Cải thiện năng lượng trong trang trại chăn nuôi

Trong cơ cấu ngành Nông nghiệp, chăn nuôi là khu vực tiêu thụ năng lượng với quy mô lớn hơn nhiều so với trồng trọt, lâm nghiệp và thủy sản. Điều này khiến không ít chủ trang trại chăn nuôi tỏ ra lo lắng trước hóa đơn tiền điện hàng tháng trong bối cảnh giá năng lượng tăng cao. Tuy vậy, cũng có không ít cách giải quyết vấn đề này. Dưới đây là 5 biện pháp đơn giản có thể đem lại những lợi ích thiết thực về hiệu quả năng lượng cho các chủ hộ chăn nuôi.

1. Hệ thống thông gió chuồng trại:

Chuồng của các loại vật nuôi khác nhau có những yêu cầu về thông gió rất khác biệt. Một hệ thống thông gió có thiết kế hợp lý và hoạt động ổn định là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả năng lượng.

– Trước hết, cần lựa chọn những loại quạt có hiệu suất cao, dựa trên tỷ lệ giữa thể tích không gian có gió với lượng tiêu thụ điện năng trong cùng một điều kiện áp suất. Mặt khác, thay vì phải huy động một số lượng lớn quạt ở mọi vị trí trong chuồng trại, việc sắp xếp vị trí quạt theo kiểu dây chuyền sẽ giúp các chủ trang trại tận dụng được sức gió ở vị trí này cho vị trí khác. Điều này sẽ giúp giảm bớt chi phí dành cho việc mua quá nhiều quạt một cách không cần thiết, mở rộng không gian chuồng trại và quan trọng nhất là tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh đó, việc bổ sung một số quạt có bệ đỡ xung quanh trang trại cũng đem lại những hiệu quả nhất định. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến việc thường xuyên vệ sinh, bảo dưỡng quạt.

– Thứ hai, cần nhận thức được rằng, thông gió tự nhiên vẫn là cách hiệu quả nhất để tối thiểu hóa chi phí điện năng hàng tháng. Các chủ trang trại cần tận dụng tối đa lợi thế từ quy hoạch của mình, tránh những tốn kém cho việc lắp đặt sau này, ví dụ như quan tâm hơn đến độ dày và vật liệu xây tường, vị trí các mái hắt, cửa sổ, cửa ra vào,… Các đường ống thông gió cũng cần được làm sạch thường xuyên. Ngoài ra, đối với những khu chuồng có thiết kế mở (không đủ 4 bức tường), phần không có tường cần hướng về phía mặt trời để quá trình thông gió được diễn ra dễ dàng, đồng thời ánh sáng mặt trời sẽ giúp loại bỏ nhiều vi khuẩn có hại cho vật nuôi.

– Cuối cùng, các chủ hộ cũng có thể thiết kế thêm hệ thống thông gió trên mái nhằm giảm bớt chi phí năng lượng, đặc biệt là ở những vùng có khí hậu nóng ẩm.

2. Hệ thống chiếu sáng:

Tương tự như hệ thống thông gió, đối với hệ thống chiếu sáng, việc lựa chọn các loại đèn có hiệu suất cao, ví trí lắp đặt hợp lý và kế hoạch sử dụng tối ưu là điều vô cùng quan trọng. Về loại đèn, LED là lựa chọn lý tưởng khi tiết kiệm 40-70% so với các loại đèn khác. Trong khi đó, một kế hoạch sử dụng tối ưu có thể được tạo ra thông qua việc kết hợp giữa pin quang điện, công-tơ thông minh và một số thiết bị điều khiển khác. Điều này sẽ giúp đảm bảo rằng việc sử dụng đèn điện chỉ diễn ra khi thực sự cần thiết. Ngoài ra, việc sử dụng linh hoạt công tắc tổng và công tắc riêng cho từng khu vực của trang trại cũng góp phần không nhỏ vào công tác giảm thiểu tiêu thụ năng lượng.

3. Lò sưởi hồng ngoại:

Lò sưởi hồng ngoại là một thiết bị hữu dụng để cung cấp nhiệt tự động đến những nơi có nhu cầu (theo thiết lập của người sử dụng) thay vì phải cung cấp nhiệt liên tục cho toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó, việc lắp đặt thêm các bộ điều nhiệt sẽ giúp hiệu quả năng lượng của trang trại được nâng cao.

4. Hệ thống nước:

Ở một số nước xứ lạnh, hệ thống nước không chỉ có tác dụng làm sạch chuồng trại mà còn kiêm luôn việc cản trở hiện tượng đóng băng mùa Đông gây trở ngại cho vật nuôi. Hiện tượng này là nguyên nhân khiến một lượng lớn điện năng bị lãng phí dành cho việc bơm nước và có thể là cả đun nóng. Các phương thức đơn giản để hạn chế hiện tượng này bao gồm tăng độ dày tường hoặc bổ sung thêm lớp cách nhiệt vào mùa Đông, sơn đen toàn bộ tường và các thiết bị để cải thiện mức độ hấp thụ nhiệt, sử dụng các đường ống có kích thước lớn để giảm áp suất nước do hiện tượng đóng băng, thường xuyên kiểm tra tình trạng đường ống nhằm hạn chế rò rỉ,… Riêng đối với các trang trại có dây chuyền sản xuất sữa, chủ hộ có thể tận dụng ngay nguồn nước ấm thu được sau quá trình làm lạnh sữa để hạn chế tình trạng kết băng chuồng trại.

5. Hệ thống xử lý chất thải vật nuôi:

Chủ hộ cần tính toán chính xác quy mô trang trại của mình, về kích thước cũng như số lượng vật nuôi tối đa để lắp đặt hệ thống xử lý chất thải có kích thước phù hợp. Mặt khác, trong bối cảnh các hệ thống xử lý hiện nay chủ yếu dùng sức nước để xả sạch chuồng trại, việc tích hợp với hệ thống nước và cài đặt nhiệt độ, tốc độ nước thích hợp là rất cần thiết. Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ năng lượng sạch còn cho phép các chủ trang trại tận dụng nguồn chất thải hữu cơ phong phú từ vật nuôi làm nhiên liệu cho sản xuất điện năng. Chỉ với quá trình phân hủy yếm khí đơn giản, họ có thể thu được một hỗn hợp khí chứa tới 60% mê-tan – một loại nhiên liệu sạch và không gây ô nhiễm môi trường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Bệnh do kí sinh trùng gây ra ở đà điểu

Trong quá trình nuôi, đà điểu bị nhiễm kí sinh trùng là điều không thể tránh khỏi. Các ký sinh trùng bên trong cơ thể của những con đà điểu được nuôi nhốt thường ít hơn so với những con đà điểu được nuôi theo kiểu chăn thả hoặc tự do. Trong chăn nuôi đà điểu để kinh doanh, trứng thường được ấp nhân tạo và con non thì được nuôi cách ly thành từng nhóm (đàn). Việc nuôi riêng các con non này sẽ giúp cách ly chúng khỏi những con trưởng thành vốn đã đông đúc và như thế sẽ cản trở vòng đời của hầu hết các loại ký sinh trùng trong cơ thể.

Đa số các loại ký sinh trùng này không gây ảnh hưởng lắm về mặt kinh tế. Tuy nhiên, các loại ký sinh trùng sau đây lại được công nhận là gây ra tổn thất nghiêm trọng.

1. Giun dây trong mề đà điểu

Giun sống ở trong mề tuyến (vì thế nên có tên là giun trong mề). Giun trưởng thành có chiều dài từ 0,5-1 cm, màu nâu – hung đỏ, rất mỏng và giống như cái dây. Trứng giun được thải theo phân và vẫn có thể sống tới ba năm sau. Khi có đủ độ ẩm và ấm, trứng sẽ nở thành ấu trùng có khả năng gây bệnh. Kể từ khi nuốt phải, các ấu trùng phát triển thành con giun trưởng thành trong khoảng ba tuần.

Những con đà điểu còn nhỏ đặc biệt rất dễ bị ảnh hưởng bởi loại ký sinh trùng này. Nếu nhiễm nhiều giun có thể làm ảnh hưởng tới mề và có thể làm cho tỷ lệ chết cao.

Các triệu chứng: Con đà điểu bị nhiễm giun có biểu hiện không muốn ăn, uể oải, không khỏe mạnh, mặt tái nhợt (biểu hiện của triệu chứng thiếu máu), bị bệnh đường ruột (trong trường hợp bị bệnh mạn tính) và chứng táo bón (ở những con đà điểu có đường ruột bị ảnh hưởng). Tỷ lệ ở con non thường cao.

Bệnh lý và chẩn đoán: Phát hiện có giun dây ở trong mề hoặc lớp bên trong sau khi tử vong, tìm thấy trứng giun trong phân nhờ phương pháp đãi nổi. Bề ngoài cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể tái nhợt, gan nhỏ và vàng.

Điều trị và kiểm soát: Levamizol là loại thuốc đầu tiên có tác dụng trị bệnh giun dây tốt. Tuy nhiên, gần đây các biểu hiện cho thấy chúng dường như kháng lại thuốc này. Hiện nay, nhóm benzimidazol đã được đưa vào để điều trị. Ví dụ, fenbendazole với liều lượng 15 mg/kg theo đường miệng. Nên nhớ rằng nếu trước đây chuồng trại đã bị nhiễm giun thì cần phải tẩy giun cho đà điểu (các con non và các con đang lớn) thường xuyên (ba tới bốn tuần một lần). Để tránh trường hợp giun kháng lại thuốc đặc trị thì cần phải dùng lần lượt hai hay thậm chí tới ba loại thuốc. Cần phải kiểm tra tất cả những con đà điểu khi mới đưa về trang trại.

2. Sán đà điểu (sán dây, sán xơ mít)

Sán sống ở trong ruột non và có thể làm cho đà điểu gầy mòn dần do bị đói liên tiếp. Trứng sán được thải ra từ một vật chủ trung gian. Loại vật chủ trung gian của sán đà điểu vẫn chưa được biết đến. Khi đà điểu ăn phải vật chủ trung gian thì sán sẽ phát triển thành con sán trưởng thành.

Triệu chứng: Đà điểu non dễ bị ảnh hưởng nhất và có biểu hiện nhiễm sán rất chậm; tình trạng sức khỏe suy sụp dần, uể oải và thiếu máu, đôi khi kèm theo tiêu chảy nhẹ.

Bệnh lý và chẩn đoán: Có sán trong ruột non, có các khúc sán hoặc trứng sán trong phân.

Điều trị và kiểm soát: Cách điều trị sán này cũng giống như điều trị giun dây nhưng loại thuốc fenbendazole cần phải uổng với liều cao hơn (25 mg/kg) ngoài ra cần uống thêm resorantel với liều 130 mg/kg. Với cách dùng thuốc kết hợp như vậy việc tẩy sán, đặc biệt là sau sáu tuần cho uống lại thuốc đó sẽ có hiệu quả cao.

3. Giun nematode

Loại giun Codiostomum struthionis chỉ có ở đà điểu. Nó sống ở ruột già và cản trở quá trình hấp thụ nước. Nó dài khoảng 1-1,5 cm và có màu trắng.

Triệu chứng: Không có các triệu chứng rõ ràng

Bệnh lý và chẩn đoán: Có giun ở đầu đoạn ruột kết, có thể tìm thấy trứng giun trong phân. Điều trị và kiểm soát: Giống như điều trị giun dây.

4. Sán mắt

Đây là một loại ký sinh trùng có thể gây nhiễm cho đà điểu cũng như một số loài chim khác. Loại sán này cần sử dụng loại sên nước ngọt làm vật chủ trung gian riêng. Nó gây ảnh hưởng tới mắt và sống ở túi dịch của màng kết mạc và dẫn tối bệnh viêm màng kết và viêm túi lệ. Sán mắt rất nhỏ, không dài quá 2 – 3 mm.

Điều trị và kiểm soát: Điều trị khoanh vùng ở túi dịch của màng kết mạc bằng bột muối cacbonat 5%. Đợt điều trị thứ hai sau 48 giờ.

5. Vi sinh vật đơn bào

Cầu trùng đã được tìm thấy ở đà điểu sống tại nhiều vùng Bắc Mỹ và châu Âu, đặc biệt là ở những nơi nuôi đà điểu non theo cách nhốt trong chuồng. Loại ký sinh trùng đơn bào này gây ra bệnh về đường tiêu hóa. Loài Eimeria đã được tìm ra nhưng các giống của loài này vẫn chưa được biết rõ.

Triệu chứng: Các triệu chứng bệnh đối với đà điểu thường rất ít. Bệnh chỉ có thể được chẩn đoán chính xác bằng cách kiểm tra đường ruột của chúng. Những con đà điểu bị nhiễm bệnh thường có biểu hiện ăn không ngon miệng, ốm yếu, lông xù lên, tư thế đứng lom khom và phân của chúng có thể có màu.

Bệnh lý và chẩn đoán: kết quả cho thấy có ký sinh trùng đơn bào trong hệ thống tiêu hóa và trong phân của đà điểu.

Điều trị và kiểm soát: thường xuyên dùng thuốc diệt vi sinh vật đơn bào là cách điều trị tốt nhất. Khi phát bệnh, cần khẩn trương tăng cường bổ sung lượng vitamin K, sulfonamide và vitamin A trong chế độ ăn hàng ngày cho đà điểu. Tẩy uế chuồng trại sạch bằng amoniac sau mỗi lứa con non sẽ là một cách không chế vi sinh vật đơn bào rất hiệu quả.

6. Các loại ký sinh trùng bên ngoài cơ thể

Các loại côn trùng, bao gồm rận, mạt, bọ chét là những loài phổ biến nhất và là những loài ký sinh trùng bên ngoài phổ biến có ảnh hưởng tới đà điểu ở mọi độ tuổi. Những con đà điểu bị nhiễm các loại ký sinh trùng bên ngoài nói chung có biểu hiện ngứa ngáy khó chịu và phản ứng bằng cách gãi. Có thể tìm rận và mạt bằng cách kiểm tra da và lông, đặc biệt là ở vùng quanh đít, chân, cánh và cổ. Kiểm tra đà điểu vào ban đêm có thể tìm thấy các loại ký sinh trùng ăn đêm, nhưng để nhận ra được từng loại ký sinh trùng riêng thì cần phải kiểm tra bằng kính hiển vi.

Rận thuộc loài struthiolipenrus có thể gây hư hại và giảm khối lượng lông. Mạt ở đà điểu thuộc họ pterolichidae. Những con mạt soi được dưới kính hiển vi này sống ở trong cuống lông. Trong quá trình sống, mạt chui qua cuống lông và làm hư hại lông. Có mạt ở trong cuống lông sẽ khiến cho con đà điểu tự nhổ lông của chính mình và làm xây sát da. Ngoài việc làm giảm số lượng lông ra, sự khó chịu, căng thẳng cũng gây ảnh hưởng tới sức khỏe của đà điểu như viêm đường hô hấp, đồng thời giảm khả năng sinh sản của chúng.

Bọ chét ở đà điểu thuộc về rất nhiều giống. Ở những vùng có lượng mưa lớn và cây cối rậm rạp thì bao giờ cũng có nhiều bọ chét. Chỗ hay bị tấn công nhất của đà điểu là ở đầu và cổ. Bọ chét là loại gây thiệt hại kinh tế đối với đà điểu. Thứ nhất là bọ chét không chỉ làm cho đà điểu không được thoải mái mà còn làm xây xát da do đó làm giảm giá trị của da. Thứ hai, một số giống bọ chét là vật mang của loài trùng rận gây ra bệnh “phù tim”.

Cách điều trị và kiểm soát chung

Nói chung có thể làm giảm tối thiểu các loại ký sinh trùng bên ngoài cơ thể bằng các phương pháp vệ sinh. Liệu pháp Ivermectin (ivoznec) có khả năng tiêu diệt rất tốt hầu hết các loại ký sinh trùng bên ngoài cũng như các loại ký sinh trùng bên trong cơ thể đà điểu nhờ tiêm dưới da liều lượng 0,2 mg/kg, mỗi tháng tiêm nhắc lại một lần trong vòng ba tháng. Nếu bị nhịễm bọ chét nặng thì dùng carbaryl 5 phần trăm rắc hai lần trong hai tuần sẽ rất hiệu quả.

Nguồn:

Kỹ thuật nuôi đà điểu từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi

Úm đà điểu con hay còn gọi là gột đà điểu là các kỹ thuật nuôi đà điểu từ lúc mới nở đến khi đà điểu con cứng cáp để có tỷ lệ sống cao nhất.

Chuồng nuôi gột

Nên chọn hướng có ánh nắng mặt trời, thoát nước tốt, mặt bằng cao ráo. Khu vực xung quanh yên tĩnh, tránh tiếng ồn như đường sắt, phi trường, nhà máy, đường ôtô… Nhà nuôi gột được thiết kế có chuồng kín nuôi úm và sân chơi đảm bảo diện tích như sau:

Tuổi đà điểu (ngày) Chuồng úm (m2/con) Sân chơi (m2/con)
1-30 0,3-0,5 2,0
30-60 0,7-1,3 3-3,5
60-90 1,5-2,0 4-6

Chuồng úm thông thoáng nhưng phải giữ được ấm. Sân chơi tốt nhất là thảm cỏ hoặc đất nền được nhật sạch các dị vật như mảnh thủy tinh, sợi kim loại, que nhọn… Có thể trải một lớp cát mỏng lên bề mặt sân chơi để đà điếu vận động tốt và hút ẩm các chất đà điểu bài tiết.

Đà điểu đang úm dưới bóng đèn nhiệt hồng ngoại

Thảm lót và chất độn chuồng

Từ 1- 2 tuần đầu nền nhà nuôi úm được lót bằng thảm mềm để đà điểu đi lại vững chắc và giữ ấm được phần bụng. Từ tuần thứ 3 trở đi dùng cát khô lót nền. Chức năng chạy của đà điểu rất quan trọng vì vậy khi nhốt ở nền cứng, trơn sẽ làm chân biến dạng, trật khớp dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao.

Máng ăn, máng uống

Máng ăn dùng bằng nhựa, cao su hoặc chậu sành, không dùng máng có góc cạnh nhọn sắc dễ gây chấn thương chân. Máng uống có thể dùng các chậu bằng sành, sứ, nhựa hoặc vật tương tự có bề mặt rộng để đà điểu thuận tiện khi uống bằng động tác ngậm nước đưa lên cao rồi mới nuốt.

Chọn đà điểu giống

Chọn đà điểu nở đúng ngày (ngày thứ 42 – 44), khoẻ mạnh không bị dị tật, nhanh nhẹn, mắt sáng, bụng gọn, khối lượng cơ thể đạt từ 0,8 – 1kg/con. Thức ăn và nuôi dưỡng

Tiêu chuẩn protein và năng lượng trong khẩu phần thức ăn tinh

Chỉ tiêu 0 -1 tháng tuổi  1-3 tháng tuổi
Protein (%) 21 19
ME (kcal) 2900 2800

Thức ăn nuôi đà điểu mới, không ôi mốc, tốt nhất sử dụng cám viên để đà điểu ăn không rơi vãi. Phương pháp cho ăn: cho ăn nhiều bữa trong ngày:

  • 1 – 30 ngày tuổi cho ăn 6 lần/ngày
  • 31 – 60 ngày tuổi cho ăn 4 lần/ngày
  • 61 – 90 ngày tuổi cho ăn 2 – 3 lần/ngày.

Có thể dùng riêng máng đựng thức ăn tinh và rau xanh. Trong những tuần đầu có thể trộn rau thái nhỏ với thức ăn tinh để đà điểu ăn được nhiều thức ăn tinh hơn. Đà điểu phát triền tốt có khả năng thu nhận thức ăn và đạt tăng trọng như sau:

Khả năng thu nhận thức ăn và khối lượng cơ thể

Tuần tuổi Khối lượng Thức ăn tinh (g/con/ngày)
Sơ sinh 0.85-0,90
1 roo 9,3
2 1,22 38,8
3 1,92 85,6
4 2,94 179,2
5 4,56 257,1
6 7,62 330,6
7 8,23 449,2
8 10,12 487,7
9 12,24 492,4
10 15,03 654,2
11 18,02 653,7
12 20,18 747,1
13 22,18 758,5

Thức ăn xanh gồm các rau mềm: xà lách, bắp cải, rau muống…

Lưu ý: tuần đầu khối lượng sơ sinh có khả năng giảm đến 10 ngày, giai đoạn này đà điểu sử dụng nguồn dinh dưỡng chú yếu là noãng hoàn, vì vậy nhu cầu thức ăn ăn vào không quan trọng bằng nước uống. Cả giai đoạn cho ăn thức ăn tinh tự do.

Giai đoạn 1 – 3 tháng tuổi rất quan trọng, kết quả nuôi tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác các lứa tuổi sau.

Chăm sóc và quản lý

Nhiệt độ và ẩm độ

Sau khi nở 24 giờ đưa đà điểu vào quây úm vì bộ lông lúc này chưa đầy đủ, điều hoà thân nhiệt kém nên phải giữ nhiệt cho nó. Ngoài ra trong bụng còn tích khối noãn hoàn lớn (253 – 350g) dễ bị lạnh khi nhiệt thấp hoặc chất độn chuồng không đủ dày, dẫn đến xơ cứng không tiêu hóa được, viêm nhiễm là nguyên nhân chính gây chết trong những ngày tuổi đầu. Vì vậy, giữ ấm trong giai đoạn gột úm là hết sức quan trọng. Khi úm luôn phải quan sát phản ứng của con vật với nhiệt độ. Nếu thấy nhiều con tránh xa khu vực lò sưởi (đèn) hay há miệng thở, cần giảm nhiệt độ xuống; ngược lại nếu nhiều con tập trung gần nơi phát nhiệt và những con ngoài rìa run run thì đó là nhiệt độ thấp cần phải tăng nhiệt lên. Khi đủ ấm đà điểu vận động mau lẹ hoặc nằm rải rác, ngủ ngon lành.

Tuần tuổi Nhiệt độ (°C) Ẩm độ tốt nhất (%)
Mới xuống chuồng 32-33 65-75
1 30-32 70-80
2 28-30 70-80
3 24-26 70-80
4 22-23 70-80
>5 22 70-80

Từ 1 tháng tuổi luyện cho đà điểu thích ứng dần với điều kiện ngoại cảnh. Ẩm độ chuồng gột giữ tốt nhất ở mức 65-75%

Ánh sáng – vận động

Ánh sáng và vận động phải phù hợp để kích thích đà điểu con ăn nhiều, tiêu hóa tốt, giảm bệnh tật, tăng trường nhanh. Nếu bên ngoài khí hậu tốt, ánh nắng đầy đù thì 20 ngày tuổi có thể cho đà điểu con ra ngoài sân chơi để vận động và tắm nắng. Thời gian thả tăng từ từ theo từng ngày và diện tích sân chơi cũng được mới rộng dần.

Một tháng thả tự do vận động khi thời tiết tốt, nhưng khi trời mưa, xấu thì phải nhanh chóng đưa chúng vào chuồng. Đà điểu không có tuyến nhờn ở phao cầu để bôi trơn lông vì vậy khi gặp mưa lông bị ướt, dẫn đến rét toàn thân, cảm lạnh.

Quy mô đàn

Để quan sát và chăm sóc đồng đều từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi nên bố trí 20 – 25 con/quây úm. Quy mô lớn hơn đà điểu hạn chế vận động, tăng trưởng chậm nếu gặp tác nhân hại đột ngột gây kích động làm chúng sợ hãi nháo nhác dẫm đạp lên nhau dễ gây chấn thương và các khuyết tật về chân.

Điều kiện yên tĩnh

Hệ thần kinh đà điểu rất nhạy cảm, dễ phát sợ kinh động khi có tiếng động lớn, đột ngột hoặc có người lạ mặt.

Lúc đó cả bầy dồn tụ lại một chỗ ngóc đầu lên cao, quay về bốn phía như đề phòng hiểm họa. Nếu có sự kinh động mạnh, cả bầy chạy toán loạn và có thể dẫm đạp lên nhau, đâm vào bất cứ chướng ngại vật nào dễ gây chấn thương, rách da hoặc gẫy cổ mà chết.

Đề phòng các vật lạ

Vì đà điểu là loại ăn tạp nên trong khu vực nuôi cần phải dọn sạch các vật như gạch, đá, mảnh thủy tinh, túi bóng hay các vật nhỏ nhọn sắc để tránh cho chúng ăn phải các thứ này, dễ gây tổn thương đường tiêu hoá.

Nguồn: Caytrongvatnuoi được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Bệnh do virus ở đà điểu

Bệnh do virus gây ra thường khó điều trị và có tỉ lệ chết cao trong thời gian ngắn. Hãy cùng Framtech VietNam tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh, trệu chứng và cách phòng bệnh do virus gây ra ở đà điểu.

1. Bệnh Niucatsơn

Bệnh Niucatxơn ở đà điểu cũng gây ra do các chủng virut Nuicatxơn cường độc. Thường các chủng virut này được thải ra từ các ở dịch Niucatxơn của gà, tồn tại và phân tán trong môi trường tự nhiên. Đà điểu ăn thức ăn, uống nước có virut Niucatxơn sẽ bị nhiễm virut và phát bệnh.

Đà điểu ở các lứa tuổi đều bị mắc bệnh Niucatxơn. Đặc biệt đà điểu non 1-4 tháng tuổi thường bị bệnh thể cấp tính. Đà điểu có các triệu chứng lâm sàng đặc trưng sau:

– Các triệu chứng về tiêu hoá: Đà điểu ỉa chảy, phân không thành khuôn, có nhiều dịch nhày do niêm mạc ruột bị tróc ra. Đà điểu thường đứng ủ rũ, bỏ ăn, uống nhiều nước. Do ỉa chảy làm mất nước và rối loạn các chất điện giải nên đà điểu non thường chết do kiệt sức sau thời gian bị bệnh 6-8 ngày.

– Các triệu chứng hô hấp: Đà điểu có dấu hiệu viêm đường hô hấp, liên tục chảy nước mũi, nước rãi, và đặc biệt thở khó dần. Các trường hợp đà điểu bị bệnh thể hô hấp cũng bị chết với tỷ lệ cao sau 10-15 ngày.

– Các triệu chứng thần kinh: Đà điểu có các cơn run rẩy, đi lại xiêu vẹo, ngoẹo đầu, mổ không trúng thức ăn. Các trường hợp bị bệnh nặng, đà điểu thường lên cơn co giật, lăn quay, rãy rụa, cuối cùng bị liệt chân và sẽ chết sau thời gian hành bệnh 7-10 ngày.

Hiện không có thuốc chữa đặc hiệu bệnh Nuicatxon cho đà điểu cũng như cho gà. Bệnh pháp quan trọng nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh Niucatxơn cho đà điểu:

– Đối với đà điểu non từ 7 ngày đến 45 ngày tuổi. Dùng vacxin Lasota nhỏ và mắt mũi hoặc chủng dưới da cánh cho đà điểu. Vacxin thường được pha theo tỷ lệ 1/200 với nước cất. Sau khi dùng vacxin 10-14 ngày, đà điểu non có miễn dịch chống lại virut Niucatxơn.

Sau 45 ngày được sử dụng vacxin Lasota, đà điểu cần phải tiêm chủng vacxin Nuicatxon hệ 1, cũng tiêm dưới da cánh với liều 0,20-0,30 ml/1 đà điểu bằng dung dịch vacxin pha với nước cất theo tỷ lệ 1/200. Vacxin sẽ tạo miễn dịch chắc chắn cho đà điểu và miễn dịch kéo dài 12 tháng.

– Đối với đà điểu trưởng thành: mỗi năm cần tiêm vacxin Niucatxơn cho chúng một lần vào cuối mùa thu chuyển sang đông.

Thực hiện vệ sinh chuồng trại và vệ sinh môi trường nuôi đà điểu để tránh lây nhiễm mầm bệnh. Chuồng trại và môi trường cần định kỳ tiêu độc bằng các loại thuốc diệt trùng như Crêsyl- 2% hoặc nước vôi 10%.

Không nuôi gà trong khu vực chăn nuôi đà điểu để đà điểu không bị nhiễm virut Niucatxơn từ gà.

2. Bệnh đậu mùa

Nguyên nhân là do virus đậu (Fowl pox) gây nên. Virut truyền nhiễm qua không khí, côn trùng truyền bệnh (thường là giống muỗi Cules và Aides) hoặc do ăn phải các mảnh vảy da bị nhiễm virut (các vảy da khô bong ra từ các nốt loét của con khác). Thời gian ủ bệnh ở đà điểu từ sáu đến mười ngày.

Triệu chứng: Xuất hiện các mụn trên da nhất nơi khóe mắt, mũi, miệng. Các mụn này vỡ ra chảy nước và dễ bị nhiễm khuẩn gây mủ. Con vật ngứa ngáy khó chịu, nhiều con bị sốt, bỏ ăn.

Tỷ lệ chết của bệnh này thường thấp (15 phần trăm) và nguyên nhân chết chủ yếu là do con đà điểu không thể ăn được hoặc không thể lấy được thức ăn và nước uống.

Điều trị: Không có thuốc trị, chủ yếu dùng các chất tăng cường sức đề kháng như Vitamin C, ADE, đường Glucoza.  Các nốt lở loét có thể điều trị bằng dung dịch nitrat bạc trong bốn đến năm ngày để tránh bị nhiễm virut lại.

Phòng bệnh: Vệ sinh, khử trùng chuồng trại, tăng sức đề kháng cho đà điểu bằng các loại vitamin, điện giải, đường Glucoza, trách gây sốc cho con vật. Dùng vaccin đậu gà chủng qua da cánh liều lượng bằng 1.5 liều gia cầm. Cần diệt trừ muỗi gây bệnh.

3. Bệnh cúm

Nguyên nhân gây bệnh là do virut được gọi là virut “cúm gây bệnh dịch ở loài chim” (HPAI).

Các triệu chứng: Các triệu chứng lâm sàng của bệnh cúm ở loài chim rất khác nhau theo từng độ tuổi và thể loại virut nhiễm phải. Bệnh cúm này gây khả năng chết đột ngột cao, ngừng đẻ trứng hoàn toàn, có các triệu chứng về hô hấp, có tiếng ran khi thở, chảy quá nhiều nước mắt, viêm xoang, đầu và mặt bị phù nề, ỉa chảy và nước tiểu chuyển thành màu xanh.

Điều trị: hiện nay, bệnh cúm ở loài chim không thể chữa được và cũng không có văcxin để phòng bệnh. Phòng bệnh tất nhiên chỉ để hạn chế sự lây lan của bệnh.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tại sao thịt đà điểu có màu đỏ?

Tại sao thịt đà điểu lại đặc biệt?

Điều đầu tiên cần nhắc tới chính là mặc dù đà điểu là gia cầm nhưng thịt của chúng lại đỏ chứ không có màu trắng như hầu hết các loài chim khác. Hơn nữa, loại thịt đỏ này của đà điểu, tuy có màu sắc và mùi vị khá giống nhưng lại chứa ít chất béo, calo và cholesterol hơn thịt bò và thậm chí là cả những loại thịt gia cầm màu trắng khác như thịt gà và gà tây.

Trên thực tế, có một mối liên hệ mật thiết giữa loại cơ và các loại màu của thịt động vật. “Thịt đỏ” là loại thịt có màu đỏ trước khi nấu như thịt bò, thịt hươu và đà điểu. “Thịt trắng” thường có màu rất nhạt trước khi nấu và bao gồm thịt gà và thịt lợn. “Thịt đen” thường liên hệ với phần thịt đen hơn và có hàm lượng chất béo cao hơn ở loài động vật thịt trắng (như phần cánh và đùi gà). Thịt thỏ cũng được coi là “thịt đen”.

Yếu tố chính xác định xem thịt động vật là thịt trắng hay thịt đỏ là cơ của chúng thuộc loại cơ co nhanh hay cơ co chậm. Cơ co chậm thường được sử dụng nhiều trong các hoạt động kéo dài như đi bộ, đứng hoặc bay. Nó chứa rất nhiều myoglobin – loại protein dự trữ một lượng lớn oxy để hỗ trợ các hoạt động mang tính chất lâu bền. Cũng giống như bò, đà điểu dành phần lớn thời gian để đứng và đi bộ. Ngay cả phần cánh của chúng cũng hoạt động tương đối thường xuyên do đóng vai trò như “bánh lái”. Cơ của đà điểu chủ yếu là cơ co chậm nên thịt của chúng có màu đỏ.

Mặt khác, gà và gà tây không sử dụng cơ nhiều như đà điểu. Hầu hết khối lượng cơ của chúng là loại cơ co nhanh được sử dụng cho các hoạt động như nhảy nhanh. Cơ co nhanh không chứa nhiều myoglobin mà chủ yếu sử dụng glycogen nhạt màu. Vậy nên những loài động vật thuộc loại cơ co nhanh có thịt màu trắng nhạt.

Mặc dù vậy, vẫn tồn tại một ngoại lệ thú vị đó là “thịt đen” ở gia cầm. Các phần cơ thể hoạt động nhiều như chân (do gà đi lại thường xuyên) chứa nhiều myoglobin hơn phần ức của chúng. Chính vì vậy, thịt ở chân gà được xếp vào loại thịt đen chứ không phải thịt trắng như những bộ phận khác.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh về nấm ở đà điểu

Bệnh ở đà điểu do nấm tuy không nhiều nhưng người nuôi cần nắm rõ tác nhân và triệu chứng để nhận biết và có biện pháp kịp thời tránh lan rộng toàn đàn.

1. Bệnh nấm Aspergillosis

Nấm cúc nói chung là tác nhân gây bệnh về hô hấp cho đàn đà điểu. Bệnh thường do chủng nấm Aspergillus fumigatus gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bệnh nấm Aspergillosis ở đà điểu nhỡ lại do chủng nấm A. flavus và A. niger gây ra, các bào tử nấm này có thể truyền qua rác rưởi hoặc thức ăn bị nhiễm mốc hoặc do hít phải các bào tử nấm trong khu vực ấp trứng bị nhiễm mốc.

Các triệu chứng: các triệu chứng lâm sàng xuất hiện từ độ tuổi ba tới tám tuần tuổi. Các triệu chứng của bệnh là mệt mỏi, biếng ăn, còi cọc và khả năng chết lên tới 50 phần trăm. Trái với giống chim khác, tuy bị tổn thương phổi rất nghiêm trọng nhưng ở đà điểu không thấy thể hiện bất cứ một triệu chứng lâm sàng nào của bệnh hô hấp thường gặp.

Điều trị: nỗ lực điều trị bệnh này nói chung là vô ích. Có thể pha dung dịch sunfat đồng (tỷ lệ 1:200) làm nước uống cho đà điểu để tránh cho bệnh khỏi lan rộng hơn. Cách hạn chế bệnh tốt nhất là loại trừ nguyên nhân gây bệnh, cần phải kiểm tra kỹ để loại trừ mốc trong các thùng đựng rác, thức ăn và nước uống, đồng thời phải khử trùng buồng ấp trứng bằng formalin (55 ml trong một cm³) và permanganat kali (35 g trong thể tích một cm³).

2.Bệnh nấm gây tưa

Bệnh này do chủng nấm Candida moniliformis gây ra. Ở đà điểu, thường phải điều trị lâu dài bằng thuốc kháng sinh. Nấm tác dụng tới nước dãi ở miệng và thực quản đà điểu gây biếng ăn, mất nước có khả năng gây chết.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Các bệnh dinh dưỡng ở đà điểu

Khi nuôi đà điểu, cần chú trọng tới thành phần và liều lượng thức ăn tránh mất cân bằng dinh dưỡng. Thừa hoặc thiếu chất một chất nào đó đều gây bệnh và ảnh hưởng tới sức khỏe của chúng.

Khi một lượng dinh dưỡng nào đó trong thức ăn thiếu không đủ đáp ứng nhu cầu của đà điểu; trong khẩu phần ăn hàng ngày có một chất thừa hoặc có chất ngăn cản khả năng hấp thụ hay làm giảm giá trị của chất dinh dưỡng khác; hoặc quá trình chuyển hóa ở đà điểu bị rối loạn do tác động qua lại giữa chế độ ăn hàng ngày, môi trường và các yếu tố về di truyền học.

1.Vitamin A

Vitamin A rất cần thiết cho sự phát triển, thị lực, tránh trầy xước các màng nhầy và chống nhiễm khuẩn bằng cách kích thích cơ thể sinh ra kháng thể.

Đối với đà điểu nhỡ, thiếu vitamin A sẽ làm cho xương phát triển không bình thường (xương và sụn phát triển không có trật tự), thiếu thừa vitamin A làm cho xương bị dị dạng và tổn hại tới màng mô.

Đối với đà điểu trưởng thành xuất hiện triệu chứng đầu tiên là ốm yếu, lông bù xù, cả sản lượng trứng và khả năng nở của trứng đều giảm. Trong các trường hợp nặng hơn, đà điểu bị chảy nước mũi và có một chất nhầy màu trắng tích tụ lại trong mắt làm giảm thị lực của chúng.

Đà điểu mẹ thiếu vitamin A thì phôi thai bị dị dạng đầu to, thiếu mắt. Khi nở ra, con non có biểu hiện chậm phát triển, ốm yếu và lông phát triển kém.

Điều trị: bổ sung vitamin A trong chế độ ăn hàng ngày với tỷ lệ 12.000 IU/kg. Quá trình hấp thụ vitamin rất nhanh và những con đà điểu chưa bị thiểu năng sẽ nhanh chóng hồi phục.

2.Vitamin D

Vitamin D này có tác dụng kích thích quá trình vận chuyển và hấp thụ canxi cũng như photpho từ ruột tới bộ xương tạo cho bộ xương có hình dạng bình thường, mỏ cứng và vỏ trứng chắc, khỏe.

Các triệu chứng: Khi thiếu vitamin D, quá trình tạo thành xương sẽ kém và đối với những con đà điểu nhỡ thì bị còi xương còn đối với đà điểu trưởng thành thì bị loãng xương. Xương phát triển không bình thường, đặc biệt là ở chân, làm cho chân bị khập khiễng và khuỷu chân to hơn. Mỏ và móng chân trở nên mềm và dễ bị gãy, vỡ giống như xương. Con vật chậm lớn và lông phát triển kém. Với những con trưởng thành, sản lượng trứng và khả năng nở của trứng giảm, vỏ trứng mềm.

Điều trị: cho đà điểu uống một liều lớn một lần vitamin D3 (10.000 IU) có thể chữa khỏi rất nhanh các triệu chứng thiếu vitamin D. Không dùng vitamin D2 cho đà điểu vì ít hiệu quả. Ngoài ra, không được bổ sung quá nhiều vitamin D3 vào thức ăn.

3.Vitamin E

Vitamin E rất quan trọng cho quá trình tái tạo và tăng khả năng nở của trứng.

Các triệu chứng: Đối với đà điểu trưởng thành, thiếu vitamin E không gây ra dị dạng nhưng lại làm giảm khả năng sinh sản của cả con đực và cái khiến khả năng trứng nở giảm rõ rệt. Đối với đà điểu non và đà điểu nhỡ, thiếu vitamin E sẽ gây ra bệnh nhũn não do thiếu dinh dưỡng. Tùy theo chế độ ăn sử dụng hàng ngày mà có thể dẫn đến các hội chứng tiết dịch thể tạng, yếu cơ và khuỷu chân quá to, rồi sau đó con vật đột nhiên suy sụp (hội chứng đột qụy ở đà điểu).

Điều trị: Điều trị bằng cách bổ sung vitamin E và selen sẽ rất hiệu quả. Thuốc có tác dụng nhanh và đà điểu sẽ trở lại bình thường trong một vài ngày.

4.Vitamin B

Vitamin B giúp cơ thể phát triển, duy trì chức năng thông thường của mô thần kinh, tham gia vào quá trình chuyển hóa sinh học và phát triển lông.

Các triệu chứng:  Đối với đà điểu nhỡ, thiếu vitamin B2 làm đầu gục xuống thấp hơn, cánh thì rũ xuống, ngón chân quặp xuống dưới và quay vào phía trong khi đi lại hoặc nghỉ ngơi (chứng liệt co ngón chân) hoặc có thể bị liệt nặng. Đối với đà điểu đang đẻ, nếu khẩu phần ăn hàng ngày mà thiếu axit pantonic thì sẽ dẫn tới một tình trạng “gây ra bệnh còi cọc, chậm phát triển ở con non”. Phôi bị chết trong khi ấp chứng tỏ tình trạng phù nề và xuất huyết dưới da nghiêm trọng. Các triệu chứng làm cho con non chậm phát triển thường kèm theo tình trạng viêm da nặng ở chân, miệng và mô mắt. Mí mắt của con vật thường bị dính lại do gỉ mắt tiết ra.

Điều trị: khi các triệu chứng này kéo dài có thể gây ra những tổn thương không thể phục hồi được và khi đó nếu có bổ sung vitamin bị thiếu thì cũng sẽ không chữa khỏi được. Tuy nhiên, bổ sung vitamin B2 sẽ có tác dụng rất nhanh nếu thần kinh chưa bị tổn thương tới mức không thể hồi phục được. Có thể ngăn chặn gần như hoàn toàn tất cả tình trạng trên bằng cách bổ sung vitamin vào khẩu phần ăn hàng ngày với liều lượng thích hợp.

5. Mangan

Khả năng hấp thu mangan ở ruột chim tương đối kém. Thiếu mangan thì sẽ dẫn tới bộ xương bị dị dạng và chất lượng vỏ trứng không tốt.

Các triệu chứng: Đà điểu non và nhỡ được nuôi với một chế độ ăn thiếu mangan có biểu hiện chậm lớn và chân bị dị tật. Đối với đà điểu trưởng thành, thiếu mangan sẽ làm giảm rất nhiều sản lượng và khả năng nở của trứng. Phôi bị dị dạng (như phần mỏ dưới bị ngắn, tạo ra một cái mỏ giống như “mỏ vẹt”) và con non nở ra sẽ bị động kinh.

Điều trị: khi đà điểu có các triệu chứng của bệnh thì rất khó có khả năng chữa khỏi cho chúng. Phương pháp phòng ngừa bệnh là bổ sung đủ lượng mangan trong chế độ ăn hàng ngày cho đà điểu.

Danh sách một số loại thức ăn tương đối rẻ tiền có thể thay thế các nguồn cung cấp vitamin được trình bày trong bảng dưới. Loại dầu từ quả cọ (hoặc dừa, thốt nốt) rất có ích trong việc điều trị bệnh thiếu vitamin A và vitamin D. Dầu gan cá có chứa từ 2000 tới 6000 IU vitamin D3 trên một gam tùy theo từng loại cá (dầu của loại cá như cá ngừ và cá thu có chứa loại vitamin này nhiều nhất). Cỏ linh lăng khô là một nguồn cung cấp vitamin D rẻ tiền và có chất lượng phù hợp (khoảng 1.200 IU/kg) (xem bảng dưới).

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Những vấn đề gây ảnh hưởng tới sức khỏe của đà điểu

Đà điểu là một trong những vật nuôi mang lại giá trị kinh tế cao và được nhiều người dân lựa chọn. Chúng có sức sống vô cùng mãnh liệt và hệ miễn dịch phát triển cao. Tuy nhiên khi đưa vào nuôi nhốt, đà điểu thường gặp một số vấn đề sau gây ảnh hưởng tới sức khỏe.

1.Va chạm

Tình trạng căng thẳng kèm theo điều kiện tiếp xúc với các vật lạ ở xung quanh sẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho đà điểu ăn bừa bãi cả những vật dễ gây ra cọ sát với mề tuyến và ngăn trong của mề.

Một số sai sót trong chăn nuôi cũng có thể gây tác hại tới dạ dày, ví dụ như vận chuyển chúng tới một nơi không quen thuộc, vấn đề thức ăn, thiếu sự luyện tập cho các con non mới nở và cho ăn nhiều cát, sỏi quá v.v…

Ở đà điểu, tác động gây cọ sát dạ dày có thể ở dạng cấp tính hoặc mãn tính. Nếu bị dạng cấp tính, đà điểu sẽ ngừng ăn, uống hoàn toàn mặc dù vẫn có thể nhìn thấy chúng mổ vào thức ăn và có vẻ như đang ăn.

Cho đà điểu uống loại muối nhuận tràng (hay còn gọi là muối magiê sunfat) có thể hạn chế được những ảnh hưởng gây các vết xây sát mạn tính nhẹ. Dùng phẫu thuật lấy ra các vật lạ chỉ là biện pháp áp dụng trong trường hợp đã chắc chắn đang bị tác hại hoặc rõ ràng đã nuốt phải các vật lạ từ bên ngoài.

2.Hiện tượng mổ lông và mổ thịt nhau

Thói xấu đối với đà điểu là nhổ lông, ăn lông và mổ vào thịt nhau ở mọi độ tuổi. Những thói xấu này cói thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nhiều đàn đà điểu. Chúng làm mất thẩm mỹ của con đà điểu và dẫn tới làm giảm giá trị của chúng trên thị trường.

Tình trạng này thường hay xảy ra với các con đà điểu non, các con nhỡ, thậm chí cả với các con trưởng thành và có thể dẫn tới tình trạng đánh chết nhau nếu không được xử lý kịp thời.

Các thói xấu của đà điểu thường là do cách chăn nuôi không đúng như nhốt quá đông, quá nóng, không thoáng gió, ẩm, cường độ ánh sáng không phù hợp, chỗ ăn, uống chật chội, nhốt lẫn những con đà điểu bị thương hoặc bị ốm, nhốt các con to lẫn với con nhỏ chung một chuồng v.v…

Dùng muối để chữa thói quen mổ nhau ở đà điểu là phương pháp đang được áp dụng tại 99% trang trại chăn nuôi. Có thể pha nước muối bằng cách cho một thìa canh đầy muối vào 4,5 lít nước uống cho mỗi buổi chiều. Cách ba ngày lại cho uống nước pha muối thành phần như vậy trong nửa ngày. Đồng thời, nên  bổ sung thường xuyên từ 0,5 đến 1 phần trăm muối vào khẩu phần ăn hàng ngày.

3.Sốc (khủng hoảng tinh thần)

Vào cỡ khoảng ba tháng tuổi, đà điểu dễ bị chết do nguyên nhân bị sốc. Tình trạng gây trầy xước, gãy xương và trật khớp khuỷu chân hoặc cánh nguyên nhân thường là do cách bắt đà điểu không đúng (ví dụ như cầm vào cánh), thiết kế hàng rào và bãi quây không hợp lý, chuyên chở hoặc vận chuyển không đúng cách hoặc để chúng thường xuyên chạy tán loạn cũng gây sốc dẫn tới chết.

4.Chân bị choãi

Tình trạng chân bị choãi ở đà điểu non (đặc biệt trong tuần tuổi đầu tiên) dường như có liên quan tới điều kiện ấp. Tuy nhiên các yếu tố khác như bề mặt nền của buồng nở con cũng như rác rưởi trong khu vực nở con đều gây ảnh hưởng.

5. Thân nhiệt bất thường

Đà điểu non được nuôi không có mặt bố mẹ thì cần có các điều kiện tối ưu. Nếu điều kiện nhiệt độ thấp trong một thời gian dài thì có thể gây ra tình trạng giảm thân nhiệt, chậm phát triển và làm chết đà điểu non. Đôi khi còn có thể gây ra các bệnh mạn tính như tai biến tim mạch, tràn dịch màng ngoài tim và tụ huyết thanh trong bụng.

6.Xoắn ruột

Mặc dù vấn đề này chỉ xảy ra ở từng con riêng biệt trong đàn nhưng nó cũng rất nguy hiểm và có thể gây ra khả năng chết tới 25%. Nguyên nhân gây ra xoắn ruột có thể liên quan tới sự thay đổi lớn trong chế độ ăn (từ loại thức ăn được cô đặc, vê tròn chuyển sang chế độ ăn chủ yếu là các loại lá được băm nhỏ).

7.Nhạy cảm với ánh sáng do ăn rau mùi

Những biến chuyển lâm sàng và bệnh lý đã chứng tỏ rằng bệnh nhạy cảm với ánh sáng cấp tính ở đà điểu là do ăn phải rau mùi (Petroselinum sativum). Đối với đà điểu nhỡ, các vết tổn thương thường ở xung quanh mắt, mặt và tai. Còn đối với đà điểu trưởng thành thì nơi dễ bị ảnh hưởng nhất lại là da ở cẳng chân. Những tổn thương thành tật là những vết sẹo để lại trên da và màu da ở những chỗ bị tổn thương trên mặt, cẳng chân sẽ chuyển từ màu ghi bình thường sang màu hồng.

8. Rối loạn thần kinh do ăn thức ăn lạ

Cho đà điểu ăn các loại thức ăn dùng cho trâu bò nào đó có thể dẫn đến tác hại. Gần đây, dự án do tổ chức nông nghiệp và lương thực liên hiệp quốc tài trợ ở Madagascar đã công nhận rằng cho đà điểu ăn cỏ gai trắng sẽ gây ra những rối loạn thần kinh mặc dù nguyên nhân của chứng bệnh này vẫn chưa rõ ràng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật ấp trứng đà điểu

Ở ngoài tự nhiên đà điểu đẻ trứng vào cát sau đó đà điểu trống sẽ thực hiện ấp và bảo vệ những quả trứng đó. Chúng sử dụng thân nhiệt của mình để điều hòa thân nhiệt của các quả trứng. Sau khoảng 40 ngày ấp liên tục thì những quả trứng này bắt đầu nở thành những chú đà điểu con xinh xắn. Tuy nhiên trong điều kiện nuôi nhốt ở các trang trại để đảm bảo tỉ lệ nở trứng cao chúng ta thường sử dụng lò ấp để ấp những quả trứng đà điểu này.

1. Chuẩn bị trứng trước khi ấp

* Chuẩn bị trứng ấp

Sau khi đà điểu mẹ đẻ trứng cần nhặt trứng ngay tránh trứng bị nhiễm khuẩn hoặc bị đà điểu bố mẹ giẫm nát.

Trứng sau khi đẻ ra bị lạnh so với nằm trong cơ thể mẹ vì vậy quá trình phát triển của phôi sẽ ngừng lại.

Để bảo quản trứng ấp có hiệu quả cao cần giữ trứng ở nhiệt độ khoảng 65oF, nhiệt độ bảo quản sẽ tạo điều kiện cho phôi phát triển, nhiệt độ không thích hợp có thể gây chế phôi hoặc phôi phát triển chậm

Trong khi bảo quản trứng sẽ bị bay hơi vì vậy để giảm quá trình bay hơi của trứng cần phải giữ độ ẩm môi trường thích hợp khoảng 55-60%

Trước khi mang trứng đà điểu đi bảo quản cần phải soi trứng và đánh dấu phần có bóng khí lại. Xếp trứng có phần bóng khí hướng lên trên, tốt nhất là nghiêng 45º so với chiều thẳng đứng, đảo trứng 1-2 lần/ngày để giúp lòng đỏ chuyển dần về phía buồng khí. Nên để trứng ở nơi thoáng mát, không bị hấp thụ nhiệt, tránh không để trứng ở nơi ô nhiễm hoặc nhà kho ẩm mốc.

2. chọn trứng để ấp

* Chọn trứng theo ngoại hình: Khi chọn trứng đà điểu mang ấp không nên chọn những quả có hình dáng khác thường như quá to, quá nhỏ, méo mó, quá mỏng, quá dầy, xù xì, rạn dập, quá dài hoặc quá tròn vì những quả trứng này có tỉ lệ ấp nở thấp, con non yếu hoặc dị tật, đặc biệt cũng không thể chọn đà điểu con từ những quả trứng này làm giống được.

* Chọn trứng qua đèn soi: Sau khi loại bỏ những quả có hình dáng đặc biệt cần kiểm tra bằng đèn soi để loại bớt những quả không đủ tiêu chuẩn như không có phôi, rạn nứt, buồng khí không đúng vị trí, đồng thời dùng bút khoanh đánh dấu nơi có buồng khí để khi ấp cho hướng lên trên.

* Xử lý trứng ấp: Trứng đà điểu sau khi kiểm tra phải được xông bằng hỗn hợp thuốc tím và phóc môn để khử trùng, diệt khuẩn.

3. Chuẩn bị máy ấp

Nếu ấp trứng trong máy ấp trứng đa kỳ thì sau khi cho trứng mới vào phải xông máy ấp bằng dung dịch thuốc tím và phóc môn để diệt khuẩn, tẩy trùng Nếu ấp trong máy đơn kỳ thì phải vệ sinh, diệt khuẩn, tẩy trùng máy sau mỗi lứa ấp

4. Chế độ ấp trứng

Cũng như quy trình ấp trứng gà, trứng vịt, quy trình ấp trứng đà điểu cũng có 4 yếu tố cơ bản.

* Nhiệt độ: Phôi bên trong của trứng đà điểu chỉ phát triển khi nhiệt độ môi trường cao, nhiệt độ ấp trứng lớn hơn 35,5oC, nếu ấp bằng máy ấp đơn kỳ thì có 3 giai đoạn như sau.
– Giai đoạn 1: Từ 1-10 ngày ấp, nhiệt độ 36,7-37oC
– Giai đoạn 2: Từ 11-34 ngày ấp, nhiệt độ 36,3-36,5oC
– Giai đoạn 3: Từ 40-43 ngày ấp, nhiệt độ 35,5-36oC

Nếu sử dụng máy ấp đa kỳ thì quá trình ấp trứng chia làm 2 giai đoạn chính như sau
– Giai đoạn 1: Từ 1-38 ngày, nhiệt độ 36,3-36,5oC
– Giai đoạn 2: Từ 39-42 ngày, nhiệt độ 35,5-36oC

* Độ ẩm
Trên vỏ trứng đà điểu có lỗ khí rộng, nhưng số lỗ khí/Cm2 ít, mặt khác khi ấp trứng cần phải giảm trọng lượng của trứng xuống vì vậy cần tạo ra môi trường có độ ẩm thấp, vì vậy cần khống chế độ ẩm trong lò ấp
– Giai đoạn ấp, độ ẩm 20-25%
– Giai đoạn nở 40-45%

* Đảo trứng: Trong khi ấp cần thiết phải đảo trứng, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình ấp trứng, lúc này phôi nằm trên đỉnh lòng đỏ, nếu không đảo trứng thì phôi chuyển ngược lên và dính vào vỏ, trứng cần được xoay định kỳ 90o một góc xoay

5. Kiểm tra trứng

Đợt 1: Trứng ấp được 10 – 11 ngày soi loại bỏ trứng không phôi, trứng chết phôi kỳ 1, trứng thối.

Đợt 2: Soi vào ngày 22 – 23 (chỉ để kiểm tra).

Đợt 3: Soi trứng ra nở 38 – 39 ngày, loại trứng chết phôi và trứng thối. Có thể chuyển trứng đà điểu sang máy nở làm nhiều đợt, khi soi thấy buồng khí đã đạt 1/3 và thấy mỏ và chân đạp mạnh ở phía buồng khí là những trứng sắp nở cần chuyển sang. Những trứng còn lại để tiếp tục trong máy ấp sau 1/2 ngày lại soi tiếp và chuyển những trứng tương tự sang máy nở.

Xác định phôi của từng quả trứng và ghi lại tất cả thông tin về từng con trống và mái sinh sản. Từ kết quả theo dõi soi trứng có thể giúp ta trong việc xác định lựa chọn được những đàn sinh sản có chất lượng.

Xác định vị trí buồng khí và theo dõi kích thước tảng trong quá trình ấp là một yếu tố quan trọng nhằm giúp ta hiểu rõ về quá trình giảm khối lượng trong công tác ấp trứng.

Theo dõi khối lượng trứng hàng ngày và ghi chép lại tỷ lệ giảm khối lượng của từng quả trứng ấp sẽ giúp cho tổng kết đánh giá nhiệt độ và độ ẩm trong quá trình ấp. Soi trứng còn cho ta biết được thời điểm nở và những thay đổi về vị trí thường xảy ra trong quá trình nở.

6. Khi trứng nở thành đà điểu con

Quá trình nở của đà điểu con thường bắt đầu từ tiếng kêu bên trong quả trứng khi vỏ trứng chưa được mổ. Công đoạn nở thường kéo dài đồng thời cũng có nhiều tiếng kêu và nhiều lần nghỉ, có mẻ trứng có thể nở trong thời gian 4-6 ngày, hiện tượng này thường do thời gian bảo quản, nhiệt độ thấp và kích thước trứng to.

Khi quả trứng đã được mổ một lỗ nhỏ ta không nên can thiệp giúp đà điểu con thoát ra ngoài vì điều này trái với tự nhiên làm cho đà điểu con thiếu động lực phá vỡ vỏ trứng dẫn đến hiện tượng đà điểu con sau này yếu hơn bình thường và có thể mắc một số bệnh do nhiễm khuẩn.

Sau khi đà điểu con mổ vỏ trứng ra ngoài cần tập trung lại cho vào phòng úm, ở đây cần tăng nhiệt độ trong phòng đến nhiệt độ cần thiết bằng cách thắp các bóng đèn sợi đốt, thắp các bòng đèn này giúp cho lông của đà điểu con nhanh khô, đà điểu con không bị rét, giúp cho hệ tuần hoàn và hệ tiêu hóa phát triển tốt.

Sau khi đà điểu con nở được 1 ngày cần thực hiện tiêm chủng kháng các bệnh dịch theo đúng quy trình tiêm vắc xin.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi đà điểu sinh sản nhân tạo

Để phát triển nghề nuôi Đà điểu thì cần chú trọng đến chất lượng trứng và con giống. Vì vậy việc chăn nuôi, chăm sóc đà điểu sinh sản là rất quan trọng, nó liên quan trực tiếp tới chế độ ăn, cách chăm sóc, phòng và trị bệnh cho đà điểu bố mẹ.

Quá trình nuôi đà điểu sinh sản có thể được chia thành các bước chính như sau

1. Giai đoạn nuôi dò và hậu bị

Sau khi đà điểu được nuôi gột khoảng 3 tháng thì chuyển sang chuồng mới để chuẩn bị quá trình tiếp theo là nuôi sinh sản. Khi chuyển từ chuồng nuôi gột sang chuồng mới cần chú ý cho đà điểu làm quen với đường chạy mới, chú ý chuồng nuôi, sân chạy mới phải bằng phẳng, ít chướng ngại vật, chuồng nuôi phải đủ kích thước để đà điểu có thể tự do vận động thoải mái

Thực hiện tẩy giun cho đà điểu 2 lần/ năm để đảm bảo đà điểu khỏe mạnh không có kí sinh trùng, đảm bảo tốc độ phát triển của đà điểu. Thực hiện đánh dấu từng con để đảm bảo quá trình quản lý, trông nom và chăm sóc riêng biệt từng con, theo dõi quá trình phát triển của từng cá thể trong đàn, quan tâm đặc biệt những con có biểu hiện khác thường.

Trong giai đoạn nuôi dò chế độ dinh dưỡng của đà điểu vẫn không thay đổi, nhưng cho đà điểu vận động nhiều hơn, đảm bảo sức đề kháng cho đà điểu chống lại mọi tác động xấu của môi trường

2. Quá trình sinh sản của đà điểu

Đà điểu thành thục khoảng từ 20-25 tháng tuổi, đà điểu cái phát dục sớm hơn đà điểu đực khoảng nửa năm, do vậy nếu ghép đàn đà điểu cái và đà điểu đực cùng lứa tuổi thì lứa trứng đầu thường không có phôi, do vậy không thể ấp nở thành đà điểu con được.

Để lứa đầu tiên của đà điểu cái có thể ấp nở được thì cần ghép đà điểu cái với đà điểu được già hơn khoảng 6 tháng tuổi trở lên, còn các lứa tiếp theo thì có thể ghép đàn đà điểu cái và đà điểu đực cùng lứa tuổi.

Trong lần đẻ trứng đầu tiên, đà điểu cái đẻ trứng thứ nhất, sau đó khoảng 16-18 ngày tiếp theo sẽ đẻ trứng thứ hai, tiếp tục khoảng 2-5 ngày tiếp theo lại đẻ trứng, do vậy trong giai đoạn này bà con cần chú ý để thu nhặt trứng cho vào lò ấp kịp thời, tránh trứng đà điểu dính nước làm giảm tỷ lệ ấp nở đà điểu con.

Đối với chuồng nuôi đà điểu sinh sản phải có mái che, kích thước chuồng nuôi khoảng 3-5m, bên trong chuồng nuôi có rải cát để đà điểu đẻ, tránh hiện tượng đà điểu đẻ xuống nền gạch, nền đất có nước, hoặc nền bê tông. Sân chơi của đà điểu rộng khoảng 8m chiều dài khoảng 80-100m để đà điểu có thể tự do đi lại, tự do chạy, đặc biệt khi đà điểu chạy tới tốc độ cao nhất thì không phải dừng lại đột ngột vì có chướng ngại vật phía trước. Mỗi chuồng nuôi có thể ghép 1 đà điểu trống với 2 đà điểu mái, hoặc có thể ghép 2 đà điểu trống với 3 đà điểu mái, nếu nuôi tập trung có thể ghép 5 đà điểu trống với 13 đà điểu mái.

* Phân biệt đà điểu trống và đà điểu mái

Phân biệt đà điểu đực và đà điểu cái qua màu lông: Đà điểu lúc nhỏ thì rất giống nhau, tuy vậy đến khi trưởng thành (sau 7 tháng tuổi) thì màu lông của đà điểu đực và đà điểu cái lại rất khác nhau. Cụ thể đà điểu trống có màu lông đen, phần đầu cánh là lông trắng hoặc có màu bạc đá, còn đà điểu mái có màu nhạt hơn. Con trống thường to lớn hơn con mái, đồng thời đà điểu trống thường múa theo bản năng để mời gọi bạn tình. Khi múa đà điểu trống thường xòe cánh, rụt cổ đi vòng quanh đà điểu mái, đồng thơi hàm trên và hàm dưới gõ vào nhau tạo ra bản tình ca mời gọi. Nếu quan sát lâu thì đà điểu trống nghịch hơn đà điểu mái.

Phân biệt đà điểu đực và đà điểu cái nhờ quan sát chúng đi vệ sinh: Dù đà điểu to, đà điểu nhỏ hay đà điểu trưởng thành thì khi đi vệ sinh nhìn chúng rất khác nhau. Đà điểu trống khi đi vệ sinh thì bộ phận sinh dục sẽ lồi ra ngoài. Vậy nên ta quan sát sẽ thấy phần như hạt đậu thò ra ngoài. Đà điểu mái thì khi quan sát thấy lỗ hậu môn phẳng đều.

Phân biệt đà điểu đực và đà điểu cái bằng cách khám lỗ huyệt: Khám lỗ huyệt là một phương pháp khám giới tính của gia cầm, việc này thường được thực hiện bởi các chuyên gia. cũng từ sự khác biệt giữa con trống và con mái nên khi cho ngón tay vào lỗ huyệt của con đà điểu con thì sẽ thấy gợn gợn ở đà điểu trống, và nhẵn bóng ở đà điểu cái

* Tiêu chuẩn chọn đà điểu đực làm giống 

Chọn đà điểu đực làm giống cần chọn những con có dáng đứng ngay thẳng, cổ không cong, màu lông đen tuyền, dáng vẻ oai vệ, thân hình cân đối, đặc biệt là những con đà điểu trống có màu mỏ và màu chân đỏ sẫm, hoạt bát, nhanh nhẹn, hay hiếu động. Tránh không chọn đà điểu trống quá hung dữ vì khó kiểm soát, hay đá người và làm tổn thương con mái. Chọn con trống có bộ phận sinh dục dài khoảng 25 Cm, cong về bên trái.

* Ghép đàn và phối giống

Đà điểu mái phát dục khoảng 20-25 tháng tuổi vì vậy trong giai đoạn từ 18 tới 20 tháng tuổi ta nên ghép đàn con đực và con cái với nhau để chúng có thời gian làm quen với nhau. Nên ghép con mái với con trống già hơn khoảng 6 tháng tuổi vì đà điểu mái phát dục sớm hơn.

Khi phối giống con đực đi vòng quanh con cái, hai cánh xòe ra giống như đang múa, cổ hơi cúi xuống, nếu con cái đồng ý cho con đực phối thì nó nằm xuống sát đất, con đực trèo lên người con cái, một chân để lên lưng con cái, hai đuôi úp dính vào nhau, sau khi xuất tinh trùng vào người con cái, con đực bỏ đi còn con cái nằm đấy khoảng 4-6 phút rồi mới đứng lên bỏ đi.

Thông thường đà điểu phối giống vào khoảng 6h-9h sáng và 14h tới 16h chiều, rất ít khi phối giống vào buổi trưa và buổi tối. Với những con đà điểu đực khỏe mạnh có thể phối khoảng 11-13 lần trong một ngày.

* Chế độ dinh dưỡng cho đà điểu sinh sản

Chế độ dinh dưỡng cho đà điểu bố, mẹ rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng trứng ấp nở, sức khỏe của đà điểu con vì vậy nuôi đà điểu sinh sản cần phải chú ý đặc biệt tới chế độ dinh dưỡng.

Để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho đà điểu trong mùa đẻ trứng, có thể phân loại đà điểu theo năng suất trứng, với đà điểu có năng suất trứng lớn thì cho ăn khẩu phần cao hơn.Thành phần rau xanh cũng phải cung cấp đủ cho đà điểu, thông thường đà điểu ăn cỏ, cỏ voi và các loại rau mềm

* Chế độ nước uống cho đà điểu sinh sản

Đà điểu sinh sản cần nhiều nước uống hơn bình thường, đặc biệt là đà điểu không uống được nước nóng vì vậy bể đựng nước nên đặt dưới các tán cây hoặc trong nhà có mái che để nguồn nước luôn mát. Chú ý phải cọ sạch bể chứa nước một lần một ngày, thay nước đều đặc và phải đủ nước cho đà điểu uống.

* Mùa vụ sinh sản và quy luật đẻ trứng của đà điểu

Đà điểu thường đẻ từ tháng 12 năm trước đến tháng 8 năm sau, thời gian nghỉ đẻ và thay lông khoảng 4 tháng. Đà điểu thường đẻ từ khoảng 14h-19h, vì vậy trong khoảng thời gian này phải bố trí người nhặt trứng, tránh đà điểu bố mẹ dẫm vỡ trứng, hoặc tránh trứng bị dính nước làm hỏng trứng hoặc ảnh hưởng tới tỉ lệ ấp nở. Nếu quá 19h mà đà điểu vẫn chưa đẻ thì ngày đó chúng không đẻ trứng.

Đà điểu cái thường đẻ thành từng đợt, chúng đẻ liên tiếp 8-10 quả rồi lại nghỉ khoảng 10 ngày rồi mới đẻ tiếp. Đôi khi đà điểu cái gián đoạn quá trình đẻ trứng đến 1-2 tháng

* Nhặt trứng đà điểu

Đà điểu thường đẻ trứng vào buổi chiều khoảng từ 14h-19h vì vậy ta cần phải thu nhặt trứng sau khi chúng đẻ xong, tránh trường hợp chúng làm hỏng trứng. Công việc này khá vất vả và mất thời gian vì đà điểu có thể đẻ ở bất cứ nơi nào mà chúng thấy thích. Để đà điểu cái có thể đẻ tập trung ở một chỗ ta có thể rải cát vào một chỗ để đà điểu có thể làm tổ ở đó, hơn nữa ta có thể dựng mái che, che nắng để đà điểu an tâm đẻ vào nơi đó.

Khi thu nhặt trứng cần thiết phải có hai người trở lên vì người nhặt trứng có thể sẽ bị đà điểu đực tấn công vì chúng muốn bảo vệ trứng trong ổ. Hai người phối hợp nhau nhặt trứng, một người cầm gậy hoặc que dài, có thể là một đoạn cành cây gồm có nhiều cành nhỏ vì đà điểu thường sợ những đối thủ to lớn hơn mình, hơn nữa khi bị đà điểu tấn công có thể cản chúng lại bằng cành cây này. Tại vị trí nhặt trứng nên làm hàng rào có khe hở ở dưới khi bị đà điểu tấn công ta có thể nhanh chóng thoát ra ngoài bằng

* Vòng đời sinh sản của đà điểu Vòng đời sinh sản của đà điểu phụ thuộc nhiều vào chế độ dinh dưỡng, điều kiện khí hậu và cách xây dựng chuồng trại. Thông thường một con đà điểu mái thường đẻ trứng trong khoảng 35-40 năm, số lượng và chất lượng tốt nhất của trứng vào giai đoạn đà điểu được 5 tuổi và kéo dài khoảng 12 năm, trong mỗi mùa chúng đẻ khoảng 40 quả trứng. Tính trung bình trong một đời đà điểu mái đẻ được tổng khối lượng trứng là 2.400 Kg trứng

Vòng đời sinh sản của đà điểu Vòng đời sinh sản của đà điểu phụ thuộc nhiều vào chế độ dinh dưỡng, điều kiện khí hậu và cách xây dựng chuồng trại. Thông thường một con đà điểu mái thường đẻ trứng trong khoảng 35-40 năm, số lượng và chất lượng tốt nhất của trứng vào giai đoạn đà điểu được 5 tuổi và kéo dài khoảng 12 năm, trong mỗi mùa chúng đẻ khoảng 40 quả trứng. Tính trung bình trong một đời đà điểu mái đẻ được tổng khối lượng trứng là 2.400 Kg trứng

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.