Nuôi tôm ứng phó với biển đổi khí hậu: Nhiều mô hình quảng canh hiệu quả

Ba huyện ven biển Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú chịu ảnh hưởng biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng. Nhiều nông dân chuyển đổi từ nuôi tôm biển thâm canh sang quảng canh hoặc quảng canh cải tiến. Đặc biệt, có một số nông dân đã áp dụng công nghệ cao chuyển sang nuôi tôm biển thâm canh 2 giai đoạn. Cùng với việc trúng mùa, giá tôm nguyên liệu thời gian qua luôn duy trì ở mức cao, người nuôi có lãi.

Nhờ mô hình nuôi tôm thâm canh 2 giai đoạn áp dụng công nghệ cao nên lần đầu tiên tại Thạnh Phú tôm biển đạt năng suất đến hơn 90 tấn/héc-ta/vụ.
Giá cao, Người nuôi có lãi

Từ đầu năm 2017 đến nay, ao nuôi tôm sú quảng canh rộng 3,5ha của ông Nguyễn Văn Yêm ở xã Giao Thạnh, huyện Thạnh Phú đã mang về lợi nhuận hơn 200 triệu đồng. Đây là năm thứ 5 liên tiếp ao tôm đã mang về lợi nhuận như thế. Theo ông Yêm, nuôi tôm sú quảng canh rất… nhàn nhã, vì ban ngày chăm sóc tôm, chiều tối chèo xuồng đi đặt lú. “Nhiều người khuyên tôi nên chuyển qua nuôi tôm thâm canh cho mau giàu. Nhưng tôi nghĩ nuôi tôm thâm canh mà không đủ tiền đầu tư tới nơi tới chốn sẽ dễ bán đất. Sống ở đây hơn 50 năm, tôi đâu còn lạ gì khí hậu thất thường, lắm rủi ro ở xứ biển mình”, ông Yêm chia sẻ.

Không xổ cống vào 2 con nước rằm và 30 như nhiều người nuôi tôm biển quảng canh ở đây, ông Yêm chọn cách đóng chặt cống và đặt lú đều đặn mỗi ngày để thu hoạch tôm sú. Ông Yêm nói: “Mình chủ động chọn độ to nhỏ của lưới để phù hợp với con tôm thiên nhiên hay con tôm sú ở những kích cỡ khác nhau. Làm như vậy sẽ giữ được nguồn nước an toàn cho tôm, vì xung quanh cũng còn không ít người nuôi tôm thâm canh xả nước mang mầm bệnh ra sông. Ngoài ra, con tôm thu hoạch bằng lú sẽ còn sống, bán được cho các quán ăn, nhà hàng với giá đôi khi cao gấp đôi con tôm sú ướp đá”.

Trong khi đó, những nông dân có diện tích đất dưới 1ha tại vùng biển thường áp dụng mô hình nuôi tôm thẻ quảng canh cải tiến. Bởi, chi phí đầu tư ít hơn so với nuôi thâm canh, khi thành công thì lợi nhuận cao hơn. Đầu năm 2017, anh Võ Văn Thật ở xã An Điền, huyện Thạnh Phú đầu tư hơn 100 triệu đồng để cải tạo 5 vuông nuôi tôm quảng canh thành quảng canh cải tiến. Anh Thật thả với mật độ hơn 200

con/m2. Hai vụ thu hoạch mang về lợi nhuận gần 1 tỷ đồng. “Nuôi tôm quảng canh cải tiến không phải đầu tư nhiều vốn, diện tích đất ít cũng làm được, chỉ cần chịu khó chạy quạt và thu gom thức ăn như cá phân, ốc… có tại địa phương, cùng với ít thức ăn công nghiệp là nuôi được” – anh Thật chia sẻ.

Cùng với việc trúng mùa, năm nay giá tôm biển luôn duy trì ở mức cao. Tôm sú ướp đá cỡ 30 con/kg ở mức hơn 230 ngàn đồng/kg; 40 con/kg hơn 180 ngàn đồng/kg. Riêng tôm sú còn sống loại 30, 40 con/kg giá thường cao gấp rưỡi hoặc gấp đôi so với tôm ướp đá; tôm cỡ 50 – 60 con/kg giá luôn trên 125 ngàn đồng/kg, loại 100 con/kg giá trên 100 ngàn đồng/kg. Người nuôi có lãi cao.

Nuôi tôm “sạch”

Thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Phú, toàn huyện hiện có trên 18 ngàn héc-ta nuôi tôm biển, trong đó khoảng 1,5 ngàn héc-ta nuôi tôm biển thâm canh và hơn 1,5 ngàn héc-ta nuôi tôm càng xanh xen trong ruộng lúa. Mô hình nuôi tôm quảng canh thích ứng với biển đổi khí hậu đã đạt hơn 220kg/công/năm, tăng hơn 20% so với các năm trước. Năm nay, trên 90% diện tích nuôi thủy sản trên địa bàn huyện trúng mùa. Bà con đã theo khuyến cáo trở về với các mô hình có khả năng ứng phó tốt với biến đổi khí hậu như nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến, luân canh lúa trong ao tôm. Đặc biệt, trong năm nay, có khoảng 100 héc-ta nuôi tôm thâm canh thông thường chuyển sang nuôi tôm thâm canh 2 giai đoạn áp dụng công nghệ cao thích ứng tốt với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. 3 vụ nuôi trong năm 2017, nhiều hộ dân đã thành công, năng suất đều trên 90 tấn/héc-ta.

Trong vài năm gần đây, diện tích nuôi tôm thâm canh đầu tư giản đơn tại huyện Thạnh Phú giảm đáng kể. Cụ thể, từ diện tích trên 5 ngàn héc-ta của năm 2013 đã giảm xuống còn khoảng 1,5 ngàn héc-ta vào năm nay. Đây là tín hiệu lạc quan, kiểm soát dịch bệnh tại các vùng nuôi được tốt hơn. Chính quyền đã hỗ trợ người dân tiến hành xây dựng nhãn hiệu cho con tôm biển bằng các khuyến cáo không sử dụng thuốc kháng sinh thay vào đó sản xuất theo các tiêu chuẩn sạch, hữu cơ nhằm phát triển thương hiệu cùng với lúa sạch Thạnh Phú. Huyện cũng hỗ trợ người dân phát triển mô hình du lịch cộng đồng tại các vùng nuôi tôm sạch, góp phần tăng thu nhập cho người nuôi. Cũng thông qua mô hình này, huyện quảng bá nhãn hiệu lúa sạch cũng như du lịch sinh thái.

“Việc áp dụng các giải pháp để nâng cao năng suất tôm quảng canh là một nhiệm vụ quan trọng của ngành thủy sản trong thời gian tiếp theo. Vì điều đó chẳng những làm cho môi trường nuôi luôn giữ được sức đề kháng cao trước dịch bệnh, thời tiết khó lường hiện nay, mà còn là một tiêu chí quan trọng để các nhà đầu tư hướng đến xây dựng nhà máy chế biến có quy mô lớn tại Bến Tre. Có nhà máy chế biến tại chỗ thì giá trị thu được của người nuôi chắc chắn sẽ nhiều hơn và việc xây dựng, hoàn thiện chuỗi giá trị liên kết đối với con tôm biển sẽ sớm thành công. Ngoài ra, sử dụng vùng nguyên liệu sạch trên cơ sở phát triển tài nguyên bản địa trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung để phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác phát triển du lịch cộng đồng cũng là một nhiệm vụ quan trọng mà ngành nông nghiệp đang thực hiện”, ông Bùi Văn Lâm – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết.

Nguồn: Báo Đồng khởi được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Bệnh thiếu dinh dưỡng trên tôm sú

Hiện nay, thức ăn công nghiệp quan tâm nhiều đến lợi nhuận tối đa với chi phí tối thiểu, không chú trọng để đảm bảo có đầy đủ các chất dinh dưỡng vi lượng. Vì vậy, đó là nguyên nhân xuất hiện một số loại bệnh làm ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm.

Bệnh thiếu vitamin

Theo Rai và Reddy (2004), thức ăn thiếu riboflavin và Vitamin K không ảnh hưởng đến sinh trưởng và sự sống còn của tôm. Chế độ ăn có bổ sung tất cả các vitamin cho thấy sự tăng trưởng tối đa. Thức ăn thiếu Vitamin C là nguyên nhân dẫn đến bệnh chết đen do màu sắc cơ thể chuyển sang màu đen tối và làm giảm tỷ lệ sống của ấu trùng tôm, tăng thời gian biến thái. Tôm ăn ít hoặc bỏ ăn, sức đề kháng giảm, khả năng chịu sốc kém, dễ bị các tác nhân gây bệnh cơ hội tấn công tôm sinh trưởng chậm, chết rải rác 1 – 5% hàng ngày (tỷ lệ hao hụt rất cao 80 – 90%).

Để nuôi tôm sú phòng tránh bệnh chết đen và tăng sức đề kháng của tôm cần bổ sung 2.000 – 3.000 mg (loại acide ascorbic)/kg thức ăn cơ bản, hoặc dùng 157 mg (loại Ascorbyl -2 sulphate)/kg thức ăn và 40 mg (loại Ascorbyl -2 Monophosphate)/kg thức ăn.

Hội chứng thiếu hụt sắc tố (PDS)

Hội chứng thiếu hụt sắc tố (pigment deficiency syndrome) còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như tôm màu nhạt, bệnh tôm xanh hay hội chứng vỏ xanh (McVey, 1993). Theo một số nghiên cứu, PDS được báo cáo là có liên quan với mức thấp của Astaxanthin Carotenoid trong thức ăn của tôm. Astaxanthin (C40H52O4) là một loại Carotenoid màu đỏ, có thể tan trong chất béo. Là một nhóm sắc tố hiện diện trên một số loài tảo, nấm men và thủy sản (tôm, cá hồi), tạo cho cơ, da, trứng có màu vàng cam hay đỏ.

Bổ sung tảo Spirulina sp. với tỷ lệ 30 g/kg trong vào chế độ ăn ngay sau khi xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng (Regunathan và Wesley, 2006) cũng cho thấy cải thiện đáng kể tình trạng bệnh và tăng sắc tố đỏ trong cơ thịt tôm cũng như chất lượng trứng (tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở nauplius trên mỗi lần đẻ, tỷ lệ sống sót nauplius) và chất lượng ấu trùng. Hàm lượng Carotenoid trong tảo Spirulina thương mại có thể dao động từ 3,5 đến 5,7 g/kg.

Bệnh mềm vỏ

Nguyên nhân do trong thức ăn dùng nuôi tôm thiếu chất khoáng hoặc thiếu một số vitamin, nhất là Vitamin D để thúc đẩy quá trình hấp thụ các chất khoáng. Cũng có thể do thức ăn kém chất lượng, ôi thiu hoặc cho ăn thiếu. Tôm bệnh mềm vỏ thường có màu xỉn, vỏ bị mềm có khi rất mềm, vỏ rời thịt, thường yếu, kém hoạt động, dễ bị con khác ăn thịt hoặc dễ bị các sinh vật gây bệnh tấn công, dễ bị mắc các bệnh bẩn mình bẩn mang.

Các chất dinh dưỡng vi lượng liên quan trực tiếp đến bệnh này là canxi, kali và phốt pho. Bổ sung các loại sản phẩm dinh dưỡng cho tôm như hỗn hợp của Phosphorous hữu cơ, cung cấp đủ các loại vitamin và acid amin thiết yếu, để tăng cường quá trình trao đổi chất và hấp thu dưỡng chất, giúp tôm khỏe mạnh, đề kháng bệnh tật, mau lớn.

 Bệnh cong thân

Cũng là một bệnh liên quan đến chế độ dinh dưỡng tôm, bệnh nặng hơn khi tôm sống trong môi trường dễ bị stress. Nguyên nhân chính là do trong khẩu phần ăn hàng ngày thiếu một số chất như Na, Ca và Mg. Khi bị sốc, tôm búng đuôi và cơ thể bị cong mà không duỗi ra được. Tôm bệnh nhẹ lưng bị gù nhưng vẫn có thể bơi lội được. Bệnh nặng, tôm thường nằm nghiêng một bên. Bệnh làm tôm khó lột xác, bơi lội, bắt mồi khó khăn. Một số tôm có thể phục hồi nhưng ít tăng trọng, sức đề kháng kém, dễ nhiễm bệnh. Ngoài việc bổ sung đầy đủ sinh dưỡng, cần đảm bảo môi trường nuôi tôm luôn được sạch, pH ổn định khoảng 7,5 – 8,5 trong suốt quá trình sinh trưởng. Không nuôi tôm với mật độ quá cao…

Nhiễm độc tố Aflatoxin

Aflatoxin, một loại độc tố được sản xuất bởi loài nấm Aspergillus có thể được tìm thấy trong nhiều loại nguyên liệu sử dụng để chế biến thức ăn như ngô, lạc, gạo, bột cá, tôm, thịt… Tôm nhiễm độc Aflatoxin có biểu hiện chuyển màu đỏ, giai đoạn hấp hối có màu như tôm rang. Bệnh xuất hiện trong bể ấp hay ao nuôi. Theo kết quả của một nghiên cứu cho thấy, khi trộn một lượng khoảng 50 microgam Aflatoxin trên mỗi gram thức ăn tôm sẽ gây hiện tượng teo và hoại tử gan tụy. Tình trạng này dẫn đến tử vong dần dần và thiệt hại đến 98% trong vòng ba tháng. Các biểu hiện bên ngoài bao gồm giảm ăn, tăng trưởng chậm lại đáng kể, tôm yếu đi, bơi lờ đờ. Tôm chết nhanh khi đưa ra khỏi nước. Biện pháp phòng bệnh chính là sử dụng thức ăn tươi, mới được chế tạo. Lưu trữ thức ăn đúng cách trong phòng thoáng mát, tốt nhất là ở khoảng 10 – 200C trở xuống.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Điều kiện cơ sở vùng nuôi tôm thâm canh đảm bảo ATVSTP

Thông tư 45/2010/TT-BNNPTNT ngày 22/7/2010 của Bộ NN&PTNT Quy định điều kiện cơ sở, vùng nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng thâm canh đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Mô hình nuôi tôm của Công ty Trúc Anh tại Bạc Liêu 

Thông tư này áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến nuôi thương phẩm tôm sú, tôm chân trắng thâm canh tại Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nuôi thương phẩm tôm sú, tôm chân trắng quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh không thuộc đối tượng điều chỉnh của Thông tư này. Cơ sở nuôi thương phẩm tôm sú, tôm chân trắng tuân thủ các quy định chung trong Thông tư này và khi kiểm tra theo quy trình GAP (SQF, VietGAP, GlobalGAP, …) sẽ được cơ quan có chức năng cấp chứng nhận nuôi tôm sú, tôm chân trắng đạt cấp độ tương ứng. Tại Điều 6, chương II: Điều kiện cơ sở vùng nuôi có quy định:

Điều kiện về quy trình công nghệ nuôi tôm

Chuẩn bị ao nuôi

a) Trước khi thả giống, cơ sở nuôi tôm phải cải tạo ao nuôi với các biện pháp phù hợp nhằm giảm thiểu mầm bệnh và cải thiện chất lượng đáy ao, bảo đảm thời gian gián đoạn tối thiểu 01 tháng sau mỗi đợt nuôi.

b) Nước cấp vào ao nuôi tôm phải được xử lý nhằm loại bỏ mầm bệnh, địch hại. Nước cấp và nước trong quá trình nuôi tôm phải đảm bảo chất lượng nước theo phụ lục 1 của Thông tư này.

Tuyển chọn con giống và thả giống

a) Tôm giống để nuôi phải đảm bảo chất lượng theo Tiêu chuẩn Việt Nam và những quy định của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn hiện hành; có giấy chứng nhận kiểm dịch của cơ quan quản lý chuyên ngành.

b) Mật độ thả giống

– Nuôi tôm chân trắng thâm canh: mật độ > 60 con/m2.

– Nuôi tôm sú thâm canh: mật độ > 20 con/m2.

c) Mùa vụ thả giống: tuân thủ lịch mùa vụ hàng năm của địa phương.

Thức ăn và chất bổ sung thức ăn

a) Thức ăn và chất bổ sung thức ăn phải nằm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam.

b) Trường hợp cơ sở tự sản xuất thức ăn cho tôm thì chất lượng thức ăn phải đảm bảo theo quy định của Tiêu chuẩn ngành 28 TCN 102 : 2004 Thức ăn hỗn hợp dạng viên cho tôm sú.

Thuốc, chế phẩm sinh học, sản phẩm xử lý và cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản phải nằm trong các danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam.

Quản lý và chăm sóc

a) Mực nước ao nuôi: phải được duy trì thấp nhất 1,4 m.

b) Môi trường ao nuôi: chủ cơ sở nuôi tôm phải định kỳ kiểm tra các chỉ tiêu môi trường nước, bùn đáy ao nuôi theo quy định tại mục I phụ lục 5 của Thông tư này.

c) Cho tôm ăn: khẩu phần ăn của tôm thường từ 2-4% trọng lượng tôm/ngày, tuy nhiên mỗi lần cho ăn người nuôi cần kiểm tra mức độ sử dụng thức ăn của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn lần sau cho phù hợp; số lần cho tôm ăn 2-4 lần/ngày.

d) Nước thải và chất thải

– Nước thải từ nuôi tôm trước khi thải ra môi trường phải được xử lý đảm bảo đạt tiêu chuẩn theo quy định tai phụ lục 3 của Thông tư này.

Chất thải rắn và bùn đáy ao phải được đưa vào khu chứa riêng biệt, không được xả thải ra môi trường xung quanh khi chưa xử lý.e) Phòng bệnh cho tôm

– Cơ sở nuôi tôm phải xây dựng và thực hiện đúng kế hoạch giám sát sức khoẻ tôm nuôi theo hướng dẫn tại phụ lục 4 của Thông tư này.

– Tôm bệnh, tôm chết và chất thải của ao bị bệnh phải được thu gom, xử lý kịp thời.

Người lao động, dụng cụ, thiết bị tiếp xúc trực tiếp với bùn, nước khi di chuyển từ ao này sang ao khác phải được vệ sinh để ngăn ngừa lây lan mầm bệnh.

Yêu cầu về thu hoạch sản phẩm

Cơ sở nuôi tôm phải ngừng sử dụng thuốc kháng sinh, hóa chất trước khi thu hoạch tôm theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kiểm soát khí độc ao tôm và sử dụng vi sinh hiệu quả

Trong ao nuôi thâm canh, một trong những vấn đề khó khăn nhất là việc kiểm soát khí độc hình thành trong quá trình nuôi tôm đó là NH3, NO2 và H2S.

Nhân viên Skretting cùng khách hàng kiểm tra ao tôm 

NH3 là sản phẩm của sự trao đổi chất của động vật thủy sản trong ao (được thải qua mang và bài tiết), nó cũng hình thành từ sự phân hủy thức ăn thừa (rất giàu đạm), các chất hữu cơ trong nước và chất thải của động vật. Thực tế, chỉ khoảng một nửa nguồn Nitơ trong thức ăn khi tôm sử dụng được chuyển hóa vào xây dựng cơ thể và một nửa còn lại sẽ được thải ra môi trường nước ở các dạng khác nhau.

Lượng NH3 trong ao nuôi tồn tại dưới dạng kết hợp (NH4/NH3). Tùy theo pH của nước mà tồn tại ở dạng NH3-N (rất độc) hay NH4-N (ít độc hơn). pH của nước càng cao thì NH4/NH3 sẽ tồn tại ở dạng NH3 nhiều hơn và gây độc cho tôm (tại pH>8,5, NH4 sẽ chuyển sang dạng NH3 hoàn toàn). Tuy nhiên, ngay ở dạng NH4-N ít độc hơn nhưng cũng làm gia tăng áp lực đối với tôm, làm gia tăng căng thẳng, tôm cá dễ bị bệnh hơn và có tỷ lệ chuyển đổi thức ăn thấp hơn.

Trong ao nuôi, NH3 được hấp thụ theo 3 cơ chế sau:

Được tảo sử dụng: Các loại tảo xanh cần sử dụng Nitơ để tạo tế bào trong quá trình quang hợp;

Được sử dụng bới hệ vi sinh tự dưỡng tiêu hủy hợp chất Carbon. Các nhóm vi khuẩn này phân hủy các chất thải, vật chất hữu cơ và cần sử dụng Nitơ (tốt nhất là NH3 – amoniac) để xây dựng các tế bào mới và tiêu thụ một lượng đáng kể ammonia;

Được sử dụng bởi hệ vi sinh ôxy hóa amonia (Nitrosomonas và Nitrobacter). Chúng đòi hỏi đủ ôxy và pH thích hợp và phát triển rất chậm, chúng hiệu quả trong việc chuyển hóa NH3 – amoniac qua một quy trình hai bước thành NO2 – nitrit đầu tiên (Nitrosomonas) và sau đó tiếp tục chuyển hóa NO2 – nitric thành NO3 – Nitrate ít độc hơn (Nitrobacter).

Hiện nhiều công ty bán sản phẩm có chứa hỗn hợp nhóm vi khuẩn ôxy hóa amonia (Nitrosomonas và Nitrobacter).  Một câu hỏi đặt ra, việc bổ sung nhóm vi khuẩn ôxy hóa amonia để chống lại lượng amonia cao trong ao có thực sự hiệu quả như chúng ta mong đợi?

Sản phẩm vi sinh chứa nhóm vi sinh ôxy hóa amonia cần phải được cô đặc và làm lạnh để có được dạng sống “tạm chết” từ 3 – 6 tháng. Bất kỳ sự tiếp xúc với nhiệt độ cao hoặc đóng băng sẽ giết chết phần lớn nhóm này trong sản phẩm. Vì vậy, chất lượng sản phẩm này như thế nào nếu lưu giữ ở nhiệt độ phòng? Ngoài ra, nhóm vi sinh này khỏe mạnh trong ao cũng chỉ đóng góp một phần trong việc loại bỏ amonia.

Vậy nông dân có những lựa chọn nào cho vấn đề amonia? Amonia có thể được kiểm soát tốt trước tiên phải thông qua quá trình giám sát chặt chẽ ao nuôi, kiểm soát lượng thức ăn, loại bỏ chất thải hằng ngày để duy trì nước trong ao sạch, duy trì pH không cao hơn 8,3, hàm lượng ôxy cao hơn 5 ppm, duy trì sự hiện diện của tảo trong ao, duy trì độ mặn cao để giảm tính độc của NO2.

Bổ sung nguồn vi sinh với nhóm vi khuẩn tự dưỡng Bacillus sẽ mang lại hiệu quả cao hơn là cố gắng cung cấp nhóm ôxy hóa amonia (Nitrosomonas và Nitrobacter) vì khả năng nhân sinh khối nhanh và ít nhạy cảm hơn với các yếu tố môi trường. Chúng cũng hiệu quả hơn trong việc phân hủy các chất hữu cơ trong ao vì chúng sử dụng nguồn hữu cơ để xây dựng cơ chất. Ngoài ra, nhóm vi sinh này sống tốt hơn ở dạng ngủ đông trong các sản phẩm vi sinh trên thị trường (trong khi việc cô đặc ở dạng “tạm chết” của nhóm ôxy hóa amonia Nitrosomonas và Nitrobacter vẫn còn nhiều nghi ngờ).

Vì vậy, trừ khi có các yếu tố đặc biệt và các vấn đề amoniac quan trọng, việc bổ sung các vi khuẩn ôxy hóa amonia thực sự hiếm khi cần trong nuôi trồng thủy sản. Nông dân thêm vào một sự cân bằng các vi khuẩn tự dưỡng cùng với việc duy trì mật độ tảo để  giúp phân hủy chất thải trong ao. Đối với việc bổ sung vi khuẩn tự dưỡng cần thực hiện sớm trước khi ao trở nên mất cân bằng. Với liều lượng thường xuyên trong suốt vụ nuôi (khi thức ăn và sinh khối tăng cao), ao sẽ vẫn cân bằng sinh thái tốt hơn và tôm sẽ bị stress ít hơn.

Nhóm vi khuẩn tự dưỡng Bacillus cần năng lượng từ nguồn Cacbon hữu cơ và nguồn Nitơ (NH4/NH3, NO2) để tổng hợp protein cho việc xây dựng tế bào. Nếu nguồn Carbon hữu cơ có sẵn thì việc chuyển hóa Nitơ sẽ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Chính vì vậy, để thúc đẩy quá trình tiêu thụ nguồn Nitơ, chúng ta có thể cung cấp thêm nguồn Carbon hữu cơ vào trong ao và rỉ đường là một lựa chọn lý tưởng vì giá thành rẻ, hàm lượng Carbon hữu cơ cao mà không chứa hợp chất Nitơ (acid amin).

Nguồn: Contom.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vì sao tôm chậm lớn?

Tôm chậm lớn hay tôm còi ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của vụ nuôi do vậy cần theo dõi trọng lượng tôm hằng ngày để phát hiện kịp thời nguyên nhân làm tôm chậm lớn từ đó đưa ra giải pháp kịp thời.

Tác hại của tôm chậm lớn

1. FRC của tôm cao tốn kém thức ăn.

2. Tôm chậm lớn kéo dài thời gian thu hoạch làm tăng chi phí nuôi.

3. Làm giảm giá trị tôm nuôi, giảm năng suất sản lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân và cách phòng bệnh của tôm chậm lớn

1. Chất lượng con giống kém

Nếu nguồn giống bố mẹ cho đẻ càng nhiều lần thì chất lượng tôm giống càng kém hoặc tôm giống kém chất lượng do quá trình chăm sóc, vận chuyển chưa đúng cách. Do vậy phải lựa chọn tôm giống có chất lượng, tuyệt đối không thả giống trôi nổi trên thị trường.

Phương pháp lựa chọn tôm giống: Lựa chọn con giống của nhà sản xuất có uy tín. Xét nghiệm PCR và test khuẩn trên môi trường thạch. Nếu tôm không đạt chuẩn kiên quyết loại bỏ.

2. Tôm mắc bệnh còi MPV (Monodon Baculovirus) và HPV (Hepatopancreatic virus)

Dấu hiệu tôm bắt mồi kém, vỏ sậm màu, bơi lội lờ đờ, dễ bị ký sinh trùng hoặc rong bám, nặng hơn chết rải rác trong thời gian nuôi.

Chưa có biện pháp trị: Ngay khi phát hiện tôm bệnh phải bắt bỏ những con tôm bị còi ra khỏi ao bằng cách đặt chà ( dùng rò tre nhỏ bỏ cành cây lá khô, dụ bắt tôm còi)

Biện pháp phòng:

+ Không dùng tôm giống có nhiễm mầm bệnh MBV.

+ Tẩy dọn ao, bể nuôi như phương pháp phòng chung. Thường xuyên diệt khuẩn môi trường ao nuôi.

+ Nuôi tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng. Không để tôm sock trong quá trình nuôi.

+ Kiểm dịch nguồn tôm bố mẹ trước khi cho đẻ.

+ Xử lý nước nguồn nước kỹ trước khi ấp trứng thì có thể sản xuất được đàn tôm Postlarvae không nhiễm virus MBV.

3. Tôm bị bệnh phân trắng

Sau khi tôm bị mắc bệnh phân trắng nếu không kịp thời chữa trị tôm yếu dần khả năng hấp thu chất dinh dưỡng kém làm cho tôm bị chậm lớn.

Khi phát hiện tôm bị bệnh phân trắng cần có biện pháp điều trị kịp thời.

4. Vi bào từ trùng

Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) ký sinh trong tế bào gan tụy của tôm, chúng sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan tụy khiến cho tôm nuôi không đủ dinh dưỡng cho sự tăng trưởng và lột xác.

Phòng: Xét nghiệm con giống trước khi thả nuôi, tuyệt đối không để cua còng vào ao, diệt giáp xác thật kỹ khi thả nuôi.

Khuyến cáo: sử dụng vôi nóng (CaO) xử lý ao để có thể đạt độ pH đáy ao trong quá trình cải tạo cao hơn 11 – 12 để làm chết mầm bệnh EHP.

5. Mật độ quá dày, sinh khối lớn

Khi nuôi tôm mật độ quá dày, những chất dinh dưỡng cần thiết cung cấp cho tôm không đủ để tôm phát triển và lột xác.

Khuyến cáo: nuôi tôm thâm canh thì mật độ thích hợp là dưới 100con/m2. Định kỳ bổ sung khoáng vào thức ăn tôm và khoáng tạt vào ao nuôi. Nếu đánh khoáng nên đánh vào buổi tối.

6. Lạm dụng kháng sinh trong phòng, trị bệnh

Người dân thường sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho tôm và dùng quá liều kháng sinh khi trị bệnh giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm làm tôm chậm lớn.

Lưu ý khi sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm: dùng đúng liều đúng chu trình 5-7 ngày tránh lờn thuốc. Sau đó cần bổ sung sorbitol 2g/1kg thức ăn nhằm giúp tôm đào thải kháng sinh, sau khi dùng men vi sinh 3 ngày phải cho tôm ăn men đường ruột.

>> Không sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm giống và tôm nuôi, vì sẽ gây lờn thuốc và giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm.

7. Thức ăn kém chất lượng, chất lượng nước ao nuôi xấu

Thức ăn kém chất lượng cũng là nguyên nhân làm tôm chậm lớn do tôm không đủ dinh dưỡng để tăng trưởng. Do đó phải bảo quản thức ăn đúng nơi quy định. Không được để bao thức ăn dưới sàn đất.

Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường nước (Độ kiềm, Fe, NO2, NH3..) trong ao để nhanh chóng điều chỉnh.

Không được sử dụng thuốc trừ sâu để cải tạo ao.

Trên đây là những nguyên nhân phổ biến làm cho tôm bị chậm lớn, chúc bà con một vụ mùa bội thu.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Quy trình trồng rong sau đó diệt rong làm thức ăn cho tôm

“Kỹ sư nuôi rong” là tên gọi vui mà bà con đặt cho anh nông dân Lê Ngọc Giao, ấp Đất Sét, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân.

Trong khi nhiều người nuôi tôm thường lạm dụng hoá chất, thì anh Giao lại đi từ yếu tố căn bản là tạo môi trường tự nhiên bằng vi sinh, chế phẩm sinh học. Mất nhiều thời gian tìm hiểu và thực hiện quy trình nuôi rong, rồi lại diệt rong trong đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến, anh Giao chia sẻ , đây là khâu quan trọng trong quy trình nuôi tôm quảng canh cải tiến nước tĩnh bền vững. Con tôm cần nhất 3 yếu tố: có thức ăn để sống, có ôxy để thở và môi trường sống rộng rãi, trong lành. 17 năm chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thức ăn thiên nhiên không còn, vì vậy đòi hỏi phải tạo nguồn thức ăn cho tôm đối với nuôi quảng canh cải tiến và quảng canh truyền thống.

Anh Lê Ngọc Giao (bìa phải) thường xuyên trao đổi, hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm quảng canh cải tiến cho bà con nông dân

“Yếu tố quan trọng là phải khôi phục các yếu tố tự nhiên, đảm bảo môi trường vì môi trường nước nuôi tôm hiện nay ít nhiều bị ô nhiễm vì chất thải chính từ nuôi tôm và các chất thải công nghiệp khác, thải ra, lấy vào đều bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, bà con thường nóng vội, thả tôm rất dày, có khi chỉ 1 ha nhưng thả đến cả trăm ngàn con giống, vậy mà chừng 2 tháng lại tiếp tục thả nối đuôi. Quá dày, không đủ thức ăn, phát sinh bệnh tật, hậu quả là… thất bại”, anh Giao khẳng định.

Với suy nghĩ làm cách nào vừa có thức ăn tự nhiên cho tôm, vừa cải thiện được môi trường bền vững, với kiến thức tích luỹ được và dựa trên quy trình nuôi tôm quảng canh cải tiến của ngành chuyên môn, anh Giao xây dựng một quy trình nuôi tôm “quảng canh cải tiến bền vững” cho mình và chia sẻ cho bà con xung quanh cùng thực hiện. Nhiều hộ được anh hướng dẫn áp dụng đã thành công ngay vụ nuôi đầu tiên.

Quy trình bền vững

Quy tắc chung của quy trình này là đảm bảo 3 yếu tố: thứ nhất là nuôi thưa, chỉ 1-2 con/m2 để đảm bảo môi trường sống đủ ôxy và thức ăn, hạn chế bệnh tật cho tôm; thứ hai là tạo thức ăn cho tôm nuôi bằng giải pháp tự nhiên. Có thể tận dụng rạ lúa, cỏ khô để thả xuống vuông. Khi cây cỏ phân huỷ sẽ sinh ra các loại sinh vật làm thức ăn cho tôm. Đối với những khu vực vuông nuôi thiếu cỏ khô, gốc rạ như ở huyện Phú Tân hiện nay thì phải thực hiện quy trình tạo rong. Rong sẽ hút chất bẩn do quá trình nuôi tôm thải ra, góp phần cải thiện môi trường và cũng là nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm khi rong chết đi.

Nuôi rong rồi diệt rong làm mồi cho tôm đang được áp dụng rộng rãi trong mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến ở xã Phú Thuận, huyện Phú Tân

Để tạo rong thì dùng chế phẩm sinh học và đạm vô cơ rải đều trên trảng, mỗi công đất chừng 1 kg. Chỉ rải trên một khu vực nhỏ trong vuông tôm thôi, rồi sau đó diệt đám rong này lại tạo rong chỗ khác. Nếu rong mọc hết vuông tôm không khéo tôm lại thiếu ôxy thì tác dụng ngược. Còn cách diệt rong thì dễ, có thể dùng men hoặc thuốc để cắt luồng rong. Rong phân huỷ sẽ tạo nên thức ăn cho tôm. Quy tắc chung là vậy, nếu vuông nuôi có thảm thực vật như cỏ hay năn thì sẽ thực hiện bằng cách khác.

Làm tốt công việc này cũng là đảm bảo cho yếu tố thứ 3 trong quy trình nuôi tôm bền vững, đó là đảm bảo môi trường. Anh Giao nói, trong quá trình cải tạo ao đầm không được dùng hoá chất mà phải sử dụng chế phẩm sinh học, vi sinh. Chỉ sử dụng hoá chất lúc cải tạo ban đầu và diệt tạp.

Vụ nuôi theo quy trình này kéo dài 1 năm, bắt đầu từ khoảng tháng 5 âm lịch hằng năm. Ban đầu phải cải tạo ao đầm triệt để, diệt cá tạp và phơi đất khô. Tiếp đó hứng nước mưa và thực hiện việc tạo rong. Sau đó diệt rong để tạo thức ăn cho tôm rồi tiến hành xử lý nước bằng thuốc diệt khuẩn, tro trấu, khoáng, men vi sinh và thả tôm nuôi. Tôm hầm đất là phù hợp, thả ban đầu khoảng 1 con/m2, sau đó thả bổ sung hằng tháng. Cứ thế, khi lứa nào thu hoạch được thì thu hoạch và thả giống bổ sung nhưng phải đảm bảo mật độ khoảng 2 con/m2. Hằng tháng phải tạt men vi sinh bổ sung trong quá trình nuôi. Điểm đáng lưu ý là nuôi theo quy trình này thì rất ít thay nước, chủ yếu là lấy nước thêm khi mực nước trên ao đầm hụt đi.

Hiệu quả…

Ở ấp Đất Sét và là một trong những hộ được anh Giao hướng dẫn thực hiện nuôi theo quy trình này, đã đạt hiệu quả ngay vụ đầu tiên, ông Tô Ngọc Đẹp cho rằng: “Trước đây, nuôi truyền thống trúng lắm cũng khoảng 50 triệu đồng/ha/năm, thậm chí mấy năm gần đây tôm chết hoài. Bây giờ nuôi theo quy trình này mà thu nhập 50 triệu đồng/ha coi như là thất”.

Ông Phạm Hoàng Phương ở cùng ấp cũng áp dụng theo quy trình này từ giữa năm 2016 trên diện tích 3 ha của gia đình mình. Mức thu nhập đến nay của gia đình đã vượt ngưỡng 100 triệu đồng/ha. Không giấu được sự vui mừng, ông Phương cho biết: “Yếu tố quan trọng là sử dụng các giải pháp hoàn toàn tự nhiên nên tôm nuôi rất mạnh và ổn định, lớn nhanh”.

Hơn 20 hộ dân ở ấp Đất Sét, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân thực hiện theo quy trình này đều có hiệu quả ban đầu. Tất cả bà con đều vô tổ hợp tác để thuận tiện thông tin, trao đổi lẫn nhau. Có lúc thông tin qua điện thoại, có lúc trực tiếp.

Là nông dân thực thụ nhưng anh rất thuần thục cách sử dụng vi sinh, khoáng… Kiểm tra dấu hiệu trên tôm, anh biết nó thiếu thức ăn hay chậm lớn do nguyên nhân gì, từ đó bày cho bà con cách xử lý phù hợp. Anh nhiệt tình đi từ cánh đồng này đến ruộng nọ, từ nhà nọ đến nhà kia để hướng dẫn bà con cách nuôi tôm quảng canh cải tiến bền vững.

Vừa qua, được ngành chuyên môn hỗ trợ để thực hiện quy trình nuôi tôm quảng canh cải tiến nước tĩnh cho 5 hộ, anh Giao lồng ghép thực hiện luôn quy trình của mình. Kết quả, 3 hộ thành công do thực hiện đúng quy trình. Thu hoạch bình quân hơn 100 triệu đồng/ha. 2 hộ thành công chưa cao do thực hiện sai, thả tôm quá dày nên không đủ ôxy, thức ăn.

Kỹ sư Nguyễn Văn Lương, Trạm Khuyến nông huyện Phú Tân, cho biết: “Về cơ bản quy trình nuôi tôm của anh Giao áp dụng không khác so với quy trình khuyến cáo của ngành chuyên môn nhưng có cải tiến theo hướng phù hợp điều kiện đất đai và thực tế từng vuông nuôi. Điểm quan trọng là nuôi thưa và tạo môi trường tự nhiên lý tưởng cho tôm nuôi sinh sống và có thức ăn, ít thay nước”.

…và nhân rộng

Tiếng lành đồn xa, nhiều bà con ở xã Tân Hưng Tây, Phú Tân, Việt Thắng… đến tìm hiểu, nhờ anh Giao hướng dẫn thực hiện mô hình quảng canh cải tiến bền vững này. Trong đó có cả những người đã từng nuôi công nghiệp thất bại nay muốn trở về mô hình nuôi bền vững hay những nông dân từng nuôi quảng canh truyền thống, giờ muốn nâng cao hiệu quả sản xuất.

Ông Lê Văn Sơn, ấp Tân Phú, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, mấy năm nay tôm thất liên tục. Được anh Giao chuyển giao và hướng dẫn kỹ thuật nuôi quảng canh cải tiến ít thay nước, ông nuôi được hơn 8 tháng, 5 tháng nay đã thu hoạch dần, mỗi tháng cũng hơn chục triệu đồng.

Ông Hồ Hởi, Phó chủ tịch UBND xã Phú Thuận, cho biết: “Xã vừa phối hợp ngành chuyên môn tổ chức hội thảo về mô hình này. Bà con phấn khởi lắm bởi đã có hướng đi cho người nuôi tôm ít vốn, ít kỹ thuật nhưng đất đai rộng. Xã cũng đưa vào kế hoạch trình cấp trên nâng lên thành hợp tác xã để bà con áp dụng mô hình cánh đồng lớn”. “Phải nhân rộng” là câu khẳng định của lãnh đạo xã này, của ngành chuyên môn và nhiều nông dân khác. Đây cũng là điều kiện góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng bền vững, giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu trong điều kiện hiện nay.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp phát hiện sớm bệnh trên tôm với chi phí rẻ

Một công ty công nghệ sinh học Nhật Bản đang hợp tác với các nhà nghiên cứu tại Đại học Tohoku để phát triển một giải pháp có thể phát hiện nguyên nhân gây hội chứng tử vong sớm (EMS) ở tôm nuôi và các bệnh khác trên tôm. Được thực hiện tại ao, nhanh chóng và chính xác nhưng chi phí cực kỳ hợp lý.

Tohoku Bio-Array, còn được gọi là Công ty TBT và Đại học Tohoku ở thành phố Sendai, Nhật Bản, sẽ cùng nhau phát triển xét nghiệm di truyền để cho phép phát hiện sớm các bệnh truyền nhiễm trong tôm nuôi, được báo cáo trên Nippon Keizai Shimbun vào ngày 5/6 vừa qua. Mục đích chính của phương pháp này là nhanh chóng phát hiện ngay tại ao nuôi tôm.

Để sử dụng bộ kit, tôm được nghiền sau đó pha trộn rồi đưa qua phản ứng PCR được gắn nhãn để khuếch đại gen của virut. PCR là một kỹ thuật sao chép một vài bản sao của một đoạn DNA, để sản xuất hàng ngàn (hoặc hàng triệu bản sao). Sau đó, một dải thử nghiệm – một màng có dãy DNA in trên nó – được nhúng trong dung dịch, và một đường màu xanh xuất hiện nếu kết quả dương tính, và có thể được xác nhận trực quan. Các xét nghiệm cho ba hoặc bốn bệnh, bao gồm cả EMS, có thể được bao gồm bằng 1 xét nghiệm duy nhất.

Một máy xử lý là cần thiết để khuếch đại gen, nhưng giá mỗi lần xét nghiệm dự kiến sẽ chỉ khoảng 5-10 USD (từ 4,50 đến 9 EUR). Việc chẩn đoán có thể được thực hiện trong khoảng một giờ để nông dân có cơ hội thu hoạch ao sớm hoặc dừng ao nuôi mới nhằm giảm tổn thất nếu có kết quả dương tính.

Xét nghiệm di truyền chuẩn đoán bệnh trên tôm không phải là mới. Nó đã có thể được thực hiện với chi phí cao hơn một chút so với các thử nghiệm này. Và phương pháp thông thường vận chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm để thử nghiệm thì nông dân phải đợi ít nhất vài ngày mới có kết quả.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Những khoáng chất nào cần cho tôm?

Khoáng có vai trò hết sức quan trọng đối với động vật thủy sản, vì nó tham gia trực tiếp vào các quá trình sinh tổng hợp diễn ra bên trong cơ thể vật nuôi.

Do đó, làm thế nào để giúp động vật thủy sản hấp thu đủ lượng khoáng, luôn là vấn đề quan tâm của người nuôi. Khoáng là một nhóm các chất cần thiết và vật nuôi chỉ cần một lượng nhỏ, nhưng nếu thiếu chúng sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh trưởng và phát triển của vật nuôi. Hiện nay, người ta đã xác định được 16 nguyên tố khoáng đa lượng (Cu, Fe, Mn, Zn, Sn…) và 6 nguyên tố khoáng vi lượng (Ca, Mg, P, Na, K, Cl). Do động vật thủy sản sống trong môi trường nước, có thể hấp thu khoáng qua mang hoặc da, nên rất khó xác định chính xác nhu cầu khoáng. Tuy nhiên, nhu cầu khoáng của động vật thủy sản phụ thuộc vào 3 yếu tố:

• Tình trạng dinh dưỡng  của vật nuôi

• Thành phần và hàm lượng khoáng trong thức ăn

• Nồng độ khoáng trong môi trường nước.

Vai trò một số nguyên tố  Khoáng đối với động vật thủy sản

Trong nuôi trồng thủy sản, nhu cầu về các nguyên tố khoáng Sắt (Fe), Đồng (Cu), Kẽm (Zn), Canxin (Ca), Magie (Mg), Phosphorus (P) được quan tâm nhiều hơn.

Fe

Là thành phần cấu tạo nên Hemoglobin, đóng vai trò vận chuyển máu và hô hấp trên cá. Cá có thể hấp thu Fe qua môi trường, còn nếu bổ sung nên chọn muối có chứa ion Fe 2+ vì sẽ giúp cá dễ  hấp thu hơn. Thiếu sắt sẽ làm số lượng tế bào hồng cầu giảm, gan cá bị vàng. Các loại muối Fe được dùng phổ biến là Sắt (II) choloride (FeCl2), Sắt (II) Sulfat (FeSO4).

Cu

Là thành phần cấu tạo nên Hemocyanin, đóng vai trò vận chuyển máu và hô hấp trên Tôm, góp phần hình thành nên sắc tố melanin.Thiếu Cu tôm sẽ giảm sinh trưởng, giảm lượng Cu trong máu và gan tụy. Tôm có thể hấp thu Cu qua môi trường nước và trong bột cá. Loại muối bổ sung Cu được dùng phổ biến là CuSO4.

Zn

Kẽm giúp tăng khả năng vận chuyển CO2 trên động vật thủy sản, kích thích tiết acid chlohyride (HCl). Thiếu kẽm vật nuôi sẽ giảm sinh trưởng, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Loại muối thường dùng để bổ sung Zn là ZnSO4.

Ca

Là thành phần chủ yếu hình thành nên khung xương cá , duy trì áp suất thẩm thấu, tham gia cấu tạo vào chất dẫn truyền thần kinh. Cá có thể hấp thu Ca từ nước qua mang da, thiếu Ca sẽ làm giảm chức năng sinh sản trên cá. Cùng với Mg, Ca tham gia vào quá trình lột xác của tôm, nếu thiếu thì sẽ dẫn đến tôm không lột xác được, chậm lớn. Các muối thường dùng để bổ sung Ca là Calcium lactate (C6H10O6), Tri basic Calcium phosphate (Ca3(PO4)2), Calcium Cacbonate (CaCO3)…

Mg

Là chất xúc tác trong một số phản ứng quan trọng trong hệ thống enzyme. Tôm cá biển dễ hấp Mg từ môi trường nước. Thiếu Mg vật nuôi sẽ giảm ăn, tỉ lệ chết cao. Người ta sử dụng các muối MgSO4.7H2O, K2SO4.2MgSO4 để bổ sung khoáng cho vật nuôi.

P

Tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng, sinh trưởng, sinh sản và duy trì sự ổn định của pH trong ao nuôi. Cá tôm không thể hấp thu P qua môi trường nước mà hấp thu trực tiếp từ thức ăn. Khi thiếu P, vật nuôi sẽ giảm sinh trưởng, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, và làm tôm bị mềm vỏ. Do đó người nuôi hết sức lưu ý để bổ sung đủ lượng P cho tôm, cá. Các muối thường dùng để bổ sung P là: KH2PO4, NaH2PO4.

Kết luận

Tùy vào từng giai đoạn phát triển của vật nuôi mà nhu cầu khoáng cho từng giai đoạn sẽ khác nhau. Người nuôi cần chú ý sử dụng các muối có chứa các nguyên tố khoáng ở dạng dễ tan, để giúp vật nuôi hấp thu tốt hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Viet Nam.

Con đường lây lan của dịch bệnh đốm trắng trên tôm

Những nghiên cứu cho thấy WSSV lây lan theo chiều ngang theo môi trường nước bởi sinh vật mang mầm bệnh (carriers) như: Vi tảo (microalgae), giun nhiều tơ (polychaete worms) và trứng của luân trùng (rotifer eggs).

1. Nghiên cứu của Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ (CIBA-ICAR) Ấn Độ

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên về giun nhiều tơ (Polychaete worms) là một vector thụ động của hội chứng đốm trắng cho tôm Sú bố mẹ (Penaeus monodon).

Nghiên cứu dựa trên những con giun nhiều tơ sống, Marphysa spp., Thu được từ các nhà cung cấp, ngư dân, cũng như các mẫu thu thập được từ 8 trạm trên bờ biển phía bắc của Tamilnadu (Ấn Độ). Tôm Sú bố mẹ với buồng trứng không phát triển, được thí nghiệm lây nhiễm WSSV bằng cách cho ăn giun nhiều tơ, loài này đã mang WSSV trước đó.

50% giun nhiều tơ có được từ các nhà cung cấp giun được phát hiện là dương tính WSSV bằng PCR 2 bước. Trong số 8 trạm nghiên cứu, 5 con giun dương tính với WSSV với tỷ lệ nhiễm từ 16,7 đến 75%. Giun nhiều tơ thu được từ các khu vực gần các trang trại nuôi tôm cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm cao hơn.

Các thí nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm đã khẳng định các quan sát được > 60% giun nhiều tơ tiếp xúc với WSSV được chứng minh là dương tính WSSV sau 7 ngày tiếp xúc. Người ta cũng xác nhận rằng tôm bố mẹ có thể bị nhiễm WSSV bởi thức ăn giun nhiều tơ mang mầm bệnh WSSV. Mặc dù nghiên cứu này chỉ cho thấy sự lây nhiễm ở mức độ thấp ở các loài thực vật hoang dã hoang dã nhưng các thí nghiệm này cũng cho thấy rõ ràng khả năng chuyển WSSV từ thức ăn sống sang tôm bố mẹ, giun nhiều tơ có thể đóng một vai trò trong dịch tễ học của WSSV.

Một số sinh vật mang mầm bệnh WSSV khác 

2. Nghiên cứu của Trường Đại học Thủy sản, Trung Quốc

Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bởi phương pháp PCR trong luân trùng và trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích ao nuôi tôm.

Vi rút hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bằng phương pháp PCR-dot blot hybridization trong trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích tôm nuôi tôm He Trung Quốc (Penaeus chinensis). Nó cũng được phát hiện trong luân trùng được nở từ những quả trứng đó. Kết quả cho thấy trứng nghỉ có thể là một vật mang cho WSSV trong ao nuôi tôm.

3. Thí nghiệm của Viện Hải dương học, Học viện Khoa học Trung Quốc

Nghiên cứu về sự lây lan của WSSV (virus hội chứng đốm trắng) ở tôm he Nhật Bản (Marsupenaeus japonicus) thông qua vi tảo biển.

Để chứng minh được khả năng vi tảo biển biển mang WSSV, 6 loài vi tảo biển (Isochrysis galbana, Skeletonema costatum, Chlorella sp., Heterosigma akashiwo, Scrippsiella trochoidea, Dunaliella salina) đã được nuôi cấy với tôm he Nhật Bản trưởng thành (Marsupenaeus japonicus). WSSV được khảo sát hàng ngày bằng PC-nested để nghiên cứu liệu chúng có thể mang WSSV hay không. Các thí nghiệm tiếp theo đã được tiến hành để điều tra xem vi khuẩn có mang vi khuẩn có thể tái nhiễm trên tôm con. Kết quả cho thấy rằng tất cả các vi tảo biển thực nghiệm, ngoại trừ H. akashiwo còn lại có thể mang WSSV, và trong số đó, Chlorella sp. và S. trochoidea có khả năng mang WSSV mạnh nhất. Không giống như những sinh vật mang không xương sống khác của WSSV, các phát hiện của WSSV trong vi tảo biển, có kết quả dương tính sau 1 và 3 ngày, âm tính sau 10 ngày nuôi cấy.

Kết quả phát hiện WSSV ở tôm M. japonicus cho thấy tôm đã bị lây nhiễm từ Chlorella sp. Mặc dù tôm M. japonicuschỉ mang một lượng WSSV nhỏ đến mức chỉ có thể được phát hiện bởi nested-PCR. Kết quả của thí nghiệm này cho thấy vi tảo có thể là một con đường truyền tải ngang có thể cho WSSV. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về các yếu tố khả năng mang khác nhau và các cơ chế mang vi rút của các loài vi tảo khác nhau.

Nguồn: Aquaculture được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thành công với mô hình nuôi tôm sú kết hợp với tôm càng xanh

Đây là bài báo cáo về một nông dân Ấn Độ nuôi thành công tôm sú (Penaeus monodon) và tôm càng xanh nước ngọt (Macrobrachium rosenbergii).

Trang trại sử dụng giống tôm sông hoang dã, nuôi ở mật độ tương đối thấp và cho ăn thức ăn viên dành cho tôm càng xanh mà tôm sú cũng chấp nhận.

Từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2013, Sri Mrityunjoy Bal đã nuôi của cả hai loài này với nhau.  Ông lựa chọn con giống M. rosenbergii (5-8mm, cỡ hạt thóc) và P. monodon (PL15 kích thước 14-15mm) từ trại giống chuyên nghiệp.

Ương giống

Trong một  ao nuôi ương 400m: 10.000 con giống tôm càng xanh và 20.000 giống tôm sú cùng nhau trong 35-45 ngày, trong đó M. rosenbergii và P. monodon đạt 3,9-5cm và 7,7-9cm (3g) trọng lượng cơ thể.

Mặc dù là thức ăn dành cho tôm càng xanh nhưng, nó được dùng cho cả hai loài và tôm sú cũng chấp nhận nó. Cách cho ăn: 80-100g mỗi ngày trong 10 ngày đầu tiên, cho ăn 100-140g trong 10 ngày thứ hai, 140-480g trong 10 ngày thứ ba và 480-880g mỗi ngày trong suốt 10 ngày thứ tư (tức là cho đến ngày thứ 40).

Giai đoạn 2 thức ăn viên với đường kính 1.5-2.0mm được cung cấp cho cả tôm càng và tôm sú trong ao bốn lần một ngày; Một lịch trình cho ăn nghiêm ngặt được duy trì bắt đầu với việc áp dụng thức ăn 7% mỗi ngày vào tuần đầu tiên.

Quy trình cân tôm và cho tôm ăn theo tỉ lệ mà Sri Mritunjoy sử dụng

– Cân 2,5-3,0g trọng lượng cơ thể trung bình (abw)) dùng 6% thức ăn mỗi ngày trong tuần lễ thứ hai của quá trình nuôi.

– 4-5g abw cho ăn 5% thức ăn mỗi ngày trong tuần thứ ba

– 6-7g abw trong tuần thứ 4

– Kết thúc với 1,5% thức ăn mỗi ngày trong tuần thứ 13 và khi đạt 35-37g Abw

– 38-40g abw cho ăn 1,2% thức ăn mỗi ngày trong tuần lễ thứ 14

Lịch trình cuối cùng được duy trì

Thức ăn viên đường kính 1-2mm để làm thức ăn cho tôm càng xanh và Tôm sú có kích thước 25gm và thức ăn 2-3mm Pellet được sử dụng cho đến thời điểm thu hoạch.

M. rosenbergii bắt đầu nuôi từ tháng 3 và thu hoạch vào cuối tháng 1 năm sau trong khoảng thời gian nuôi là bảy tháng.

Trong quá trình nuôi họ sử dụng máy bơm oxy để cung cấp oxy cho nước ao, họ đã không phải đối mặt với bất kỳ vấn đề nào của nhiễm virus (WSSV hoặc MBV) khi nuôi tôm sú trong ao nuôi nước ngọt của mình trong ba năm.

Sự bùng nổ của các bệnh do virus gây ra ở tôm sú khi nuôi trong điều kiện nước ngọt ở mật độ thấp và sử dụng con giống thu được từ các vùng của sông Rupnarayan có độ mặn nước dưới 4-5ppt.

Mô hình nuôi tôm càng xanh và tôm sú được thực hiện bởi Sri Mrityunjoy Bal sẽ khuyến khích người dân nuôi tôm sú trong các hệ thống nước ngọt có độ mặn và mật độ thấp để giảm nguy cơ và các vấn đề về virut.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.