Đáng nể người đầu tiên đưa con cá thác lác cườm ra nuôi lồng bè trên sông Hậu

Ông Lý Văn Bon là người đầu tiên ở ĐBSCL đưa con cá thác lác cườm từ ao hầm sang nuôi lồng bè sạch trên dòng sông Hậu. Cũng là người thành công với ý tưởng nuôi cá lồng bè kết hợp du lịch sinh thái và kinh doanh các mặt hàng thực phẩm đặc sản.

Ông Lý Văn Bon (Bảy Bon), ở khu vực 1, Cồn Sơn, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ, quê gốc ở vùng U Minh Hạ (Cà Mau) là cái nôi của con cá, con tôm. Ông mang trong mình niềm đam mê bất tận với nghề nuôi cá, từng là sinh viên ĐH Thủy sản Nha Trang. Khi ra trường, vì hoàn cảnh đưa đẩy, ông không gắn bó được với nghề mà xin vào làm việc tại Cục Hải quan tỉnh Cà Mau.

Ông Bảy Bon bên hệ thống lồng bè nuôi cá

Theo ông Bảy Bon, cơ duyên đến với nghề cũng đặc biệt. Năm 1998, trong lần làm thủ tục nhập hàng, ông Bảy Bon gặp ông Philip người Pháp, là tiến sĩ thủy sản. Có chung niềm đam mê nên hai người nói chuyện rất nhiều về con cá, con tôm. Buổi gặp tình cờ, cũng là lúc cuộc đời ông Bảy chuyển sang một hành trình mới, khi được nghe những chia sẻ của “người bạn, người thầy” về dòng Mêkông.

Ông Philip nói: “Trên thế gới chỉ có duy nhất một dòng sông Mêkông, nếu như nuôi cá, muốn khởi nghiệp từ con cá thì không cần đến nước nào khác, Việt Nam là số một. Do số lượng cá bị khai thác quá nhiều, dẫn đến cá trong tự nhiên cạn kiệt, dân số lại ngày càng tăng, cá ngoài tự nhiên thì ngày càng ít, nếu không duy trì ngành này thì nó sẽ mất đi”.

Khi ông Philip nghiên cứu tại Cần Thơ thì nhận ra dòng sông Hậu dưới chân Cồn Sơn nước chảy rất mạnh, có dòng nước xoáy, nên cá chẽm và các loại cá khác tập trung về đây sinh sôi nhiều. Từ đó, theo ông Philip chọn nơi này đầu tư bè nuôi cá là tốt nhất, nhờ lượng oxy cung cấp dồi dào cho cá, nguồn nước ô nhiễm rất ít so với những nơi khác, do nằm ở giữa dòng sông Hậu.

Với những thực tế được kiểm chứng, cũng như những luận điểm chắc chắn của ông Philip, ông Bảy Bon thấy được hướng đi mà ông đã từng ấp ủ, nên xin nghỉ làm hải quan, tập trung về khu Cồn Sơn nuôi cá lồng bè. Ban đầu ông nhận thấy cá điêu hồng đang được người tiêu dùng ưa chuộng, lại dễ nuôi, đầu tư ít, thời gian thu hoạch ngắn nên ông chọn con cá điêu hồng để nuôi, giống nhập từ Đài Loan và Thái Lan, về sau ông tự sản xuất giống.

Ông Bảy Bon cho cá thác lác ăn

Sau vài năm giá cá điêu hồng tuột dốc không phanh, dẫn đến thua lỗ tiền tỷ. Không nản lòng, ông Bảy Bon đi học hỏi, tìm hiểu những mô hình, những loài cá nào đạt hiệu quả kinh tế cao để nuôi. Từ những chuyến đi đó, tình cờ Bảy Bon quen ông Tư Kháng quê ở Hậu Giang, là một trong những người đem con cá thác lác từ Campuchia về Cần Thơ và nhờ ĐH Cần Thơ nghiên cứu, sinh sản thành công, với ý tưởng lấy thịt cá làm chả xuất sang Nhật.

Sau khi được ông Tư Kháng tư vấn, năm 2012, ông Bảy chuyển hướng đầu tư 250.000 con cá thác lác cườm, đến khi thu hoạch xuất bán 70 – 80 tấn đem lại lợi nhuận trên 2 tỷ đồng, xóa được số nợ do thua lỗ khi nuôi cá điêu hồng. Từ đó ông gắn bó với con cá thác lác. Ông Bảy Bon dẫn chúng tôi tham quan trên 30 lồng bè, vèo cá lớn nhỏ với diện tích trên 5.000m2 trị giá gần 20 tỷ đồng, kết thành từng dãy nối với nhau bằng những cây cầu gỗ.

Vừa nuôi cá thác lác cườm, ông còn đẩy mạnh kết hợp du lịch sinh thái. Lúc đầu thì có vài chục người, dần dần càng nhiều du khách đến câu cá, tham quan bè cá. Thế là, ông mở ra cơ sở chế biến món đặc sản cá thác lác rút xương, cá thác lác muối sả, hoàn toàn thủ công và không sử dụng các chất bảo quản với tiêu chí thực phẩm sạch. Mỗi ngày có hàng trăm kg cá thành phẩm được tiêu thụ.

Hàng ngày, ông xuất bán 300 – 500kg cá tươi cho các đại lý, thương lái ở khắp nơi. Mỗi năm, ông Bảy Bon cho xuất bè hàng chục loại cá đặc sản như cá hô, cá chạch lấu, tôm càng xanh… Nhẩm tính, chỉ riêng lợi nhuận từ cá thác lác cườm cũng đem lại vài tỷ đồng/năm. Ông còn kết hợp với nhiều bà con ở Cồn Sơn làm du lịch sinh thái, dưới sông thì có bè cá, trên cồn có cây trái, du khách đến đây tha hồ thưởng thức cây nhà lá vườn của vùng đất Nam bộ như mắm kho, ếch, gà ta, sầu riêng, chuối…

Ông Bảy Bon thành công với với nhiều giống cá đặc sản kết hợp làm du lịch sinh thái miệt vườn

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vaccine trong nuôi trồng thủy sản

Vaccine chống lại một số bệnh nhiễm khuẩn quan trọng đã được báo cáo trên toàn thế giới và sử dụng thành công trong điều kiện thí nghiệm hoặc thực tế áp dụng ở cấp độ thực địa.

Vaccine đang được nghiên cứu và sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản. 

Vaccin cho vi khuẩn

Cá bệnh do vi khuẩn

Vaccine hiện đang có mặt trên thị trường chống lại bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn bao gồm vibrioosis ( Listonella anguillarum, Vibrio ordalii ), furunculosis bệnh nhọt (Aeromonas salmonicida subsp. salmonicida), bệnh vibrioosis ở vùng nước lạnh (Vibrio salmonicida), bệnh yersiniosis (Yersinia ruckeri), nhiễm trùng tiết niệu (Rennibacterium salmonaris), bệnh tụ huyết trùng (Photo bacterium damselae subsp. Piscicida), bệnh xuất huyết ( Edwardsiella ictaluri), bệnh trắng đuôi (Flavobacterium columnarae ), bệnh do Moritella viscosis, Streptococcus iniae, Lactococcus garviae. (Sommerset et al., 2005).

Và các vaccin được báo cáo thành công trong điều kiện thí nghiệm như vaccine chống lại Vibrio harveyi and Photo bacterium damselae subsp, và Tenacibaculum maritimum ở Cá Hồi cũng được báo cáo (Håstein et al., 2005).

Hầu hết các loại vaccin vi khuẩn thường được bào chế dạng vaccine sống, giảm độc lực hoặc vaccine bất hoạt.

Vaccine chống lại virus

Cá hồi nhiễm bệnh IPN

Rất nhiều nghiên cứu cũng đã được tiến hành để xây dựng vaccine chống lại virus gây ảnh hưởng đến nhiều loài cá. Vài loại vaccine đã được cấp phép sử dụng cho mục đích thương mại ở Chilê, Canada, Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, đây là những vùng địa lý chính để nuôi cá các loài cá có giá trị cao như cá hồi, cá ngừ, cá seabass, cá tráp, cá cam và cá da trơn. Hầu hết các vaccine thương mại có sẵn đều dựa trên các kháng nguyên bất hoạt hoặc các protein tái tổ hợp.

Một loại vaccine chống lại virus gây hoại tử cơ quan tạo máu ở Cá Hồi (IPN) đang được sử dụng trong nhiều năm. Vaccine cho rhabdovirus, vaccine cho virus gây bệnh xuất huyết trên cá (VHSV) và bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHNV) cũng có sẵn thương mại. Gần đây các nhà nghiên cứu Italia đã nghiên cứu thành công vaccine chống lại Betanodavirus – tác nhân gây bệnh hoại tử thần kinh trên cá.

Vaccine chống ký sinh trùng

Cá bị nhiễm ký sinh trùng.

Bên cạnh các loại vaccine virus và vi khuẩn, sự phát triển của một loại vaccine chống ký sinh trùng là một lĩnh vực đang nổi lên vì ký sinh trùng gây ra khoảng 20% ​​vấn đề bệnh tật trong nuôi trồng thủy sản.

Xét mối tương tác giữa ký chủ và ký sinh trùng (ký sinh trùng endo- hoặc ecto), thách thức lớn nhất đối với vaccine là xác định giai đoạn ký sinh trùng chịu tác động của vaccine.

Vaccine được tạo ra bởi ký sinh trùng Amyloodinium ocellatum khi tiêm vào vùng bụng được báo cáo là gây ra phản ứng kháng thể đặc hiệu đối với ký sinh trùng. Nó cũng làm giảm sự lây nhiễm ký sinh trùng trong ống nghiệm. Một vaccine sống giảm độc lực của ký sinh trùng Cryptobia salmositica (ký sinh trùng gây bệnh của salmonids) cho thấy phản ứng miễn dịch bảo vệ lên đến hai năm.

Những nghiên cứu trên đây chứng minh rằng Vaccine ngày càng được nghiên cứu và sử dụng phổ biến trên động vật thủy sản. Và chúng đóng góp rất lớn trong ngăn ngừa, phòng trị bệnh cho nhiều loài thủy sản.

Nguồn: Aquaculturemag được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Rau sam và dâu tằm: thảo mộc kích thích sự lột xác của tôm

Rau sam và dâu tằm có tác dụng kích thích tôm lột xác bằng hoạt chất Phytoecdysteroid tự nhiên. Qua đó mở ra một hướng đi mới nhằm nâng cao năng suất cho nuôi tôm nhờ kích thích quá trình lột xác.

Vấn đề nan giải của nghề nuôi tôm gặp phải là sự chậm lại của quá trình lột xác của tôm.

Hormon Ecdysteroid đã được báo cáo là có tác dụng để kích thích việc lột xác của tôm sú. Nghiên cứu này nhằm mục đích sử dụng chiết xuất một hormone Ecdysteroid từ các loài thảo mộc như vạn tuế (Cycas revoluta), rau sam (Portulaca oleracea) và dâu tằm (Morus sp.).

Sau đó đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với thời kỳ lột xác, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm sú (Peunaeus monodon).

Việc chiết xuất Ecdysteroid từ lá của ba loài thảo mộc trên được thực hiện bằng phương pháp giã nhuyễn. Sau đó chiết xuất Ecdysteroid bằng thiết bị sử dụng sắc ký (TLC).

Dâu tằm (Morus sp.)

Thí nghiệm

Đánh giá hiệu quả của hormone tạo Phytoecdysteroid trong thời kỳ lột xác, tăng trưởng và tỉ lệ sống của tôm được thực hiện bằng cách tiêm 100 μL phytoecdyasterod (27,5 μg/tôm) ở đốt bụng thứ nhất. So sánh với ecdysteroid thương mại (kiểm soát dương tính) và dung dịch muối vô trùng (kiểm soát âm tính) cũng được tiêm ở liều 8,6 μg/tôm và 0 μg/tôm tương ứng.

Rau sam (Portulaca oleracea)

Kết quả

Kết quả cho thấy tỷ lệ lột xác cao nhất của Phytoecdysteroid thu được ở cây rau sam (Portulaca oleracea), tiếp theo là dâu tằm (Morus sp.) và vân tuế (Cycas revoluta) với hàm lượng ecdysteroid lần lượt là 0,43%, 0,22% và 0,09%.

Triacodoids được phân lập từ 3 cây này có thể rút ngắn thời gian lột vỏ tôm thành 4, 4, 2, và 5 ngày trước đó đối với thảo mộc Portulaca oleracea, Morus sp., Cycas revoluta và kiểm soát dương tính, so với kiểm soát âm tính.

Tỷ lệ sống và tăng trưởng cao nhất đạt được khi điều trị bằng rau sam (Portulaca oleracea), tiếp theo là dâu tằm (Morus sp.) và vạn tuế (Cycas revoluta) với tỷ lệ sống là 86%, 75% và 25%, tăng chiều dài là 4,42%, 2,26% và 2,16%, tăng trọng lần lượt là 15,90%, 10,55% và 8,73%.

Kết luận

Các kết quả phân tích trên của các nhà khoa học cho thấy hai loài thảo mộc rau sam và dâu tằm có tác dụng kích thích tôm lột xác bằng hoạt chất Phytoecdysteroid tự nhiên. Việc kích thích lột vỏ bằng thảo mộc cũng chứng minh rằng nó góp phần rút ngắn thời gian lột vỏ, tăng tỉ lệ sống và tăng trọng cho tôm.

Nguồn: Indonesian Aquaculture journal được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đánh giá sức khỏe tôm tại ao

Việc làm này giúp người nuôi phát hiện sớm nguy cơ dịch bệnh từ đó có biện pháp điều trị kịp thời.

Quan sát dấu hiệu bất thường

Thông thường, người nuôi nên kiểm tra toàn bộ hoạt động của tôm trong ao 2 lần/ngày vào buổi sáng và chiều, quan sát một số dấu hiệu như: tôm thiếu ôxy, thức ăn dư thừa, màu sắc nước ao. Các dấu hiệu quan sát được là thông tin quan trọng đánh giá về hiện trạng sức khỏe tôm cũng như môi trường ao nuôi.

Tôm chết: trong mọi trường hợp, tôm chết cho thấy tình trạng ao nuôi đang xấu, sức khỏe tôm rất yếu.

Tôm bơi trên mặt nước: tôm có thể bị sốc do hàm lượng ôxy hòa tan thấp hoặc nhiệt độ cao hay bệnh.

Tôm hoạt động gần bờ: có thể do thiếu thức ăn.

Màu nước: thay đổi đột ngột hoặc đậm màu.

Mùi: Mùi phổ biến thường gặp là mùi tanh và mùi tảo. Mùi tanh là mùi đặc trưng của nhớt do tôm lột xác đồng loạt hoặc mùi thức ăn khi cho tôm ăn lượng lớn. Tảo nở hoa sẽ gây ra mùi, tảo lục thường là mùi bùn, tảo lam là mùi của thuốc kháng sinh. Ngoài ra, chất hữu cơ phân hủy trong tình trạng yếm khí cũng sinh ra mùi hôi thối.

Có cá bống bơi hỗn loạn hoặc tập trung gần bờ: Dấu hiệu cho thấy ôxy hòa tan thấp, có kèm khí độc cao, thường thấy ở những ao nhiều ngày tuổi. Đối với những ao này nên thu càng sớm càng tốt, để lâu theo phản ứng bình thường tôm sẽ lột xác nhưng không cứng vỏ và chết.

Ở một vài ao khi xuất hiện cua còng bò lên bờ, phản ứng chậm chứng tỏ nước ao nuôi bị ô nhiễm, khí độc cao và lượng ôxy hòa tan thấp… chỉ một tuần sau tôm sẽ rớt đáy. Một dấu hiệu nhận biết khác là ốc bò ra khỏi mặt nước thì lúc đó ao nhiều khí độc, đáy ao yếm khí…

Bọt khí nổi: Do hàm lượng hữu cơ trong nước ao cao.

Quan sát tôm ở sàng ăn

Hàng ngày kiểm tra tôm trong sàng ăn. Tôm khỏe là tôm có màu sắc bóng đẹp, phụ bộ đầy đủ không bị tổn thương, tôm búng mạnh, bơi nhanh, đường ruột đầy thức ăn và liên tục, tuyến gan tụy có màu nâu sáng, kích thước bình thường. Phân tôm mạnh khỏe sẽ có màu của thức ăn. Phân tôm có màu khác hoặc nhớt là dấu hiệu bất ổn. Khi thấy phân tôm của một vài con có màu đỏ, thường là trong ao đã có tôm chết.

Chài tôm kiểm tra sức khỏe

Tôm bị bệnh có biểu hiện: mềm vỏ, trống ruột. Ngã nghiêng (nằm nghiêng) nhanh chóng sau khi chài lên. Đục cơ trước 10 phút (khi chài lên) và thường xuyên xuất hiện đục cơ tại ao.

Sau khi chài tôm lên, cho vào một thau chứa lượng nước vừa đủ để tiện quan sát. Khi đã ổn định, tiến hành quan sát toàn thể mẫu tôm. Ba chỉ tiêu quan trọng nhất cần quan sát lúc này là độ đồng đều, tình trạng ruột và màu sắc gan tụy. Đây là những chỉ tiêu dễ quan sát và phản ánh trực tiếp hiện trạng sức khỏe tôm nuôi.

Kích cỡ tôm

Đánh giá độ đồng đều, mức độ phát triển của đàn tôm theo ngày tuổi từ đó đưa ra nhận định ban đầu về tình trạng sức khỏe của tôm. Nếu tôm quá nhỏ so với bình thường có thể đưa ra các giả định tôm bị nhiễm các bệnh gây chậm lớn. Nếu tôm lệch cỡ nhiều, có thể đưa ra giả thuyết tôm thiếu dinh dưỡng (thiếu khoáng hoặc thiếu thức ăn) hoặc nhiễm các bệnh gây lệch cỡ.

Kiểm tra gan: Tôm bình thường gan có màu nâu vàng hoặc vàng cam. Khi bóp gan ra, có dịch màu nâu vàng sệt, không chảy. Có mùi tanh đặc trưng.

Kiểm tra ruột

Quan sát và đánh giá khi tôm còn sống

Điểm trung bình < 1,6: tôm bị thiếu ăn hoặc bệnh

Nếu đã cho ăn > 80% tổng lượng thức ăn khuyến cáo và ít nhất 3 lần/ngày mà ruột < 1,6 là tôm bệnh.

Một số thay đổi bên ngoài

Vỏ: Tôm khỏe có vỏ bóng, khá dày chắc trong khi tôm bệnh vỏ thường lồi lõm. Vỏ tôm mỏng hoặc do lột xác không cứng vỏ thường cho thấy môi trường nước xấu và tôm sốc rất nặng. Nếu trong chài có số lượng tôm mỏng vỏ nhiều hơn 5% thì cần có biện pháp để khắc phục.

Hình dạng bất thường: tình trạng dị hình (do một số bệnh thường gặp như ASDD hoặc IHHNV), gãy gai chủy, đứt râu, mòn cụt chân bơi, chân bò (do đáy ao bị ô nhiễm); vỏ có các chấm đốm đen, đốm nâu, đốm trắng (nhiễm khuẩn hoặc hội chứng Taura)

Cong thân: có thể bị tác động bởi các yếu tố như sốc do nhiệt độ cao, nhiễm khuẩn Vibrio, mất cân bằng khoáng chất, độc tố trong môi trường ao nuôi. Tỷ lệ tôm bị cong thân có thể chấp nhận được trong ao tôm là < 5%

Đốm đen: Những đốm đen trên vỏ có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, như nhóm vi khuẩn Vibrio, Taura syndrome virus (TSV), những tổn thương vật lý (Lightner, 1996). Những đốm đen do vi khuẩn Vibrio gây ra với nguyên nhân khởi phát là chất lượng nước xấu, thường không gây chết tôm nếu như nó không làm tổn thương vỏ quá sâu vào bên trong phần cơ thịt tôm. Trong ao tôm, tỷ lệ vỏ tôm có đốm đen có thể chấp nhận được ở mức 5 – 10% trong chu kỳ nuôi, nhưng cần nhỏ hơn 2% vào giai đoạn thu hoạch tôm.

Mang: bình thường mang có màu trong suốt. Mang đổi màu sang vàng, nâu hay đen thường do đáy ao bị ô nhiễm, chất hữu cơ trong nước nhiều. Ngoài ra, các vùng trắng như tuyết trên mang có thể là mang bị hoại tử do bão hòa khí trong nước.

Phụ bộ: sưng phồng hay gãy phụ bộ thường do nhiễm khuẩn từ những vùng đáy ao bị ô nhiễm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Sự tích lũy manganese trong hệ thống nuôi tôm Biofloc

Nghiên cứu này nhằm chứng minh sự tích lũy chất độc hại là manganese (Mn) và ảnh hưởng của nó đến tôm nuôi trong hệ thống Biofloc.

Trong hệ thống nuôi tôm tuần hoàn sẽ có sự mất mát các chất dinh dưỡng và tích lũy các chất độc hại. 

Nuôi tôm theo công nghệ Biofloc ngày càng phổ biến ở nước ta do nhiều ưu điểm như tiết kiệm nước, tỉ lệ sống cao, năng suất cao gấp nhiều lần nuôi bình thường, chất lượng thủy sản nuôi được đảm bảo và không gây ô nhiễm môi trường.

Nhưng do sự trao đổi nước thấp của những hệ thống này dẫn đến việc thiếu hụt yếu tố dinh dưỡng hoặc tích lũy các chất độc hại.

Sự tích tụ Mn (SBR) là nguyên nhân làm chậm quá trình phát triển của tôm nuôi. Do nước nuôi tôm có hàm lượng Mn cao chứa trong các hạt biofloc, các hạt biofloc này là thức ăn bổ sung cho tôm nuôi. Về cơ bản SBR có nhiều trong nước thải từ hệ thống nuôi tôm. Vật liệu flocs còn sót lại từ các lần xử lý nước trước còn gọi là “nước bẩn” . Các floc này trộn lẫn với các hạt floc mới và nó được dùng làm thức ăn bổ sung vào thức ăn cho tôm.

Thí nghiệm đánh giá tác động của Mn với tôm nuôi

Hai thử nghiệm được tiến hành như sau:

(i) Thử nghiệm thức ăn đầu tiên là một thí nghiệm kéo dài 6 tuần để xác định độc tính của mangan đối với tôm (Litopenaeus vannamei) trong khẩu phần không có bioflocs.

(ii) Thử nghiệm cho ăn thứ hai (5 tuần) là được thực hiện với các biofloc nói trên với hàm lượng mangan cao.

SBR được sử dụng đối với tôm nuôi trong giai đoạn khoảng 30 ngày tuối, ở giai đoạn này chất lượng nước nuôi tương đối tốt.
Nước sử dụng sau khi tách các hạt floc được sử dụng ngược lại vào hệ thống RAS và các hạt floc được sử dụng bổ sung cùng với thức ăn viên cho thấy tăng trưởng của tôm nhanh hơn so với chỉ đơn thuần dùng thức ăn viên.

Tuy nhiên, đến giai đoạn nuôi khoảng 60 ngày khi này chất lượng nước trở nên xấu hơn, do đó khi bổ sung các hạt floc vào thức ăn làm giảm tăng trưởng của tôm khoảng 30% so với việc không bổ sung.

Giai đoạn nuôi từ 60 ngày trở đi cho thấy hàm lượng Mn tích lũy dao động trong khoảng 0.9 – 1.1%, tương đương hàm lượng Mn có thể có trong thức ăn tôm khoảng 0.1 – 0.3% tùy thuộc vào lượng biofloc tạo thành.

Kết luận.

Mn đóng cai trò quan trọng trong nuôi tôm, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng Mn trong thức ăn tôm càng cao thì tôm càng chậm lớn, và hàm lượng này không được vượt quá 0.02%.

Sự tích lũy Mn trong nước nuôi tôm theo hệ thống Biofloc làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tôm nuôi. Do đó cần cân nhắc cẩn thận đối với các cấp độ tiềm tàng của các nguyên tố vi lượng trong biofloc.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cà Mau: Có 63/65 mẫu tôm giống nhiễm virut bệnh còi

Chi cục Thủy sản tỉnh Cà Mau, cho biết: trong số 65 mẫu tôm giống thu tại một số cơ sở sản xuất tôm giống trên địa bàn các huyện Năm Căn, Ngọc Hiển và Trần Văn Thời để tiến hành xét nghiệm đối với 3 chỉ tiêu gồm: Đốm trắng, đầu vàng và bệnh còi. Kết quả cho thấy, không phát hiện vi rút gây bệnh đốm trắng, đầu vàng. Tuy nhiên, có đến 63 mẫu tôm giống phát hiện nhiễm virut bệnh còi.

Người nuôi tôm nên chọn mua tôm giống ở những nơi có uy tín trên thị trường.
Trước thực trạng trên, Chi cục Thủy sản tỉnh Cà Mau khuyến cáo các cơ sở sản xuất tôm giống tích cực nâng cao các biện pháp kỹ thuật, nhằm cải thiện chất lượng tôm giống, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ nhiễm bệnh, đặc biệt là bệnh còi, để phục vụ cho người nuôi đạt hiệu quả.

Đối với người nuôi tôm nên chọn mua tôm giống từ những cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tôm giống có uy tín trên thị trường, có nhãn mác, địa chỉ rõ ràng hoặc chọn mua tôm giống từ các cơ sở sản xuất có kết quả xét nghiệm mẫu tôm giống không phát hiện virut gây các bệnh đốm trắng, đầu vàng và bệnh còi được cập nhật hàng tuần trên Trang Thông tin điện tử Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau.

Đối với các hộ nuôi tôm sú quảng canh cải tiến, thâm canh, bán thâm canh, khi mua giống cần lựa chọn những bể tôm giống không nhiễm virut gây bệnh đốm trắng, đầu vàng và bệnh còi. Ngoài ra, cần xét nghiệm thêm chỉ tiêu bệnh hoại tử gan tụy cấp trước khi thả nuôi.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kinh nghiệm đo độ kiềm (KH) trong ao nuôi tôm cá

Trong nuôi tôm, độ kiềm là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất tôm nuôi. Kiểm tra độ kiềm hàng tuần là cần thiết trong quản lý ao nuôi tôm. Bài viết cung cấp kinh nghiệm đo độ kiềm trong ao nuôi tôm cá.

Kinh nghiệm đo độ kiềm (KH) trong ao nuôi tôm cá

Độ kiềm trong nước là gì?

Độ kiềm là thước đo khả năng trung hòa acid của nước. Trong nuôi trồng thủy sản độ kiềm chỉ hàm lượng các ion HCO3-, CO32-, OH- trong nước, đơn vị là mg CaCO3/L .

Tầm quan trọng độ kiềm trong nước

Độ kiềm trong nước ít có tác động trực tiếp đến đời sống của các loài thủy sản nhưng lại tác động lên các yếu tố có liên quan như sự phát triển của thủy thực vật (tảo), ảnh hưởng tới pH, ảnh hưởng đến mức độ độc hại của khí độc và kim loại nặng trong nước. Năng suất sơ cấp (tảo) của ao nuôi tỉ lệ thuận với độ kiềm, vì vậy ao nuôi có độ kiềm cao dễ gây tảo hơn.

Nhiều người nuôi tôm mặc định là khi trời mưa phải bón vôi nhưng chưa thật sự hiểu được ý nghĩa thật sự của nó. Nước mưa mang theo lượng lớn acid chúng làm trung hòa lượng bicarbonate làm độ kiềm giảm kéo theo pH giảm đột ngột. Kiềm và pH giảm cùng lúc ảnh hưởng xấu đến tôm nếu không có biện pháp ngăn ngừa kịp thời tôm nuôi sẽ gặp sự cố ngay.

Lưu ý khi đo độ kiềm

Vì độ kiềm đặc biệt quan trọng trong nuôi tôm do đó người nuôi tôm thường phải đo độ kiềm ít nhất 1 lần trong ngày. Để đo độ kiềm người ta thường sử dụng 3 cách:

– Phương pháp chuẩn độ: Dùng khi cần độ chính xác cao và trong phòng thí nghiệm.

– Sử dụng máy đo: Máy đo hiện tại vẫn chưa tiện dụng nên vẫn cần những thao tác phức tạp và chi phí khá cao.

– Sử dụng bộ test kít: Đây là phương pháp được nhiều sự lựa chọn bởi thao tác thực hiện đơn giản, giá rẻ có thể áp dụng nhanh trong nuôi trồng thủy sản hiện nay.

Một số lưu ý giúp bạn đo độ kiềm ao nuôi chính xác hơn:

– Lựa chọn loại Test kít uy tín dựa trên độ chính xác và độ đơn giản thao tác: Bộ Test kH được sử dụng nhiều hiện nay là bộ test kH của Sera (Đức) với ưu điểm kiểm tra nhanh, thao tác dễ dàng và độ tin cậy cao (Bạn có thể tham khảo tại đây).

– Đọc kỹ hướng dẫn thao tác kèm theo bộ Test và thao tác đúng quy trình đó để có kết quả tốt nhất.

– Luôn bảo quản thuốc thử nơi khô ráo thoáng mát và theo yêu cầu bảo quản của nhà sản xuất. Nghi ngờ thuốc thử hỏng phải dùng mẫu mới kiểm tra đối chiếu.

– Khui nắp: Nếu nắp đậy lọ thuốc thử có đầu kim thì dùng đầu kim này để chích vào nắp nhỏ giọt. Nếu không thì dùng dao cắt lỗ nhỏ sao cho thuốc thử không tự chảy ra khi úp ngược lọ mẫu.

– Ống nghiệm luôn phải được vệ sinh bằng nước sạch trước và sau khi sử dụng.

– Lắc kỹ thuốc thử trước khi kiểm tra.

– Tuân thủ nguyên tắc lấy mẫu như: mẫu mang tính đại diện vị trí lấy mẫu phải lấy ở tầng giữa cách mặt nước 50cm, dụng cụ thu mẫu, bảo quản và vẫn chuyển mẫu phải đảm bảo sạch.

– Không thu mẫu ngay sau khi xử lý hóa chất xuống ao.

– Mẫu nước đưa lên phải được đo ngay khi có thể hoặc mẫu phải được chuyển ngay đến phòng thí nghiệm. Việc đo các thông số của mẫu nước sẽ ít sai số hơn khi thực hiện đo nhanh trong vòng 30 phút kể từ khi lấy mẫu nước.

Độ kiềm phù hợp trong ao nuôi trồng thủy sản 75mg/l – 200mg/l với tôm thẻ chân trắng độ kiềm thích hợp là 120 – 150 mg CaCO3/l, với tôm sú độ kiềm thích hợp là 80 – 120 mg CaCO3/L.

Độ kiềm trong ao nuôi tôm thấp thường do: độ mặn thấp, ao bị phèn, thực vật phù du (tảo) phát triển mạnh, 2 mảnh vỏ ốc quá nhiều. Để tăng kiềm tốt nhất kết hợp loại bỏ các tác nhân này kết hợp bón vôi CaCO3 hoặc sử dụng Sodium bicarbonate (soda), liều soda 1,68mg/l để phục hồi 1mg/L kiềm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cảnh báo những hệ lụy từ “đạm giả” trong thức ăn chăn nuôi

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có văn bản về việc phát hiện một số doanh nghiệp sử dụng hóa chất trong sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, qua thanh tra đột xuất một số công ty sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi, Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phát hiện một số doanh nghiệp nhập khẩu, kinh doanh chất Cyanuric acide, Dicyandiamide và Ammelide trong “Bột dinh dưỡng cao đạm” để đưa bổ sung vào nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cho cá da trơn, gia súc, gia cầm nhằm nâng cao độ đạm.

Tuy nhiên, việc nâng cao độ đạm này không có tác dụng về mặt dinh dưỡng (đạm giả), mặt khác gây tồn dư trên động vật và gây các bệnh về thận cho động vật và con người khi dùng sản phẩm có chất này.

Kiểm tra một cửa hàng kinh doanh thức ăn chăn nuôi

WHO cho biết, 3 hoạt chất axit Cyanuric, Ammelide và Melamine có thành phần cấu trúc khá giống nhau và có thể có tác động như nhau. Nhưng các nghiên cứu về việc các chất trên và hàm lượng của nó là bao nhiêu, có thể gây nguy hiểm cho con người hay không thì chưa có nghiên cứu hay bằng chứng khoa học nào chỉ rõ.

Trước đó, khi phát hiện các chất này, Thanh tra Bộ NN-PTNT đã khẳng định, việc bổ sung các chất trên sẽ gây tồn dư đạm trên động vật, gây ra các bệnh về thận cho động vật và con người.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng yêu cầu Cục Chăn nuôi phối hợp với Tổng cục Thủy sản rà soát, chấn chỉnh công tác quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi đảm bảo không sử dụng các chất trên, thẩm định và chỉ định Phòng kiểm nghiệm đối với chất Cyanuric acide, Dicyandiamide và Ammelide phục vụ cho việc phát hiện, xử lý vi phạm. Nghiên cứu đề xuất việc đưa các chất trên vào danh mực chất cấm sản xuất, kinh doanh trong thức ăn chăn nuôi nếu đủ cơ sở khoa học và thực tiễn phục vụ công tác quản lý Nhà nước về thức ăn chăn nuôi.

Đồng thời, các đơn vị tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về tác hại của việc sử dụng chất Cyanuric acid, Dicyandiamide và Ammelide; nâng cao cảnh giác và nói không với việc sử dụng hóa chất công nghiệp trong chăn nuôi, bảo vệ người chăn nuôi, sức khỏe người dân và chống hành vi nhập lậu, gian lận thương mại.

Nguồn: Vietnamplus được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tôm càng xanh: Đổ xô nuôi sẽ được mùa mất giá

Chỉ trong 1 năm, diện tích nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa của huyện Thới Bình (Cà Mau) đã tăng lên 4.000ha so với năm 2016, đưa tổng diện tích nuôi tôm càng xanh của huyện này lên gần 12.000ha. Đây được xem là năm có diện tích nuôi tăng đột biến, khiến mối lo ngại về điệp khúc được mùa – mất giá lại tái diễn.

Lãi cao, người dân đổ xô nuôi tôm càng xanh làm diện tích tăng vọt.

Mô hình bền vững, thu lãi cao

Theo đánh giá của ngành chuyên môn, việc nuôi xen canh tôm càng xanh trên ruộng lúa được xem là mô hình kinh tế hiệu quả, ổn định và bền vững, chưa kể đây cũng là một mô hình nuôi trồng thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay.

Tại tỉnh Cà Mau những năm qua, mô hình nuôi xen canh tôm càng xanh trên ruộng lúa ở huyện Thới Bình đã khẳng định tính hiệu quả từ năng suất, chất lượng cho đến giá trị của con tôm. Với nhiều tính ưu việt đó, mô hình đã phát triển thêm diện tích ở một số huyện khác như: U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước.

Theo Phòng NNPTNT huyện Thới Bình, mô hình đã thích ứng rất tốt với điều kiện tự nhiên, rủi ro dịch bệnh thấp, hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, tạo ra sản phẩm sạch và tăng thu nhập trên cùng một diện tích cho bà con trồng lúa. Những năm qua, năng suất bình quân con tôm luôn đạt từ 150-220 kg/ha.

Theo nhiều nông dân áp dụng mô hình, sau khi trừ hết chi phí, bà con thu lãi từ 20-30 triệu đồng/ha, thậm chí có hộ đạt gần 50 triệu đồng/ha/vụ tiền lãi với loại tôm càng xanh toàn đực.

Lo ngại vấn đề đầu ra

Với hiệu quả kinh tế cao, người dân tại các huyện U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước bắt đầu phát triển ồ ạt diện tích nuôi tôm càng xanh. Tuy nhiên, điều đáng lo hiện nay là đầu ra ổn định cho con tôm vẫn chưa có lời giải.

Theo khảo sát của phóng viên, dù chưa bước vào vụ thu hoạch đồng loạt nhưng giá tôm càng xanh hiện chỉ từ 100.000-110.000 đồng/kg. Với mức giá này, người nông dân vẫn có lợi nhuận, tuy nhiên nhiều người lo ngại khi bước vào chính vụ thu hoạch, giá sẽ giảm mạnh.

Chia sẻ với chúng tôi, ông Trần Văn Lê (xã Tân Bằng, huyện Thới Bình), cho biết: Gia đình tôi thực hiện mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa từ cách đây khoảng 6 năm. Bình quân mỗi năm với 1ha diện tích, gia đình có thu nhập tăng thêm từ con tôm càng khoảng 20 triệu đồng.

Cũng theo ông Lê, trong vụ tôm – lúa năm nay, người dân địa phương mở rộng diện tích nuôi và thả nuôi mới tôm càng xanh nhiều hơn mọi năm. Điều này khiến nhiều người lo ngại thương lái sẽ ép giá khi vào vụ thu hoạch đồng loạt. Bởi như vụ tôm năm 2016, khi người dân bước vào vụ thu hoạch rộ, giá tôm bất ngờ sụt giảm từ 20.000-50.000 đồng/kg so với năm trước.

Ông Kiều Văn Chiến – Chi Hội trưởng Chi hội Thuỷ sản ấp Lê Hoàng Thá (xã Tân Bằng), cho biết: Từ trước đến nay, nông dân nơi đây luôn mua bán trực tiếp với thương lái, ai mua giá cao thì nông dân bán, chứ chưa thông qua một hình thức bao tiêu đầu ra hay thông qua một tổ hợp tác nào cả. Chính vì vậy, giá cả đều do thương lái quyết định. Bên cạnh đó, nhiều hộ nuôi đã chọn giải pháp mang tôm trực tiếp ra các chợ bán lẻ để có giá thành cao hơn.

Từ thực tế trên, UBND huyện Thới Bình khuyến cáo người dân, giải pháp tạm thời hiện nay là không thu hoạch ồ ạt cùng cao điểm mà thu hoạch lúa trước, tôm thu hoạch sau, tốt nhất là qua cao điểm dịp Tết Nguyên đán nhằm để tôm lớn hơn và bán được giá hơn. Điều này vừa giải quyết tình trạng sản lượng tôm tăng ồ ạt gây mất giá, vừa tăng lợi nhuận cho bà con.

Về lâu dài, huyện sẽ liên kết với trường Đại học Cần Thơ tìm đầu ra cho tôm càng xanh. Đồng thời, địa phương sẽ gặp gỡ, trao đổi với các doanh nghiệp, hợp tác xã có điều kiện để làm đầu mối trung gian thu gom tôm của bà con.

Được biết, trong vụ thả nuôi năm nay, địa phương cùng với Trường Đại học Cần Thơ phối hợp tổ chức thực hiện thí điểm mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa với hình thức cho ăn dặm. Với quy mô 12ha cho 12 hộ dân ở ấp 3 và ấp 9 xã Thới Bình, mỗi hộ tham gia được Trường Đại học Cần Thơ hỗ trợ 100% con giống, 50% chi phí cải tạo ao đầm và thức ăn cho tôm.

Bên cạnh đó, huyện Thới Bình còn được hỗ trợ từ dự án “Tôm càng xanh toàn đực trên ruộng lúa” với quy mô 270ha trải đều ở các xã và thị trấn từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới vào đầu năm 2017.

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Văn bản hóa quy trình nuôi tôm siêu thâm canh chuẩn

Sau khi kết thúc chuyến kiểm tra thực tế các hộ nuôi tôm siêu thâm canh tại xã Tân Hưng, huyện Cái Nước vào ngày 13/12, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử chỉ đạo ngành nông nghiệp trong tuần này phải hoàn thành văn bản chi tiết về quy trình nuôi tôm siêu thâm canh.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử (bìa trái) trao đổi cùng hộ ông Trần Văn Cương, ấp Tân Thuận, xã Tân Hưng về quy định của nuôi tôm siêu thâm canh.

Đến thời điểm này, huyện Cái Nước có hơn 23 ha nuôi tôm siêu thâm canh với 109 hộ dân tham gia. Trong đó tập trung nhiều nhất ở xã Tân Hưng Đông 20 hộ và Tân Hưng 19 hộ nuôi.

Qua kiểm tra, rà soát về quy trình nuôi, chỉ có 50 hộ nuôi đạt tiêu chuẩn quy định, còn lại 59 hộ nuôi không có ao lắng, ao xả thải và hệ thống dây dẫn điện không an toàn.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử trao đổi, hướng dẫn hộ ông Lê Văn Đạt, ấp Tân Hòa về thiết kế ao lắng, lọc tuần hoàn nước cho mô hình này, tránh xả thải trực tiếp ra môi trường bên ngoài.

Trước đó, thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh về rà soát, thẩm định quy trình nuôi tôm siêu thâm canh, UBND huyện đã tổ chức kiểm tra, nhắc nhở, ghi biên bản đề nghị hộ nuôi khắc phục hệ thống lưới điện và phải có ao xử lý nguồn nước thải, không xả thải trực tiếp ra kinh rạch.

Qua báo cáo của địa phương và kiểm tra thực tế 3 hộ nuôi tại xã Tân Hưng, đoàn nhận thấy, tại các hộ này đã hứa khắc phục nhưng thực tế vẫn không làm. Hệ thống lưới điện được kéo tạm bợ, thả dưới đất rất nguy hiểm. Ao xả thải không thiết kế ngăn lắng, lọc và tuần hoàn nước, vẫn còn xả thẳng ra môi trường bên ngoài.

Qua kiểm tra, trao đổi với người dân, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử cho rằng người dân chưa nắm được, chưa hiểu được nội dung cũng như ý nghĩa của các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của tỉnh về nuôi tôm siêu thâm canh. Các đoàn thẩm định trước đây vẫn chưa chi tiết được, chưa thể hiện được hết ý nghĩa và hướng dẫn cụ thể cho người dân. Còn huyện nói có tập huấn quy trình nuôi cho người dân nhưng kiểm tra thực tế người dân vẫn chưa được tập huấn…

Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử đề nghị Văn phòng UBND tỉnh tham mưu văn bản đánh giá sau chuyến khảo sát này; giao Sở NN&PTNT khẩn trương triển khai tổ kiểm tra môi trường nuôi trồng thủy sản và thẩm định quy trình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh. Qua đó cũng kiểm tra ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh đã được triển khai cụ thể đến từng hộ dân hay chưa. Phải hướng dẫn dân chi tiết về thiết kế ao nuôi, quy hoạch và xử lý môi trường vụ nuôi. Phải thể hiện thời gian khắc phục, thời gian kiểm tra lại và phải đảm bảo mọi người dân tham gia nuôi phải biết quy định này.

Về phía huyện phải hoàn thành văn bản chi tiết nội dung của biên bản về thẩm định quy trình nuôi tôm siêu thâm canh trong tuần này, tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp trong tuyên truyền cho người dân nuôi tôm. Làm thế nào cho mọi người đang nuôi tôm cũng như chuẩn bị nuôi nắm được quy định trên, có như vậy mới ngăn chặn được tình trạng gây ô nhiễm môi trường như hiện nay.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.