên tạo ra một phản xạ có điều kiện ở thỏ về thời gian ăn và thứ tự thức ăn. Đặc tính loài thỏ, rất thích ăn đêm, ban ngày ngủ nhiều.. Ban đêm, thỏ ăn gấp 2- 2,5 lần ban ngày. Nếu cho ăn sai nguyên tắc này, thỏ sẽ chậm lớn.

Một số thông tin liên quan, qua kinh nghiệm thực tế cho thấy:

Buổi sáng (từ 7 giờ đến 12 giờ) : Việc đầu tiên là cho thỏ uống nước, tiếp theo là ăn thức ăn hạt (ngô, thóc…) hoặc hỗn hợp thức ăn tinh (cám, ngô, bột khoáng…). Đến 9-10 giờ cho ăn thức ăn thô xanh tươi (1/3 số lượng khẩu phần).
Buổi chiều (từ 14 giờ đến 17 giờ): Đầu giờ cho ăn củ, quả đã thái lát (khoai lang, bí ngô, đu đủ, cà rốt, su hào…) hoặc các loại thức ăn mềm (cám nấu trộn lẫn, bã chè, rau thái nhỏ…).

Buổi tối (ban đêm): Cho ăn các loại thức ăn xanh như cỏ, lá cây, rau xanh… (2/3 khối lượng khẩu phần để thỏ ăn cả đêm).

Ban đêm tuyệt đối không cho thỏ ăn thức ăn hạt, thức ăn hỗn hợp tinh. Nếu ban ngày thỏ ăn không hết thì phải vét sạch máng. Nếu để thừa chuột sẽ lên ăn và cắn chết thỏ, nhất là thỏ con mới đẻ.

Trong thời gian nuôi vỗ béo, nên giảm bớt ánh sáng, tạo không gian yên tĩnh để thỏ nghỉ ngơi, ngủ sau khi ăn. Trước khi làm thịt 7 ngày, nên giảm thức ăn thô (cỏ khô, rơm…) thì chất lượng thịt sẽ tốt và ngon hơn.

Phối giống

Thỏ đực từ tháng thứ 8 trở đi có thể cho phối giống. Thỏ cái có thể phối giống sinh sản từ tháng thứ 6, khi đó bộ phận sinh dục thỏ cái sưng lên có màu đỏ. Cho thỏ cái vào chuồng thỏ đực để giao phối, ngày hai lần vào buổi sáng và chiều. Chỉ cho thỏ mẹ tái phối giống 1 tháng sau khi đẻ, thỏ con đủ sức rã bầy và tự ăn sau khi thôi bú sữa, thỏ mẹ còn thời gian 2 tuần bồi dưỡng sức khỏe đẻ lứa kế tiếp. Thỏ con 6 tuần tuổi cung cấp giống cho người nuôi kiểu công nghiệp thích hợp nhất.

Thỏ tăng trưởng nhanh từ lúc mới sinh đến 4 tháng tuổi. Từ tháng thứ 5 trở đi, thỏ tăng trưởng chậm. Nuôi thỏ công nghiệp lấy thịt có lợi nhất là giai đoạn 3-4 tháng tuổi (nặng 2,2-2,8kg/con).

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi giun quế đưa lại hiệu quả cho chăn nuôi

kỹ thuật nuôi giun quế đưa lại hiệu quả cho chăn nuôi

Bài viết chia sẽ kỹ thuật nuôi giun quế đưa lại hiệu quả cao, kỹ thuật nuôi giun quế không quá khó cho người nông dân mà ai cũng học được, để nuôi được giun quế phát triển nhanh nhất thì bạn phải đọc kỹ các kỹ thuật nuôi giun quế như sau.

Giun quế là loại giun thường được cung cấp làm thức ăn cho gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng…Ngoài ra giun quế thường được dùng làm thức ăn cho cá. Biết được những điều đó người nông dân đã bắt đầu tiền hành tìm hiểu học hỏi và thực hành các kỹ thuật nuôi giun quế để cải thiện đời sống gia đình.
Giun quế đưa lại hiệu quả cao trong chăn nuôi để hiểu được hiệu quả của giun quế như thế nào thì xin mời bạn xem một vd sau:

kỹ thuật nuôi giun quế

VD: Khi một người nông dân nuôi 100 con gà thức ăn cho các con gà đó ăn thường là ló, nếp, cám con cò nếu chúng ta chưa nuôi giun quế, thì một tuần bạn phải chi ra hơn 500.000- 600.000 VND để cung cấp thức ăn cho nó. Sau khi chúng ta nuôi 100 con gà đó thì sau 5 tháng thì mỗi con gà có trọng lượng bình quân là 2kg (đây là trọng lượng con gà lớn nhất rồi) nhưng do các bệnh dịch nên tầm khoảng 80 còn sống thì gà sau 5 tháng bạn bán sẽ thu được số tiền là 80x 130 (giá gà hiện tại)x2=20 800. 000 VND trừ đi chi phí thức ăn là 500x4x5=10 100.000 VND cộng với số ngày công chăm sóc gà là 150 ngày nếu tính trong 5 tháng, nhưng vì chăm sóc số lượng ít nên chúng ta chỉ tính khoảng 30 ngày chăm sóc thôi nên giá công hiện tại là 250/ngày là 7 500.000 VND vậy chi phí để nuôi một đàn gà đến khi chúng ta thu nhập được là 17 600.000 VND, nếu như chúng ta nuôi được giun quế làm thức ăn chính cho đàn gà thì chúng ta sẽ tiết kiệm được tầm 15 000.000 VND một con số rất lớn cho người nông dân phải không nào sau đây là kỹ thuật nuôi giun quế được áp dụng rộng rãi hiện nay

Kỹ thuật nuôi giun quế

QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ NUÔI GIUN QUẾ
1.Chuẩn bị chuồng nuôi:
Tùy theo khả năng và quy mô kinh doanh mà chúng ta làm chuồng trại. Có các phương thức như: Nuôi giun trong hố đất, nuôi trong thùng hộp và nuôi trong bể xây.
a) Nuôi giun trong hố, luống đất:

Chọn nơi cao ráo, đào hố nuôi sâu 0,4 – 0,5 m, rộng 1 – 1,2 m, dài 2, 3, 4 m tùy yêu cầu. Xung quanh hố có rãnh thoát nước.  Cũng có thể nuôi giun theo kiểu đắp luống trên mặt đất. Luống nuôi cao 0,3 – 0,4 m, rộng 1 m, dài từ 2 – 4 m. Xung quanh luống quây ván, thân cây chuối, bao bì đựng thức ăn, xếp gạch, xây bằng gạch để ngăn phân nuôi không tràn ra ngoài. Trong điều kiện chưa có vốn, chúng ta có thể quây mê bồ là có thể nuôi được. Trên luống có mái che, mái cách mặt luống khoảng 1 m. Luống nuôi giun rất thích hợp ở nông thôn vì có mặt bằng.
b) Nuôi trong thùng, hộp: 

Nếu nuôi giun vào mục đích lấy giun nhằm tăng thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm, thủy hải sản hoặc xử lý rác thải nhà bếp, thì việc làm chuồng cũng hết sức đơn giản. Có thể tận dụng những vật có sẵn để nuôi như: chum, chậu, thùng phuy, can nhựa, xô nhựa, những bể nước không còn sử dụng v.v… Cũng có thể đóng thùng nuôi giun gồm nhiều tầng chồng lên nhau. Tùy theo qui mô lớn nhỏ và tùy theo điều kiện tận dụng nguyên vật liệu của mỗi nơi, mà thiết kế thùng nuôi có kích thước phù hợp. Thùng nuôi giun phải đảm bảo có thể chứa được thức ăn cho giun và không làm thay đổi nhiệt độ của thức ăn. Nước trong thức ăn khi lắng xuống phải có chỗ thoát, để phần thức ăn bên dưới không quá ẩm. Đóng thùng nuôi giun phải đảm bảo kín, không cho giun bò ra ngoài, bỏ trốn khỏi nơi nuôi. Thông thường các thùng làm bằng gỗ hoặc nhựa.

Trong điều kiện chật hẹp như ở đô thị hoặc nhà cao tầng, người ta sử dụng hộp nuôi giun. Hộp nuôi giun có kích thước 50 x 35 x 20 cm. Đáy hộp có khoan nhiều lỗ thoát nước đường kính khoảng 5 mm và được lót dưới chất dẻo ngăn không cho giun bò ra ngoài. Bên trong hộp phủ giấy màu đen hoặc lá chuối để tạo ra môi trường tối. Bốn góc hộp có chân cao khoảng 5 cm, để khi chồng lên nhau vẫn có kẽ hở cho thông không khí. Dưới mỗi chồng hộp đặt một cái chậu để hứng nước từ các hộp trên chảy xuống. Nếu quy mô lớn hơn ta có thể làm chuồng bằng tấm bạt nilon. Nuôi giun trong gia đình với qui mô nhỏ, có thể làm những thùng nuôi vuông 70 x 70 cm và cao 45 cm. Với kích thước này có thể nuôi được 10.000 con giun. Các thùng có thể xếp chồng lên nhau và đặt trong nhà có mái che mưa che nắng.
c) Nuôi trong chuồng có ngăn bể xây:

Nếu nuôi giun qui mô lớn nhằm kinh doanh thì nên xây chuồng. Có thể làm lán mái riêng để che mưa, che nắng hoặc tận dụng gian nhà sẵn có để làm chuồng. Tùy theo diện tích đất ta có thể xây chuồng dài rộng tùy ý. Thông thường chuồng xây ngang 1 m 50, cao 0,40 m, dài tùy thuộc vào diện tích mỗi nơi. Có thể xây các ô liền nhau thành từng dãy dài. Ở hai mặt đối diện mỗi ô nuôi chứa mỗi bên một cặp lỗ nhỏ để thoát nước. Chuồng nuôi giun được quây bằng gạch hoặc bằng gỗ ván. Tuỳ theo lượng giun giống ban đầu mà quây ô chuồng nuôi giun rộng, hẹp khác nhau với mức10 – 12 kg giun giống sinh khối / m2. Chiều cao của ô chuồng ban đầu là 10- 20 cm, sau đó nâng cao dần theo lượng phân cho vào nhiều lên nhưng không quá 40cm. Chuồng được che phủ bởi lá dừa, lá cọ, rơm, rạ là tốt nhất, vì tạo được bóng mát và giữ được độ ẩm cao. Tuy nhiên chuồng trại phải bảo đảm sự thông thoáng, không khí phải ra vào lưu thông.
 2.Chuẩn bị dụng cụ:

– Cây chĩa 6 răng: Đây là dụng cụ dùng để xới, thu hoạch và chăm sóc giun. Không dùng các dụng cụ khác có thể làm giun bị thương.

– Tấm che phủ: Thường làm bằng bao tải đay hoặc chiếu cói là tốt nhất. Đặc điểm của giun là ăn và cặp đôi sinh sản thường ở trên bề mặt luống giun, nhưng phải ẩm và tối. Do đó người ta dùng tấm che phủ, vừa tạo bóng tối để giun liên tục ở trên bề mặt luống, ăn thức ăn và sinh sản, tăng năng suất nuôi giun; Mặt khác cũng dùng để giữ độ ẩm cho luống giun.

– Gáo múc thức ăn: Có thể dùng ca múc nước bằng nhựa có cán (loại 1 – 2 lít) hoặc mũ bảo hộ lao động bằng nhựa, có buộc thêm cán bằng tre trúc, dài khoảng 1 – 1,5 m.
3.Ủ phân làm thức ăn cho giun:

Ngoài phân tươi của gia súc ăn cỏ là có thể cho giun ăn trực tiếp, ta có thể ngâm phân tươi đó với phân chuồng đã ủ hoại làm thức ăn cho giun bằng các hỗn hợp sau:

– 50 kg cỏ khô hay rơm rạ, thân đậu, bã mía, mạt cưa, giấy vụn, …

– 30 kg phân gia súc (trâu, bò, heo, … )

– 20 kg thực vật tươi (rau, cỏ, vỏ chuối, …)

Tổng cộng được 1000 kg vật chất thô, ở giữa hố ủ cắm một thanh tre hay khúc gỗ dài từ đáy hố nhô lên khỏi mặt hố. Mỗi ngày tưới nước vừa, khi tưới lắc thanh tre, nhằm mục đích cho nước ngấm đều hố ủ. Sau thời gian tối thiểu 3 tuần thì phân hoai. Riêng rơm đã mủn sẵn thì thời gian ủ sẽ ngắn hơn.
 4. Chuẩn bị giun giống:

Ở Việt Nam, giống và chủng loại giun khá phong phú. Tuy nhiên, cho đến nay, các cơ sở nghiên cứu và sản xuất giống giun phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu, cho năng suất cao còn rất hạn chế. Nên liên hệ với các trại chăn nuôi giun chuyên nghiệp để có được nguồn giống khoẻ, chất lượng cao. Khi mua giống, tốt nhất là mua ở dạng sinh khối (có lẫn cả giun bố mẹ, giun con, trứng kén giun chưa nở và cơ chất mà giun đang sống quen), để giun không bị “sốc” trong môi trường mới lạ và sinh sản nhanh.
Giun đất có nhiều loại, hiện có ba giống giun được nuôi phổ biến nhất là: giun Nhật Bản và giun Đại Bình 3. Hai giống giun kể trên có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, thích hợp với việc làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản, cho hiệu quả kinh tế cao. Chúng ta thường nuôi giun có tên khoa học là Peryonyx Excavatus thường gọi là giun Quế, vì nó sinh sản rất nhanh, dễ nuôi, cho năng suất cao và thích hợp với những vùng nhiệt đới. Có thể nói về việc tăng số lượng, giun là loại động vật sinh sản nhanh nhất.
5.Thả giun giống:

Thả giống giun thường vào buổi sáng. Khi chuẩn bị ô chuồng xong thì thả giun giống bằng cách rải sinh khối vào theo một đường thẳng giữa ô luống đó hoặc rải giun giống thành từng đám giữa mặt luống. Khoảng 5 – 7 phút sau, giun sẽ chui hết xuống lớp sâu. Quan sát mặt luống, loại bỏ những con giun ngọ nguậy tại chỗ, không có khả năng di chuyển xuống lớp đất sâu. Đó là những mẩu giun bị thương trong quá trình gom giống, chuyên chở giống. Sau khi nhặt bỏ hết giun bị thương, dùng doa tưới cây, tưới ẩm nhẹ lên luống nuôi là xong. Hàng ngày phải tưới ẩm mặt luống.

Mật độ thả quyết định năng suất thu hoạch. Mật độ thích hợp khoảng 9 – 12 kg sinh khối / m2,  tương đương 1,5 – 2 kg giun tinh / m2 (giun Quăn khoảng 7000-10 000 con / m, mới đảm bảo được sau 30 ngày cho 1 lần thu hoạch.
 6.Che phủ luống giun:

Giun thường có tập tính sống trong môi trường tối. Hễ gặp ánh sáng là giun rút sâu xuống dưới mặt luống. Che phủ mặt luống là biện pháp tạo bóng tối cho giun lên mặt luống ăn thức ăn và giao phối sinh sản cả ngày lẫn đêm. Tấm che phủ còn có tác dụng giữ độ ẩm luống nuôi. Sau khi thả giun giống, lấy bao tải cũ hoặc chiếu cói rách, bìa các tông, lá chuối, lá cọ …đậy tạo thoáng, tối lên bề mặt ô chuồng giun để cho giun nhanh chóng quen nơi ở mới.
7.Giữ ẩm luống nuôi:

Ngày hanh khô nóng nên tưới mát cho giun, ngày mưa rét không cần tưới. Độ ẩm thích hợp luống nuôi là 70 %. Muốn kiểm tra độ ẩm thích hợp, lấy một nắm thức ăn hay chất nền bóp nhẹ, nếu ứa nước ở kẽ ngón tay là vừa. Nếu nước nhỏ giọt hoặc chảy thành dòng là quá ẩm. Khi quá ẩm điều chỉnh bằng cách giảm cho ăn đặc hơn.
8.Cho giun ăn và chăm sóc giun:

Sau khi thả giun giống được 1 – 2 ngày thì nên cho giun ăn. Lượng thức ăn mỗi lần khoảng 5 cm trên mặt luống. Sau đó sẽ tiếp tục cho ăn khi thấy trên bề mặt luống đã xốp và không còn thức ăn cũ. Chú ý  không nên cho giun ăn khi lượng thức ăn cũ còn quá nhiều, vì lượng thức ăn bị tồn đọng phía dưới luống làm cho giun chỉ lo tập trung ăn và sống phía dưới luống mà không sống trên bề mặt. Điều này làm cho giun giảm khả năng sinh sản, năng suất nuôi giun sẽ bị giảm.

Các loại thức ăn của giun là phân tươi như phân trâu, bò, lợn, dê, thỏ, ngựa, hoặc thức ăn là rác thải hữu cơ đã hoai mục, được ủ theo các phương pháp nêu trên – Đều trộn lẫn và được ngâm vào bể có tưới nước sạch trong 1 – 2 ngày, thành dạng lỏng sền sệt, rồi mới múc vào cho giun ăn là tốt nhất. Cần lưu ý giun không chịu nước tiểu, vì vậy nếu phân có lẫn nước tiểu phải phun rửa sạch nước tiểu trước khi cho ăn. Phân trâu bò, phân lợn vón cục cần bóp vụn trước khi cho ăn.

Khi cho ăn, giở tấm phủ và múc thức ăn cho giun. Thức ăn rải trên mặt luống thành vệt dài hoặc từng đám mỏng cách đều nhau. Lượng thức ăn tùy thuộc vào sức tiêu thụ của từng luống cụ thể và tùy mùa. Vào mùa hè, cứ 2 – 3 ngày cho giun ăn 1 lần. Lượng thức ăn bón trên bề mặt luống dày từ 2- 3 cm. Đến mùa đông, lượng thức ăn bón nhiều hơn, dày khoảng 5 cm và bón phủ đầy luống giun. Thời gian cho ăn cũng thưa hơn mùa hè (3 – 4 ngày cho ăn 1 lần). Thức ăn phải bón thành từng ụ, hoặc theo từng dãy dài để khi nhiệt độ trong luống tăng cao hoặc trong thức ăn có chất gây sốc thì giun có khoảng trống chui lên thở. Sau khi bón xong, đậy tấm phủ lại và tưới ẩm.

Nuôi giun hầu như không bị dịch bệnh, nhưng vào mùa hè có thể gặp một số bệnh sau:

–  Bệnh no hơi:  Do giun ăn những loại thức ăn quá giàu “chất đạm” như phân bò sữa, lợn… làm cho phân có mùi chua. Sau khi cho ăn, giun có hiện tượng nổi lên trên mặt luống và trườn dài, sau đó chuyển sang màu tím bầm và chết. Cách tốt nhất khi phát hiện trường hợp này nên hót hết phần phân lỡ cho ăn ra và tưới nước lên luống.

–  Bệnh trúng khí độc: Do đáy chất nền đã bị thối rữa, trong thời gian dài chất nền thiếu O2 làm cho khí CO2 chiếm lĩnh hết khe hở của chất nền, làm giun chui lên trên lớp mặtvà bò đi. Cách khắc phục: Dùng cuốc chĩa xới toàn bộ mặt luống và tưới nước.
9.Nhân luống:

Thời gian đầu luống còn ít kén và giun chưa thích nghi được môi trường mới, nên sau 2 tháng đầu thì số giống chúng ta mới được nhân đôi, những lần sau chỉ 1 tháng. Lúc này chúng ta có thể tách giun để nhân luống hoặc cho gia súc, gia cầm ăn. Trước khi nhân luống 2 ngày, ta cho giun ăn. Khi đó giun tập trung trên bề mặt luống, bốc lấy phần sinh khối phía trên của luống, thành những rãnh cách đều khoảng 20 cm rồi rải vào luống mới (cũng thành từng  rãnh 20 cm) và tiếp tục cho ăn vào những chỗ rãnh trống, cả trên luống cũ và mới, cho đến khi đầy luống.
10.Bảo vệ luống giun:

Hàng ngày theo dõi luống giun, nếu thấy kiến phải tiêu diệt ngay. Diệt kiến có thể dùng cách đơn giản là đốt những vệt kiến bò vào luống giun, nhớ khi đốt đậy tấm phủ giun lại, hoặc cho nước ngập hố giun và kiến nổi lên mặt nước, dùng rọi đốt kiến trên mặt nước, sau đó tháo nước ra. Ngoài ra có thể dùng thuốc diệt kiến quét trên vách chuồng.

Một điều cần lưu ý là luống giun phải được che chắn hoặc bao lưới xung quanh để tránh gà, cóc, ếch nhái, rắn mối hoặc chuột ăn giun. Ngoài ra thật chú ý với các loại thuốc trừ sâu, hoá chất như xà phòng, nước rửa chén, muối ăn, nước giải, tro bếp, đất bột,  … rất độc hại đối với giun, giun sẽ lập tức chết khi tiếp xúc.

Giun cũng có thể bò đi khỏi thùng, hộp, chuồng nuôi hoặc bị chết khi gặp những điều kiện bất lợi của môi trường sống như: Nhiệt độ, độ ẩm, độ pH quá cao hoặc quá thấp (do không tưới ẩm đúng kĩ thuật hoặc nước tưới không đảm bảo), thùng đậy nắp hoặc phủ nilon quá kín, trời quá nắng, bị nước mưa tạt vào, tiếng ồn và tiếng động xung quanh quá  lớn v.v…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam