Ứng dụng bể tròn trong nuôi Tôm thâm canh

Bên cạnh các ao nuôi tôm truyền thống với diện tích lớn, mô hình sử dụng bể nổi tròn có diện tích nhỏ trong nuôi tôm thâm canh đang ngày càng phổ biến. Đón đầu xu hướng này, đội ngũ kỹ thuật của Skretting đã nghiên cứu và hoàn thiện mô hình nuôi để khai thác triệt để tiềm năng của hệ thống nuôi sử dụng loại bể này.

 

Ứng dụng bể tròn trong nuôi Tôm thâm canh

Ưu điểm của bể nổi tròn

 

Nhược điểm của ao nuôi hình chữ nhật truyền thống là các góc chết, nơi dòng chảy của nước bị cản trở tạo điều kiện cho chất thải tích tụ. Hình dạng đặc trưng và kích thước của bể tròn (trung bình khoảng 500 – 1000 m2) giúp người nuôi thu gom và loại bỏ chất thải rất hiệu quả. Vì bể hình tròn nên khi vận hành quạt nước tạo dòng chảy xoáy hướng tâm mạnh, chất thải được gom vào rốn ao, rất thuận tiện cho việc si-phon sạch các chất dơ, hạn chế việc gây ô nhiễm trong ao nuôi. Nhờ đó, nền đáy được giữ sạch sẽ suốt vụ, giảm thiểu vi khuẩn có hại và khí độc tích tụ trong môi trường nưới nuôi. Bên cạnh đó, diện tích bể nhỏ nên không cần quá nhiều dàn quạt để tạo ra dòng chảy và cung cấp đủ oxy cho ao nuôi cũng như thu gom chất thải. Mỗi bể chỉ cần lắp đặt 2 dàn quạt (mỗi dàn gồm mô-tơ 3-5hp) và 01 dàn sục khí 5hp là đủ, nhờ vậy chi phí vận hành quạt nước cũng được giảm đi đáng kể.

Ao nằm nổi trên mặt đất nên không bị ô nhiễm bởi hóa chất có hại hoặc mầm bệnh tích tụ trong đất ngấm ngược vào bể. Vách bể thẳng đứng giúp hạn chế chất bẩn và rong bám vào, từ đó đơn giản hóa công đoạn vệ sinh bể, hạn chế bệnh đường ruột do tôm ăn phải các chất bẩn này… Nhờ các ưu điểm này trong quản lý chất lượng nước ao nuôi mà người nuôi sử dụng hệ thống bể trong giảm thiểu tối đa chi phí sử dụng hóa chất xử lý môi trường.

 

Quy trình nuôi hai giai đoạn sử dụng bể tròn

 

Giai đoạn 1 (giai đoạn ương vèo tôm giống): tôm giống PL10 – 12 được thả ương với mật độ 1000 – 3000 con/m2. Tôm được nuôi trong bể ương trong vòng 20 – 25 ngày cho đến khi tôm giống đạt cỡ 1500 – 700 con/kg. Giai đoạn 1 giúp giống ở giai đoạn PL12 đến PL40 thích ứng với môi trường ao nuôi ngoài trời, tăng sức đề kháng đặc biệt là với bệnh AHPND/EMS, đạt kích cỡ đồng đều, và có tỷ lệ sống cao. Từ đó rút ngắn thời gian nuôi thương phẩm, giảm chi phí nuôi ban đầu, hạn chế rủi ro trong quá trình nuôi, tăng vụ nuôi trong năm và tăng sản lượng. Trong quá trình ương tôm, người nuôi cần thực hiện đúng quy trình xử lý nguồn nước đầu vào qua ao lắng, ao xử lý, ao sẵn sàng, cuối cùng là đến ao nuôi. Chọn con giống sạch bệnh, chất lượng, ương trong bể 20 – 30 ngày cho đạt kích cỡ đồng đều thì mới chuyển qua ao nuôi.

Ban đầu, bể nuôi tròn nổi với diện tích nhỏ rất được ưa chuộng cho giai đoạn ương vèo trước khi thả vào ao nuôi thương phẩm nhờ vào các ưu điểm đã được nêu trên. Hiệu quả của bể nổi tròn ngày càng được khẳng định, nên nhiều hộ nuôi đã quyết định tiến  hành Giai đoạn nuôi tôm thương phẩm (giai đoạn 2) trong bể nổi tròn thay vì ao nuôi có diện tích lớn. Ở giai đoạn này tôm được thả ở mật độ 100 – 300 con/m2; tôm giống giai đoạn này thường ở cỡ 1.000 – 2.000 con/kg. Trong quá trình nuôi, chất thải rắn từ ao phải được lắng lọc kỹ, thu gom thường xuyên. Đến khoảng 100 ngày tuổi, tôm đạt trọng lượng trung bình 30 con/kg thì tiến hành thu tôm thương phẩm.

Ưu điểm của mô hình này là nâng cao tỷ lệ sống của tôm lên đến 90 – 100% vì tôm có sức đề kháng cao, môi trường ao nuôi ổn định, ao nuôi có diện tích nhỏ hơn nên quản lý chất lượng nước hiệu quả hơn rõ rệt. Các sản phẩm thức ăn của Skretting như PL (cho giai đoạn 1), Sapphire, Gamma, Mega, Xpand (Giai đoạn 2) được người nuôi ưa chuộng sử dụng trong mô hình nuôi hai giai đoạn này nhờ các đặc tính như tính dẫn dụ cao, thành phần dinh dưỡng dễ hấp thu, kết cấu bền trong nước, giảm thiểu áp lực lên môi trường nuôi.

Một số lưu ý trong thiết kế bể nổi tròn

 

Bể được dựng từ khung thép hoặc tường xây phủ bạt HDPE (dày 0.5 đến 1 cm), có đáy dạng hình phễu, vách thẳng đứng. Một số yêu cầu kỹ thuật trong quá trình lắp đặt bể nuôi gồm:

–    Đáy bể có độ dốc hướng về tâm khoảng 5% để thu gom chất thải dễ dàng.

–    Bể ương cần được đặt trên một vị trí đất cao sao cho đáy của bể ương nổi cao hơn nước của ao nuôi để có thể sang ra ao lớn bằng hệ thống ống nước có lắp van xả, điều này giúp cho tôm ương không bị hao, việc sang tôm cũng trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

–    Hệ thống bể ương nổi cần có bể chứa nước có thể tích tương đương. Để có thể thay cấp nước 100% khi cần, bể chứa nước luôn phải được xử lý diệt khuẩn trước khi sử dụng, đảm bảo tiêu chuẩn để cấp nước cho bể ương.

–    Ở giai đoạn ương người nuôi nên dùng lưới lan che nắng cho bể ương để giảm biên độ nhiệt độ, giảm được một phần nước mưa rơi vào ao khi mưa lớn. Giá thành thấp, lắp đặt đơn giản, dễ dàng để tháo dần ra cho tôm quen với nhiệt độ không có mái che, nhờ vậy tôm không bị sốc nhiệt, đảm bảo tỷ lệ sống.

–    Nên ương tôm trong bể có diện tích nhỏ khoảng 100m3 nước để dễ quản lý môi trường.

–    Đối với nuôi tôm thịt, diện tích bể nên nằm trong khoảng từ 500m2 đến 900m.

–    Ở giai đoạn này, khi số lượng tôm trong bể đạt trên 3.5 kg/m3 nên tiến hành thu tỉa hoặc sang bể để tôm có thể phát triển tối ưu.

–    Đảm bảo sục khí, điện, thức ăn chất lượng tốt, testkit đo môi trường phải được chuẩn bị đầy đủ. Việc chăm sóc cũng cần người có kỹ thuật và chuyên môn tốt, túc trực 24/7 để đảm bảo không có sự cố và nếu có thì cần xử lý ngay lặp tức.

Những khó khăn thường gặp trong vận hành

 

Các bể có thể tích quá nhỏ (dưới 50m3) có biên độ nhiệt lớn, tôm nuôi dễ bị sốc nhiệt độ. Cách khắc phục là tăng kích thước bể, lắp đặt mái che, đồng thời sục khí đều khắp thành ao sẽ giảm thiểu nhược điểm này.

Tôm bị sốc khi điều kiện sống thay đổi giữa các giai đoạn nuôi: sốc nhiệt độ, pH, kiềm, kim loại nặng… Người nuôi nên đảo đều nước trước 1-2 ngày, mở mái che để tôm dần quen với môi trường bên ngoài. Sang ao vào lúc nhiệt độ thấp, sáng sớm hoặc chiều tối là thời điểm phù hợp nhất.

Ương mật độ quá cao yêu cầu kỹ thuật có chọn lọc, thao tác chính xác, trang thiết chuyên biệt. Hệ thống sục khí, điện, thức ăn chất lượng tốt, testkit đo môi trường luôn phải đầy đủ. Việc chăm sóc cũng cần người có kỹ thuật và chuyên môn tốt, túc trực 24/24 để đảm bảo sự cố kịp thời.

Để phát huy tối đa hiệu quả của bể nuôi nổi tròn, đội ngũ kỹ thuật Skretting luôn sẵn sàng hỗ trợ tư vấn người nuôi thiết kế, cải tạo và nâng cấp hệ thống nuôi sao cho khoa học, hợp lý. Đồng thời tư vấn cho người nuôi lựa chọn loại thức ăn phù hợp với đặc điểm môi trường và nhu cầu dinh dưỡng của tôm tại từng hộ nuôi.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gần 100 tấn cá nuôi lồng bè chết trắng chưa rõ nguyên nhân tại Hà Tĩnh

Hơn 80 tấn cá nuôi trong lồng bè trên khu vực sông của 53 hộ dân ở xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) bỗng dưng chết hàng loạt chưa rõ nguyên nhân. Trước tình hình trên, người dân đã báo cơ quan chức năng xuống lấy mẫu để xét nghiệm tìm nguyên nhân.

Hàng chục tấn cá lồng bè chết trắng không rõ nguyên nhân

Nhiều cá nuôi trong lồng bè chết nổi la liệt ở khu vực ngay dưới cống Đò Điệm trên sông Nghèn của xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà. Lượng cá chết dày, chủ yếu là cá chẽm, cá hồng, cá mè. Ngoài ra, còn có một số cá tự nhiên như cá lệch, cáy, cá bống…

Ông Nguyễn Văn Định (45 tuổi) thả nuôi 6 ô lồng bè cá mè, cá hồng. Vào tối ngày 8/9, cá nuôi từ 2 đến 5 năm của ông bất ngờ chết hàng loạt.

Vớt những con cá bị chết bất thường, ông Định đếm được 470 con cá mè, loại từ 3 – 4kg trở lên và hơn 500 con loại 1kg trở xuống; cá hồng chết có hơn 500 con loại từ 0,5 – 1,5kg.

Ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Sơn cho biết, sáng sớm ngày 9/9, người dân địa phương đi ra khu vực sông để bắt cá thì phát hiện nhiều loại cá tự nhiên và cá nuôi trong các lồng bè trên sông bị chết hàng loạt nên đã trình báo sự việc lên chính quyền địa phương và cơ quan chức năng.

“Qua thống kê bước đầu toàn xã có hơn 50 hộ dân nuôi cá trong khoảng 230 ô lồng bè trên sông Nghèn bị chết gần 100 tấn cá (cá chẽm, cá hồng), con nặng nhất hơn 5kg, nhỏ nhất hơn 1kg/con.

Ước tính thiệt hại ban đầu về kinh tế lên đến hàng chục tỷ đồng. Hiện chính quyền địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng về lấy mẫu xét nghiệm, truy tìm nguyên nhân”, ông Thanh cho biết.

Ông Nguyễn Văn Sáu – Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Thạch Hà cho biết, qua thống kê sơ bộ, đã có khoảng 80 tấn cá trong 222 ô của 53 hộ nuôi ở xã Thạch Sơn bị chết chưa rõ nguyên nhân.

“Ngay khi nhận được thông tin, Phòng đã trực tiếp về kiểm tra, động viên bà con, đồng thời mời các cơ quan chức năng cấp tỉnh về lấy mẫu xét nghiệm, truy tìm nguyên nhân. Ngoài ra, huyện cũng đã ra thông báo nghiêm cấm bà con không bán cá ra thị trường khi chưa xác định rõ nguyên nhân.

Liên hệ với các đơn vị cấp đông, bảo quản cá tạm thời cho bà con nông dân để chờ kết luận chính thức từ cơ quan chức năng rồi mới đưa ra hướng xử lý”, ông Sáu nói.

Chi cục Thủy sản Hà Tĩnh đã lấy mẫu và gửi đi xét nghiệm, tuy nhiên vẫn chưa có kết quả. Đơn vị này khuyến cáo người dân không vứt cá chết ra ngoài môi trường, không dùng cá chết để làm thức ăn cho người và vật nuôi.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nuôi cá chép Nhật, làm chơi ăn thật

Tận dụng hồ nuôi cá diêu hồng của gia đình, anh Nguyễn Bá Luyện ở thôn Tân Lập, xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn, Bình Định đã đầu tư nuôi cá Koi, cho thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.

Cá Koi còn gọi là cá chép Nhật, là một trong những loài cá cảnh được ưa chuộng nhất hiện nay. Trước đây, cá Koi thường được người chơi cá cảnh nuôi nhiều ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong khi ở Bình Định ít người làm. Vốn là người nuôi, cung cấp cá giống và ham tìm tòi những mô hình mới, năm 2014, anh Luyện vào thành phố Hồ Chí Minh mua hơn 500 con cá Koi giống thuần chuẩn về đất Bình Định nuôi thử nghiệm.

 Anh Luyện chăm sóc đàn cá Koi.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn cá Koi của gia đình anh Luyện ngày càng phát triển. Tổng đàn hiện có 400 con có kích cỡ lớn và gần 20 nghìn con lớn nhỏ khác. Ngoài nuôi cá trong hồ xi măng, hồ đất, anh đang thử nghiệm nuôi ghép cá Koi trong lồng nuôi cá thịt diêu hồng, bước đầu có triển vọng tốt.

Anh Luyện chia sẻ, khí hậu Bình Định khá phù hợp với giống cá Koi nên cá sinh trưởng rất tốt, ít nhiễm bệnh. Thức ăn của cá Koi cũng như các loại cá khác, chủ yếu là tảo, tôm, tép và cám.

Để cá lớn nhanh, ngoài việc nuôi ở hồ xi măng vì thoáng mát, người nuôi cũng có thể nuôi ở hồ đất tự nhiên. Hồ nuôi cá Koi càng rộng càng tốt vì sẽ có lượng thức ăn tự nhiên nhiều, như thế cá sẽ nhanh lớn và đạt kích cỡ, màu đẹp.

Người nuôi cần cho cá ăn đầy đủ. Cá Koi cũng là dòng cá ăn tạp nên dễ nuôi chung với các loại cá khác. Khi cá mới lớn khả năng nhiễm bệnh cao và sức đề kháng yếu vì vậy cần xử lý hồ nuôi tốt, tạo dòng chảy nhẹ, kín gió…

Hàng ngày phải theo dõi để sớm phát hiện bệnh. Những bệnh cá Koi hay nhiễm là bệnh hô hấp, nấm da, đòi hỏi người nuôi phải chăm sóc đúng kỹ thuật, nhiệt độ hồ nuôi phải được ổn định.

Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu chơi cá cảnh, nhất là cá Koi đang phát triển mạnh. Đây là đối tượng rất phù hợp để người nuôi có thể nuôi ghép với các đối tượng thủy sản khác như trắm, trôi, mè, rô phi, diêu hồng… Từ đó có thể giúp bà con tăng thêm được thu nhập trên cùng 1 diện tích nuôi thả.

Mặt khác, cá Koi thuộc giống cá chép – biểu trưng cho một sức sống mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng. Theo quan niệm của nhiều người đây là loài cá mang đến tài lộc, vận may, sự thành công và bình an cho gia đình. Nhiều người xem đây là loài cá phong thủy giúp cho gia đình may mắn, do đó những năm gần đây cá Koi luôn được thị trường ưa chuộng, nhất là những con cá đầu đàn màu sắc độc đáo có giá trị lên tới cả chục triệu đồng.

Với giá bán hiện nay, từ 200.000 đồng/kg đối với cá Koi nhỏ, cá Koi lớn có con bán từ 5 – 7 triệu đồng. Chỉ tính riêng trong năm 2018, anh Luyện xuất bán khoảng 1,5 tấn cá Koi, sau khi trừ chi phí cũng cho lãi hơn 200 triệu đồng. Ngoài ra, anh còn ương và nuôi cá diêu hồng thịt, cho lợi nhuận hơn 300 triệu đồng/năm.

Nguy cơ tôm hùm nhiễm bệnh do vi khuẩn

 

Đó là cảnh báo của Trung Giống và Kỹ thuật Thủy sản Phú Yên khi kết quả quan trắc, cảnh báo môi trường nước cho thấy mật độ Vibrio tổng số vượt ngưỡng giới hạn cho phép, xảy ra ở các vùng nuôi Xuân Thịnh, Xuân Phương và Xuân Yên (TX Sông Cầu).

                Người nuôi tôm hùm cần tuân thủ khuyến cáo của cơ quan chức năng.

Do đó sẽ làm tăng nguy cơ vật nuôi dễ nhiễm bệnh do vi khuẩn. Người nuôi nên san thưa mật độ nuôi trong lồng, dãn khoảng cách giữa các lồng nuôi, tách những cá thể tôm nhiễm bệnh nuôi riêng, cần tăng cường vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, tạo sự thông thoáng cho lồng nuôi và vùng nuôi.

Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì lồng nuôi tại tầng giữa hoặc gần tầng mặt để tránh thiếu oxy cục bộ cho tôm nuôi, dùng lưới lan (hai lớp) che mát trên mặt lồng nhằm làm giảm cường độ ánh sáng và chống tôm bị stress, treo các túi vôi ở các góc lồng nhằm hạn chế tảo tàn do mưa dông (nhất là với thời tiết bất lợi như hiện nay), sát trùng môi trường nước, ổn định pH tạm thời … Trường hợp trời oi, đứng gió cần phải sục khí để cung cấp Oxy hòa tan cho tôm nuôi.

Ngoài ra, các hộ nuôi cũng phải thường xuyên theo dõi diễn biến môi trường, màu nước chú ý kiểm tra sự phân tầng của nước (nhiệt độ, độ mặn, ôxy hòa tan…), nhất là vùng nuôi Xuân Phương đang có nhiệt độ nước vượt ngưỡng giới hạn cho phép. Cũng như thường xuyên theo dõi hoạt động, sức khỏe tôm nuôi (nhất là khi trời nắng và đứng gió) để có những giải pháp xử lý kịp thời.

Nên lựa chọn nguồn thức ăn tươi, đảm bảo chất lượng, cần thiết sát trùng thức ăn bằng thuốc tím để đảm bảo an toàn cho vật nuôi. Định kỳ bổ sung các chế phẩm sinh học, vitamin và khoáng chất nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm nuôi tránh các tác nhân gây bệnh. Người nuôi nên xuất bán khi tôm đạt kích cỡ thương phẩm; hạn chế thả nuôi mới; nên san thưa mật độ tôm nuôi… nhằm giảm bớt chi phí thức ăn, tránh những tổn thất khác do biến cố môi trường xảy ra…

Phòng trị một số bệnh thường gặp ở tôm

Thực tế cho thấy, thời tiết bất thường hiện nay làm cho tôm có dấu hiệu chuyển bệnh một cách nhanh chóng. Sau đây là cách phòng trị một số bệnh thường gặp ở tôm, mời bà con theo dõi:

1.Bệnh do vi khuẩn Vibrio

  • Dấu hiệu:

Đứt râu, thối mang, đen mang, thối đuôi, đốm đen.

Tôm bẩn mình, bẩn mang, cơ thể chuyển màu hồng đỏ, tôm yếu, bỏ ăn rồi chết.

Hiện tượng chết có thể xảy ra khi bệnh ở mức độ cấp tính. Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ…

  • Tác nhân gây bệnh:

Tác nhân chính gây ra các bệnh trên là vi khuẩn thuộc giống Vibrio.

Vi khuẩn Vibrio xâm nhập vào ao nuôi theo: nguồn nước, tôm giống, thức ăn, từ đáy ao nếu công tác tẩy dọn chưa tốt.

  •  Phòng – trị bệnh:

Áp dụng tổng hợp các biện pháp để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn:

Giữ chất lượng nước ao nuôi tốt.

Không nuôi mật độ quá cao.

Tránh làm tôm bị tổn thương.

Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ trong ao nuôi.

Giảm độ mặn nước xuống 15 – 20 ‰ có thể hạn chế vi khuẩn Vibrio phát triển.

Tăng sức đề kháng bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E.

Bệnh vi khuẩn thường xảy ra khi nước ao bẩn, tôm yếu, vì vậy nên áp dụng đồng thời các biện pháp:

Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung vitamin C vào thức ăn.

Sử dụng dầu mực bao gói thức ăn: 5-10ml/kg thức ăn

Kích thích lột xác bằng Saponine 10-15g/m3

2. Bệnh do vi khuẩn dạng sợi

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Mang tôm biến đen hoặc biến màu nâu, các chân ngực và chân bơi có màu xám bám đầy lông tơ.

Bệnh nặng thì mang chuyển sang màu vàng, màu xám hoặc màu xanh bám nhiều lông tơ làm ảnh hưởng đến hô hấp. Tôm thường nổi đầu, dạt vào bờ và chết rải rác.

Nghiêm trọng hơn làm tôm không lột xác được.

Bệnh thường gặp ở ao nuôi có hàm lượng chất hữu cơ cao, mật độ nuôi dày.

  • Tác nhân gây bệnh:

Chủ yếu là Vi khuẩn dạng sợi Leucothrix mucor, ngoài ra có thể do một số vi khuẩn dạng sợi khác: Cytophagr sp, Flexibacter sp, Thiothrix sp…Chúng có thể độc lập hay phối hợp với nhau gây bệnh ở mang, thân và các phụ bộ của tôm.

Các vi khuẩn dạng sợi này sống hoại sinh trong nước biển, cửa sông và có thể bám lên bề mặt ngoài của tôm gây bệnh, có khả năng phân giải kitin, xenlulose và nhiều hợp chất hữu cơ khác.

  • Phòng – trị bệnh:

Cải thiện môi trường: thay nước, quạt nước

Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tăng sức để kháng cho tôm: Bổ sung vitamin C

Không nuôi mật độ quá cao

Tránh làm tôm bị tổn thương

Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ. Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E, và betaglucan.

Ao đã bị bệnh thì dùng 1-2mg/m3 Saponine hoặc bột hạt chè phun đều khắp ao kích thích tôm lột xác. Lột xác xong lại thêm nước để giảm nồng độ Saponine, hoặc dùng 2-5mg/m3 KMnO4 ( thuốc tím) phun khắp ao sau 4 giờ thì thay nuớc.

3.Bệnh đóng rong hay mảng bám

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Các sinh vật bám vào chân, mắt, vỏ giáp thành một lớp lông tơ có màu đen (xem kính hiển vi rất rõ).

Tôm bị bệnh thường tách đàn nổi lên mặt nước bơi lờ đờ hay bám thành bờ, phản ứng chậm chạp, kém ăn, không lột xác được.

Bệnh nặng, các sinh vật bám phát triển bám vào mang làm tôm không thở được tôm bị thiếu ôxy nên chết.

  • Tác nhân gây bệnh:

Do các sinh vật bám gây ra:

Động vật nguyên sinh như Epistylis, Vorticella, Acineta, Ephelota.

Tảo lam như Spirulina subsalsa, Schizthrix calcicola; tảo lục như Enteromorpha sp; tảo khuê Amphora sp, Nitszchia sp.

  • Phòng – trị bệnh:

Bệnh sinh vật bám ở tôm xảy ra khi nước ao bẩn, có nhiều tảo bám, nhiều nguyên sinh động vật (trùng loa kèn) nên phải áp dụng các biện pháp:

Cải thiện điều kiện môi trường:

Duy trì độ trong thích hợp, ổn định tảo trong ao.

Tăng cường thay nước sạch (10 – 20% nước/lần) để làm giảm sinh vật bám trong ao, cải thiện môi trường

Tăng cường quạt nước để tăng hàm lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi

Cho ăn đúng mức để tránh ô nhiễm đáy ao.

Vớt tảo nổi trên bề mặt.

Xử lý nước ao bằng chế phẩm vi sinh để hấp thu khí độc NH3 và phân hủy chất hữu cơ, hạn chế sự phát triển của tảo.

Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress, tăng sức khỏe cho tôm.

Kích thích tôm lột xác: thay nước hoặc dùng Saponin 10-15g/m3 tạt khắp ao giúp tôm lột xác đồng đều.

Diệt sinh vật bám: nếu tỷ lệ tôm nhiễm bệnh cao có thể sử dụng hóa chất diệt bớt sinh vật bám như formol (25ml/m3) hoặc CuSO4.

4.Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Tôm nuôi thương phẩm bị bệnh mềm vỏ thường có dấu hiệu bệnh lý:

Tôm có màu xỉn, vỏ bị mềm có khi rất mềm, vỏ rời thịt.

Những con mềm vỏ thường yếu, kém hoạt động, dễ bị con khác ăn thịt hoặc dễ bị các sinh vật gây bệnh tấn công, dễ bị mắc các bệnh bẩn mình bẩn mang, chết rải rác.

Tôm bị mềm vỏ thường chậm lớn, giảm giá trị thương phẩm và dễ mắc các bệnh cơ hội. Bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh.

  • Tác nhân gây bệnh:

Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng có liên quan đến môi trường và dinh dưỡng. Do thiếu dinh dưỡng, thức ăn thiếu Canxi và phốt pho. Độ cứng thấp.

Nước ao nuôi nhiễm thuốc trừ sâu.

Hàm lượng lân trong nước thấp.

  • Phòng – trị bệnh:

Quản lý môi trường có độ kiềm từ 80-160mg/l bằng cách: bón vôi CaCO3 hay Dolomite (CaMg(CO3)2) định kỳ một tuần một lần cho ao nuôi.

Quản lý môi trường ao nuôi thích hợp và ổn định tránh gây sốc cho tôm.

Bổ sung thêm khoáng thích hợp vào khẩu phần thức ăn như: Canxi/phos, Premix.

5.Bệnh thiếu vitamin C

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Tôm bị bệnh thiếu vitamin C thường có các dấu hiệu bệnh lý:

Xuất hiện các vùng cơ màu đen dưới lớp vỏ ở mặt lưng của phần bụng, ở các chân bơi, chân bò, trên mang tôm cũng có các vệt đen.

Tôm ăn ít hoặc bỏ ăn, sức đề kháng giảm, khả năng chịu sốc kém, dễ bị các tác nhân gây bệnh cơ hội tấn công tôm sinh trưởng chậm, chết rải rác 1-5% hàng ngày (tỷ lệ hao hụt tổng cộng rất cao 80-90%).

Bệnh thường gặp trong ao nuôi thâm canh, đặc biệt trong những ao tảo kém phát triển.

  • Tác nhân gây bệnh:

Do khẩu phần ăn của tôm bị thiếu vitamin C

  • Phòng – trị bệnh:

Sử dụng thuốc và biện pháp trị bệnh như sau:

Bổ sung một lượng vitamin C thích hợp vào khẩu phần thức ăn cho đến khi khỏi bệnh.

Cho tôm ăn thường xuyên vitamin C với các ao nuôi bằng thức ăn công nghiệp, môi trường ao nuôi thiếu tảo.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nâng chất lượng tôm giống

Mới đây, tại Ninh Thuận, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức diễn đàn Khuyến nông @ công nghệ với chủ đề “Nâng cao chất lượng tôm giống gắn với vùng SX tôm thương phẩm.

Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phát biểu tại hội nghị

Đây là cơ hội để các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý về lĩnh vực thủy sản và DN nuôi tôm cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; tìm giải pháp hữu hiệu để hạn chế dịch bệnh, nâng cao chất lượng SX tôm giống nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao trước sự cạnh tranh thương mại ngày càng khốc liệt.

Theo Tổng cục Thủy sản, cuối năm 2018, cả nước có 2.457 cơ sở SX giống tôm nước lợ; trong đó có 1.855 cơ sở SX tôm sú và hơn 600 cơ sở SX giống tôm thẻ chân trắng, với sản lượng 120 tỷ con (tăng hơn 10% so với năm 2017). Khu vực sản xuất tôm giống trọng điểm là các tỉnh khu vực Nam Trung bộ gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Hằng năm, các cơ sở ở khu vực này cung cấp khoảng 56% số lượng giống tôm nước lợ cho nhu cầu thả nuôi của cả nước.

Ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, tôm giống có vai trò hết sức quan trọng đối với ngành tôm, nhưng nước ta vẫn chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ chọn tạo, gia hóa, chưa thể chủ động cung ứng giống. Mỗi năm vẫn phải nhập khẩu từ 200.000 – 250.000 con tôm chân trắng bố mẹ (khoảng 90% phải ngoại nhập). Trong khi đó, một phần tôm sú bố mẹ vẫn phải thu gom từ tự nhiên. Hiện tại nước ta chỉ có giống tôm sạch bệnh phục vụ nuôi công nghiệp, chưa có con giống kháng bệnh phục vụ nuôi quảng canh.

Bên cạnh đó, giá thành SX tôm ở nước ta vẫn cao hơn các nước trong khu vực. Nguyên nhân do thức ăn nuôi tôm chiếm tỷ lệ cao trong giá thành SX (khoảng 65 – 70%); chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa được đầu tư đồng bộ, dễ dẫn đến ô nhiễm; công nghệ nuôi chưa được cải tiến nên năng suất thấp. Đó chưa kể tình trạng lạm dụng thuốc, hóa chất, bơm chích tạm chất vào tôm nguyên liệu còn xảy ra ở các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, làm ảnh hưởng đến uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam.

Ngoài ra, thị trường xuất khẩu tôm vẫn gặp khó khăn về các loại rào cản như thuế chống bán phá giá; chương trình SIMP của Mỹ; giá tôm nhập khẩu từ Ấn Độ thấp; các thị trường ngày càng tăng cường kiểm soát chặt chẽ về an toàn và chất lượng thực phẩm…

Thời gian qua việc quản lý giống tôm nước lợ được Bộ NN-PTNT, Tổng cục Thủy sản và các địa phương rất quan tâm và chỉ đạo quyết liệt. Tổng cục Thủy sản yêu cầu Chi cục Thủy sản các tỉnh tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử lý vi phạm trong SXKD tôm giống.

Để xử lý triệt để các cơ sở vi phạm, sau mỗi đợt kiểm tra, Tổng cục Thủy sản đều công khai cơ sở vi phạm trên các phương tiên thông tin đại chúng; đồng thời gửi văn bản cho các tỉnh/thành, các ngành có liên quan để chấn chỉnh, có hướng xử lý đúng, góp phần nâng cao chất lượng giống tôm gắn với nuôi trồng.

Các đại biểu tìm hiểu mô hình nuôi tôm công nghệ cao

 

Đỉnh cao nuôi biển: Sản xuất nhân tạo giống hải sâm quý

Để khai thác hải sâm, thợ lặn phải lặn rất sâu ngoài biển xa và chúng đang ngày càng cạn kiệt. Nay loài sâm biển quý giá đó đã được các nhà khoa học thủy sản Việt Nam nhân tạo thành công, nuôi thương mại dễ dàng…

NNVN xin giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Đình Quang Duy, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, chuyên gia hàng đầu về hải sâm…

Bị săn lùng

Hải sâm (Holothuroidea, Echinodermata) có lịch sử lâu dài về thương mại trên khắp châu Á và Ấn Độ – Thái Bình Dương; chúng được khai thác để làm thực phẩm và sử dụng làm dược liệu cho y học cổ truyền ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ

Hải sâm là loài sống dưới đáy đại dương, là thực phẩm có giá trị bổ dưỡng và giúp tăng cường sinh lực.

Hải sâm (Holothuroidea, Echinodermata) có lịch sử lâu dài về thương mại trên khắp châu Á và Ấn Độ – Thái Bình Dương; chúng được khai thác để làm thực phẩm và sử dụng làm dược liệu cho y học cổ truyền ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ

Hải sâm là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng và nguồn thu nhập cho các cộng đồng ven biển nhỏ trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương; là nhóm động vật không xương sống được khai thác nhiều nhất với khoảng 77 loài được thu hoạch và giao dịch ở ít nhất 70 quốc gia trên toàn thế giới.

Các hình thức phổ biến nhất của sản phẩm hải sâm trên thị trường là hải sâm bỏ ruột, luộc và phơi khô, được gọi là trepang (Indonesia), beche-de-mer (Polynesia thuộc Pháp), namako (Nhật Bản) hoặc gamat (Malaysia).

Hải sâm được coi là món ăn bổ dưỡng ở nhiều vùng, đặc biệt là Trung Quốc và được đánh giá cao vì lợi ích nhận thức như thuốc cổ truyền dưới dạng chiết xuất được chế biến thành thuốc viên, thuốc bổ và các loại thuốc bôi tại chỗ.

Hải sâm cát cũng có các hợp chất hoạt tính sinh học có thể có ứng dụng sinh học và dược lý cho các đặc tính chống ung thư, kháng virus, chống tạo mạch máu trong điều trị ung thư, chống tăng huyết áp, chống viêm, kháng khuẩn, chống oxy hóa, chống huyết khối…

Hải sâm Nhật Bản Apostichopus japonicus là loài được khai thác tự nhiên nhiều nhất với sản lượng trung bình hàng năm là 11.473 tấn, từ năm 2002 đến năm 2015 mức tăng trung bình 131 tấn mỗi năm.

Khai thác nhằm vào các loài hải sâm khác có giá trị thấp hơn đáng kể như hải sâm vú đen Holothuria nobilis, hải sâm ngận Thelenota ananas và hải sâm vú trắng Holothuria fuscogilva, ở mức 12, 89 và 115 tấn mỗi năm, từ năm 2002 đến 2015 (FAO, 2018). H. fuscogilva được coi là loài sắp nguy cấp trong khi H. nobilis và T. ananas được coi là loài nguy cấp (theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, IUCN).

Quần thể hải sâm bị suy giảm nghiêm trọng trong khoảng 50 – 90% do áp lực khai thác. Hải sâm cát (Holothuria scabra) là một trong những loài hải sâm nhiệt đới có giá trị nhất và chịu áp lực đánh bắt nghiêm trọng trong vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương, có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Sản xuất giống và nuôi thương phẩm

Tại Việt Nam, quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát đã được nghiên cứu bởi Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III qua hai đề tài cấp Bộ, giai đoạn 2003 – 2004 là đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống hải sâm cát tại Nha Trang – Khánh Hòa”;

Giai đoạn 2008 – 2009 là đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi thương phẩm hải sâm cát quy mô sản xuất trong ao tại một số khu vực duyên hải Nam Trung Bộ”.

Hai dự án trên cùng với các dự án hợp tác quốc tế khác về loài hải sâm cát khác được nghiên cứu về cơ bản đã hình thành nghề nuôi hải sâm cát tại Việt Nam, chủ yếu là nuôi thương phẩm trong ao.

Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy, quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát không ổn định với tỉ lệ sống từ ấu trùng mới nở cho đến giai đoạn con giống có thể thả nuôi (2 – 3cm) thương phẩm trung bình khoảng 5% tính chung cho tất cả giai đoạn ương nuôi; con bố mẹ phụ thuộc đánh bắt từ tự nhiên chưa có quy trình nuôi con bố mẹ thành thục chủ động.

Thời gian nuôi thương phẩm hải sâm cát đạt được tại các mô hình trung bình từ 10 – 12 tháng, có thể thu hoạch với kích cỡ khoảng 3 – 4 con/kg, năng suất trung bình 2,5 tấn/ha, tỷ lệ sống trung bình khoảng 80%.

Trong số các loài hải sâm nhiệt đới, hải sâm cát có giá bán cao nhất trên thị trường, dao động từ 115 – 640 USD/kg đến 1.670 USD/kg (đối với mẫu nặng hơn 1,5kg) (Purcell và cộng sự, 2012). Trong năm 2015, tổng sản lượng nuôi hải sâm cát trên toàn cầu chỉ là 156 tấn, trị giá 732.000 USD, phần lớn được sản xuất ở Việt Nam và Malaysia (FAO, 2018).

Hải sâm giống

Từ năm 2000 đến năm 2003, tổ chức ICLARM (nay là WorldFish Center) hợp tác với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm hải sâm cát Holothuria scabra.

Dự án đã sản xuất nhân tạo vài chục vạn con giống 1 – 2mm với tỷ lệ sống cho ương nuôi ấu trùng từ trứng đến con giống còn thấp chỉ đạt 3,1%, nguyên nhân chính do thức ăn và địch hại.

Dự án cũng đã thử nghiệm thả nuôi hải sâm cát có kích cỡ khác nhau để ương nuôi trong lồng, đăng ngoài biển. Kết quả nuôi trong ao với mật độ 1 con/m2 cho thấy cỡ giống 1,6g/con nuôi khoảng 1,5 – 2 tháng đạt 60g/con, cỡ giống 5,5g/con nuôi khoảng 1,5 tháng đạt 96g/con.

Quy trình sản xuất giống hải sâm cát đã đạt được thành công trong cải tiến kỹ thuật nâng cao tỷ lệ sống trong giai đoạn bám lên 10%. Kết quả ương nuôi thành công từ ấu thể 1 – 2mm lên con giống 2cm đạt tỷ lệ sống gần 50%.

Ao ương hải sâm.

Gần đây,các dự án hợp tác quốc tế về hải sâm giữa Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III và tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc (ACIAR) đã nghiên cứu và làm chủ công nghệ sản xuất giống hải sâm cát, đồng thời nghiên cứu các hình thức nuôi ghép giữa hải sâm và tôm, hải sâm với ốc hương, nuôi đăng biển, tập huấn sản xuất giống và các giải pháp quản lý môi trường ao nuôi và tạo sinh kế cho cộng đồng ven biển…

Lợi ích kinh tế

Nuôi thương phẩm hải sâm cát vẫn chưa được phát triển ở quy mô công nghiệp trên thế giới, ngoại trừ một số mô hình nuôi ao tại Nam Trung Bộ, Việt Nam những năm gần đây.

Trong khi đó, nhu cầu về sản phẩm hải sâm cát trên thị trường thế giới như Trung Quốc, Singapore, Đài Loan… là rất lớn. Ngoài ra, thị trường trong nước có tiềm năng rất lớn đối với mặt hàng hải sâm cát – vốn là sản phẩm có giá trị y học và thực phẩm cao – nhưng chưa được quan tâm khai thác với nguồn nguyên liệu còn hạn chế do nuôi trồng còn chưa phát triển ở quy mô công nghiệp.

Thu hoạch hải sâm.

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, chất lượng giữa hải sâm cát nuôi và tự nhiên là không có sự sai khác nhiều (Hair và cộng sự, 2018).

Do đó, trong tương lai khả năng sản phẩm hải sâm cát nguồn gốc từ nuôi trồng có tính cạnh tranh cao so với nguồn sản phẩm khai thác từ tự nhiên vốn hạn chế và không bền vững.

Khu vực Nam Trung Bộ có điều kiện tự nhiên phù hợp (nhiệt độ, độ mặn cao và ổn định) cho sản xuất giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát.

Nhiều trại sản xuất giống hải sản, diện tích nuôi sử dụng nuôi các loài hải sản (tôm, ốc hương, cá biển…) không hiệu quả có thể chuyển đổi qua sản xuất giống và nuôi hải sâm cát, sẽ phát huy công năng trên một diện tích đất, nhà xưởng, mặt nước nuôi trồng.

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, chất lượng giữa hải sâm cát nuôi và tự nhiên là không có sự sai khác nhiều.

Khu vực miền Trung là nơi có rất nhiều diện tích nuôi tôm bị bỏ hoang do ô nhiễm, dịch bệnh nên việc nuôi hải sâm, vốn là đối tượng ăn lọc, sẽ góp phần cải tạo môi trường ao nuôi, giảm ô nhiễm vùng nuôi.

Việc triển khai sản xuất nuôi trồng hải sâm cát ở quy mô công nghiệp sẽ mở rộng nghề sản xuất giống và nuôi thương phẩm một đối tượng có giá trị kinh tế cao, đa dạng hóa đối tượng nuôi, tạo công ăn việc làm, nhất là việc làm cho phụ nữ vùng hải đảo và ven biển.

Sản phẩm từ nghề nuôi sẽ góp phần vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản, cung cấp nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng và y học cao, góp phần cải thiện sức khỏe người dân.

Cần chiến lược nghiên cứu và nuôi hải sâm thương mại

Mặc dù các kết quả nghiên cứu và thực tế sản xuất tại Việt Nam cho thấy có những chỉ tiêu vượt trội so với công trình đã xuất bản và công nghệ khu vực cũng như trên thế giới nhưng nghề nuôi vẫn chưa phát triển mạnh trong những năm qua.

Việc đầu tư về cơ sở sản xuất hải sâm cát còn hạn chế và hải sâm cát vẫn chưa được xem là đối tượng nuôi trồng ưu tiên của ngành thủy sản nên quy mô sản xuất còn nhỏ, công nghệ chưa thật sự ổn định ở một số khâu kỹ thuật.

Việc sản xuất thử nghiệm ở quy mô công nghiệp đòi hỏi nhiều nghiên cứu cải tiến, hoàn thiện trong các khâu nuôi vỗ con bố mẹ chất lượng cao; nghiên cứu thức ăn, mật độ, nâng cao tỉ lệ sống từ ấu trùng cho đến giai đoạn bám đáy và giai đoạn ương lên con giống tiêu chuẩn phục vụ nuôi thương phẩm; nghiên cứu thức ăn bổ sung phù hợp và mật độ thích hợp cho hải sâm nuôi nhằm giảm thời gian nuôi, tăng năng suất và hiệu quả kinh tế trên một diện tích nuôi trồng.

Việc kết hợp với doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến, xuất khẩu hải sâm sẽ hỗ trợ gia tăng quy mô sản xuất, chiến lược tiếp thị và đưa sản phẩm ra thị trường hiệu quả hơn.

TS NGUYỄN ĐÌNH QUANG DUY

Nguồn: https://nongnghiep.vn/

 

 

 

Con tôm ôm rơm lúa

Hàng chục hộ dân trên địa bàn huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) thực hiện mô hình dùng rơm lúa để cải tạo nước, tạo môi trường sinh sống cho các loài thủy sản dưới vuông nuôi, bước đầu cho thấy hiệu quả.

Cuộn rơm được thả xuống vuông nuôi, tạo môi trường trú ẩn cho con tôm.

Theo đó, khi rơm lúa gặp môi trường nước lâu dần sẽ tạo ra chất xúc tác làm giảm độ kiềm trong vuông nuôi. Đồng thời, tạo ra nơi tránh trú cho tôm trong mùa nắng nóng. Khi rơm mục, sẽ tạo ra nguồn thức ăn cho các loài thủy sản, nhất là tôm, cua.

Ông Trần Minh Châu, ngụ ấp Ông Như, xã Tân Ân Tây là người đầu tiên áp dụng mô hình này. Trước khi thả rơm vào vuông, ông tiến hành bó các cuộn rơm lại. Sau đó, dùng cây cố định để rơm nổi lên mặt nước và không bị trôi. Sau 10 – 15 ngày rơm sẽ chìm trong nước, ông mới tiến hành thả giống. Cách làm này vừa tạo chỗ ở cho tôm, vừa tạo thức ăn sau này cho các loài giáp xác.

Sau khi áp dụng kỹ thuật dùng rơm lúa để tạo nơi trú ẩn, nguồn thức ăn cho thủy sản nuôi, trung bình mỗi tháng ông Châu có thu nhập hơn 30 triệu đồng. Hiện tôm đang trong giai đoạn phát triển tốt. Đây là đợt trúng nhất của gia đình ông Châu trong 10 năm qua.

Thấy hiệu quả từ rơm lúa mang lại cho con tôm, nhiều hộ dân trên địa bàn xã Tân Ân Tây đã mạnh dạn áp dụng. Hầu hết đều dùng rơm lúa kết hợp men vi sinh để cải tạo nước, giúp các đối tượng nuôi phát triển nhanh.

“Trước đây khi thả giống, hầu hết người dân chỉ thực hiện theo phương thức nuôi truyền thống, khó kiểm tra, phát hiện vật nuôi nhiễm bệnh. Nhưng với cách làm này con tôm, con cua bám vào rơm lúa để sinh sống, phát triển rất nhanh và rất dễ kiểm soát”, ông Hồ Văn Sỹ, ngụ ấp Ông Như, xã Tân Ân Tây cho biết.

Theo ông Sỹ, mô hình tạo môi trường khá lý tưởng cho vật nuôi trong vuông bám vào trong lúc nhỏ, vừa hạn chế được mức độ thiệt hại. Hiện giá rơm được các mối ở vùng ngọt hóa chuyển tận nơi giá 3 triệu đồng/tấn. Còn mua bó thì khoảng 35 ngàn đồng/bó 12kg. Theo người dân địa phương, trong quá trình thực hiện mô hình cần lưu ý đến cách trải rơm vào vuông phải phù hợp. Tuyệt đối, không để rơm chạm đất, sẽ gây thối rơm, ảnh hưởng môi trường nước.

Ông Lê Minh Thùy, Chủ tịch UBND xã Tân Ân Tây lưu ý trước khi thả giống cần diệt cá tạp. Bởi con giống vào thời gian đầu sẽ trú ẩn, sinh sống ở những cuộn rơm nên dễ làm thức ăn cho cá tạp.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật nuôi ngao.

Bài viết này áp dụng trong điều kiện nuôi ngao bãi triều các vùng ven biển.

Bãi nuôi ngao.

I. CHUẨN BỊ BÃI NUÔI:

1. Điều kiện bãi nuôi

– Bãi triều phải nằm trong vùng quy hoạch đã được UBND tỉnh phê duyệt; bãi nuôi thuộc vùng trung và hạ triều, bằng phẳng, ít dốc, nền đáy cát chiếm tỷ lệ khoảng 70-80%.
– Diện tích: 1-2 ha/bãi.
– Độ mặn ổn định, dao động từ 10-30‰.
– Không ảnh hưởng của nguồn nước thải từ các khu công nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, nước thải trong sinh hoạt và nước ngọt từ các cửa sông đổ ra.

2. Chuẩn bị bãi nuôi

2.1. Cải tạo bãi nuôi

– Đối với bãi cũ: Sau khi kết thúc một chu kỳ nuôi, người nuôi ngao cần tính toán lịch con nước thủy triều để tiến hành vệ sinh mặt bãi, đồng thời sử dụng máy, cày lật bãi nuôi, kết hợp bón vôi với lượng 10 kg/100 m2, rồi san bằng mặt bãi trước khi thủy triều lên.
– Đối với bãi mới: Người nuôi ngao tính toán lịch con nước thủy triều, tiến hành vệ sinh mặt bãi. Những bãi nuôi nền đáy chưa ổn định, tiến hành phun cát bổ sung đến mức hợp lý (nền đáy cát chiếm tỷ lệ 70-80%), rồi san bằng mặt bãi trước khi thả giống.

2.2. Chuẩn bị vây lưới và chòi canh bảo vệ ngao nuôi

* Vây lưới

– Chuẩn bị xăm lưới Politylen, cọc tre hoặc gỗ để vây xung quanh bãi nuôi, tránh ngao di chuyển tự do hoặc thất thoát khi gặp các điều kiện bất lợi của thời tiết như sóng gió, mưa bão …
– Vây lưới có thể được làm 1 hoặc 2 lớp, lớp trong có tác dụng ngăn không cho ngao di chuyển ra ngoài, lớp ngoài ngăn ngừa địch hại xâm nhập; chiều cao lưới 0,8-1,2 m, cỡ mắt lưới nhỏ hơn cỡ giống thả.
Cách cắm vây lưới: Vùi xuống đất khoảng 1/3 đến 2/5 chiều cao của xăm lưới, phần còn lại dùng các cọc bằng tre hoặc gỗ dài 1,5-2,5 m để nâng lưới lên cao hơn so với mặt bãi từ 50-70 cm. Cách 1,5-2,0 m cắm một cọc nhỏ (Φ = 8-10) để nâng lưới, cách 3-5 m cắm một cọc cỡ lớn (Φ = 10-15) để căng lưới.

* Chòi canh

Để thuận tiện cho việc quan sát, kiểm tra bãi nuôi hàng ngày, phải tiến hành dựng chòi canh bảo vệ ngao nuôi. Chòi được thiết kế kiên cố bằng các vật liệu như phi lao, bạch đàn, tre, nứa … , cao hơn mực nước cao nhất trong năm từ 5-7 m.

II. CHỌN VÀ THẢ GIỐNG:

1. Chọn giống

– Người nuôi nên chọn mua ngao giống tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh có uy tín, đảm bảo chất lượng; tốt nhất nên chọn ngao giống đã được ương dưỡng tại các vùng nuôi có điều kiện môi trường tương ứng.
– Chọn ngao giống có kích cỡ đồng đều, màu sắc sáng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, không bị nhiễm bệnh, có mùi tanh tự nhiên.

2. Thả giống

– Thời vụ thả nuôi: Có thể thả nuôi quanh năm, nhưng thời gian thả giống tập trung từ tháng 4-5 và tháng 9-10 dương lịch hàng năm.
– Cỡ giống thả và mật độ nuôi
Tùy theo điều kiện bãi nuôi, khả năng đầu tư để lựa chọn cỡ giống và mật độ nuôi hợp lý.
+ Cỡ từ 600-2.000 con/kg, mật độ 250-350 con/m2;
+ Cỡ từ 400-600 con/kg, mật độ 180-250 con/m2.
– Cách thả giống: Ngao giống sau khi vận chuyển từ nơi khác về nên để vào nơi râm mát để cân bằng nhiệt độ. Thời gian thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát, khi nước thủy triều đang lên. Lưu ý: Không thả giống khi độ mặn ở cơ sở cung cấp giống và địa điểm thả giống chênh lệch quá 5‰, cắm tiêu để tránh thả chồng lên nhau.

III. QUẢN LÝ BÃI NUÔI

1. Sau khi thả giống, chờ nước thủy triều xuống tiến hành kiểm tra tỷ lệ vùi cát của ngao, trên cơ sở đó xác định tỷ lệ sống để có kế hoạch thả giống bổ sung cho phù hợp.

2. Hàng ngày, sau khi thủy triều xuống tiến hành thăm bãi, kiểm tra các mối nguy có thể ảnh hưởng đến ngao nuôi như: Nhiệt độ (tăng cao vào tháng 6-7 hàng năm), độ mặn, ảnh hưởng của sóng gió …; bắt các đối tượng địch hại như Cua, ốc … và san lấp các chỗ trũng đọng nước trên mặt bãi để tránh hiện tượng nhiệt độ tăng cao cục bộ có thể gây chết ngao nuôi.

3. Sau mỗi con nước hoặc bão gió, phải tiến hành ngay việc san thưa mật độ ngao dồn vào chân vây phía cuối hướng gió hoặc dòng chảy; tránh để hiện tượng ngao dồn mật độ cao vào chân vây kéo dài, gặp điều kiện thời tiết bất lợi, dẫn đến gây chết ngao cục bộ.

4. Thường xuyên vệ sinh, tu sửa chân vây lưới, tạo sự thông thoáng cho nước triều lên xuống, làm phong phú nguồn thức ăn cho ngao.

5. Hạn chế người và gia súc đi lại trên bãi nuôi. Định kỳ kiểm tra chiều dài, trọng lượng và tỷ lệ sống của ngao để đánh giá tốc độ sinh trưởng, chủ động các giải pháp (san thưa, thu hoạch …) khi cần thiết.

IV. THU HOẠCH

Căn cứ vào nhu cầu tiêu thụ để lựa chọn thời gian và phương pháp thu hoạch cho hợp lý.
1. Thời gian thu hoạch

– Sau thời gian nuôi khoảng 18-20 tháng, ngao đạt kích cỡ 50-60 con/kg nên tiến hành thu hoạch.
– Thời gian thu hoạch tốt nhất là vào mùa xuân và mùa thu dễ bảo quản.

2. Phương pháp thu hoạch

2.1. Thu thủ công: Dùng cào thu ngao khi nước triều kiệt
– Ưu điểm: Không làm dập vỏ; tỷ lệ tạp chất trong ruột ngao thấp.
– Hạn chế: Thời gian thu kéo dài, tốn nhân công, chi phí cao.

2.2. Thu bằng lưới kéo trên thuyền máy
– Ưu điểm: Thời gian thu hoạch ngắn, tốn ít nhân công, chi phí thấp.
– Hạn chế: Có thể làm dập vỏ một lượng ngao nhất định trong khi thu hoạch, tạp chất trong ruột ngao nhiều, mất chi phí và thời gian sơ chế, ảnh hưởng đến uy tín chất lượng ngao xuất khẩu.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá mú trong lồng lưới.

Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao. Nghề nuôi cá mú ở Châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn cá giống hoàn toàn dựa vào tự nhiên,cùng tìm hiểu cách nuôi cá mú trong lồng lưới.

Lồng lưới.

Chọn vị trí nuôi

Lồng lưới nên được đặt ở các vùng nước yên tĩnh, tại các vùng đầm phá, eo vịnh khuất gió ở các khu vực cửa sông hoặc đảo, không bị ô nhiễm công nông nghiệp, nội địa các chất độc và ít bị ảnh hưởng lũ mưa.

Mật độ và cỡ cá thả nuôi

Cá giống nhỏ 2-3 cm sẽ được thả ương trong lồng lưới nhỏ (3x3x2 m) với kích cỡ mắt lưới 0,5-1,0 cm để tập cho ăn và tập quen với môi trường bè. Mật độ thả 50-60 con/m3. Thời gian ương 30-45 ngày đạt cỡ cá giống lớn 10-20 cm. Cá giống lớn được thả nuôi trong lồng lưới lớn (5x5x2m), mặt lưới 2-4 cm. Mật độ thả 10-20 con/m3. Trong quá trình nuôi nên tiếp tục phân cỡ để tránh hiện tượng cá ăn nhau.

Cho ăn và chăm sóc

Cá thường được tập cho ăn cá tạp và tôm tép nhỏ đã chết còn tươi trong vòng 1-3 tuần. Trong vài tháng đầu cá được cho ăn khẩu phần 10% thể trọng/ngày. Sau đó, giảm xuống 5-6% thể trọng/ngày.

Hàng ngày nên được kiểm tra lồng lưới để tránh hiện tượng cá ra ngoài do hư hỏng. Định kỳ vệ sinh lưới để đảm bảo sự thông thoáng của nước qua lưới được tốt và loại bỏ một số ký sinh trùng và vi sinh vật có hại bám vào lưới.

Cá mú.

Thu hoạch

Thời gian nuôi 6-8 tháng, cá đạt trọng lượng trên 500gr bắt đầu thu hoạch từng phần bằng lưới nâng (dạng vó) tại các vị trí cho ăn trong ao. Lưới thu hoạch có kích cỡ 4x2x1m được đặt xuống gần đáy ao. Các vật dụng trú ẩn bằng ống PVC (đường kính 100-120 cm) được buộc thành bó đặt ở giữa lưới để gom cá lại trong các vật dụng trú ẩn, khi cá đã tập trung vào các vật dụng trú ấn sẽ nâng lưới lên để bắt lấy những cá có trọng lượng trên 400 gr chuyển đến bè thu hoạch được lắp đặt sẵn trong ao (8x4x1m hoặc 4x2x1m, mắt lưới 2-4 cm). Mật độ thả cá trong các bè này từ 10-20 con/m3. Cá mú được cho ăn 5% trọng lượng thân ngày cách ngày trong khi chờ tiêu thụ. Thu hoạch toàn bộ được tiến hành khi chỉ còn một ít cá mú trong ao sau khi đã thu từng phần, lúc này tháo cạn nước và sử dụng vợt để bắt cá.

Trước khi vận chuyển, cá được cho vào các bể xi Măng sục khí 1-2 Giờ, sau đó cho các bao đựng nước đá vào bể hạ nhiệt độ từ từ xuống 18oC. Sau đó cho từ 3-5 cá vào bao nylon bơm oxygen có mức nước 3-5 cm trong bao, cuối cùng cho vào thùng xốp (30x30x20 cm), cho một ít nước trong thùng xốp để làm mát trong quá trình vận chuyển.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.