Phòng trừ sâu bệnh hại Ca Cao

I. Côn trùng gây hại chính

1. Bọ xít muỗi (Helopeltis spp)

Triệu chứng và tác hại: Chích hút nhựa trái, chồi non, cành non. Các vết chích bị thâm, sau đó bị thối. Chồi non, cành non bị hại sau sẽ héo khô.

Bọ xít muỗi hại ca cao

Biện pháp phòng trừ : Vệ sinh vườn sạch sẽ, tỉa bớt cành nhánh không cần thiết. Có thể phun các loại thuốc như Bassa 50 EC, Supracide 40 ND.

 2. Sâu hồng (Glenia celia)

Triệu chứng và tác hại : Sâu thường đục phần thân ngọn và các cành rồi đùn phân và mạt cưa ra ngoài miệng lỗ đục và rơi xuống đất. Những cành ca cao bị đục sẽ héo rồi chết khô.

Sâu hồng đục thân ca cao

Biện pháp phòng trừ : Thường xuyên thăm vườn để phát hiện sớm sau đó cắt các cành bị hại và đốt để diệt sâu nằm trong. Các loại thuốc được sử dụng như Basudin 50 EC.

3. Bọ cánh cứng hại lá (Apogonia spp, Adoretus spp)

Côn trùng ăn lá ca cao thuộc nhiều loài khác nhau như bọ nâu, bọ xám, bọ hung kim; Triệu chứng và tác hại: Chủ yếu phá hại vào ban đêm, ban ngày trú ngụ nơi tối hay dưới đất. Bọ ăn lá non tạo những lỗ khuyết trên lá làm giảm sự phát triển của cây.

Bọ cánh cứng hại thân ca cao

Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn sạch sẽ, có thể phun các loại thuốc như Basudin 50 ND

4. Rầy mềm (Aphid)

Triệu chứng và tác hại: Rầy mềm sống tập trung và chích hút nhựa cây trên các chồi non, lá non, trái non làm cây chậm phát triển, trái khô héo. Thường có các loài kiến sống kết hợp với loài rầy nầy.

Rầy trên cây ca cao

Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn sạch sẽ, có thể phun các loại thuốc như Bassa 50 EC theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

5. Rệp sáp (Planococcus citri)

Triệu chứng và tác hại: Rệp sáp sống bám vào cuống lá, trái, thân, trái non hay cổ rễ để hút nhựa làm cây, trái chậm phát triển, còi cọc. Rệp tiết ra chất hơi dính như mật ong nên thường có nhiều loại kiến sống kết hợp với rệp

Biện pháp phòng trừ: Cần chú ý theo dõi để phát hiện những ổ rệp sáp mới hình thành tránh hiện tượng lây lan. Có thể diệt rệp sáp bằng cách phun các loại thuốc trừ sâu như Bi 58 40 EC.

6. Chuột ăn trái

Chuột thích ăn cùi ngọt bao quanh hạt ca cao. Thường chúng cắn phá quả ca cao bằng cách khoét lỗ để moi hạt. Khi chuột gây hại nặng buộc phải tổ chức diệt trừ bằng cách dùng bả độc cho kết quả tốt.

II. Bệnh hại ca cao

1. Bệnh thối trái (Phytopthora palmyvora)

Triệu chứng: Bệnh xuất hiện trên mọi lứa tuổi của trái. Bệnh phát triển nhiều vào mùa mưa. Trái bị bệnh có màu nâu đen làm giảm năng suất 20-35%, đôi khi 90%

Phòng trừ: Chúng ta cần hái bỏ các trái thối càng sớm càng tốt để tránh lây lan đặc biệt trong mùa mưa. Không nên để trái chín lâu trên cây. Vườn cây nên được thông thoáng, khô ráo, không còn cỏ dại. Có thể sử dụng các thuốc trừ nấm có gốc đồng, phun định kỳ 10 – 12 ngày/lần để hạn chế mầm bệnh.

2. Bệnh nấm hồng (Corticium salmoncolor)

Bệnh thường chỉ xuất hiện vào mùa mưa, ở những  vườn ca cao quá ẩm và rợp. Nấm phá hoại ở những cành lá đã hoá nâu. Vết bệnh lúc đầu có vết mốc trắng nhưng dần dần chuyển sang màu trắng hồng, cành khô nâu, lớp vỏ thân cành bị tách ra từng mảng.

Phòng trừ: Để phòng trừ cần tỉa cây thông thoáng giảm ẩm độ, cắt bỏ các cành bị bệnh và phun thuốc trừ nấm.

3. Bệnh hại rễ (Rigidoporus lignosus, Ganoderma pseudoferum, Phellinus noxius, Rosellina bunodes)

Rễ ca cao có thể bị trắng, hoá nâu, hoá đen hoặc nứt cổ rễ gây ra bời nhiều loại nấm khác nhau. Vệ sinh đồng ruộng, xử lý hố trước khi trồng, tránh trồng nơi đất khó thoát nước, tránh tổn thương rễ. Phòng trị bằng bằng các loại thuốc trừ nấm phun trực tiếp quanh gốc.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Ca Cao

1. Điều kiện sinh trưởng của ca cao

1.1. Đất đai

Cây ca cao có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, trên đất cát, đất phù sa ven sông và cả trên đất nghèo dinh dưỡng nhưng có bóng che và gần nguồn nước. Ca cao chịu được trên đất có độ pH từ 5-8 nhưng tối ưu từ 5,5-6,7 và có khả năng chịu được độ mặn 40/00.

Cây ca cao có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau

1.2. Khí hậu

Cây ca cao được trồng trên những vùng có lượng mưa hằng năm khoảng 1.500-2.000 mm, phát triển được trên các vùng đất có cao độ từ mặt nước biển cho đến 800m. Cây ca cao thích nghi tốt ở nhiệt độ tối đa khoảng 18 – 21oC, tuy nhiên cây bị thiệt hại nghiêm trọng ở nhiệt độ 10oC. Ẩm độ thích hợp cho cây phát triển khoảng 70 – 80%. Cây ca cao mẫn cảm rõ rệt với nhiệt độ, vũ lượng và ẩm độ quá cao hay quá thấp.

Lá ca cao non có bản rộng và cuốn dài dễ bị lay gãy hoặc trầy nát khi gặp gió mạnh gây hậu quả cây bị còi cọc chậm lớn. Chính vì các lý do trên mà việc trồng cây chắn gió chung quanh vườn Ca cao rất cần thiết, nhất là thời kỳ kiến thiết cơ bản, dừa là cây chắn gió lý tưởng có thể bao quanh vườn Ca cao.

2. Kỹ thuật trồng cây Ca cao

Giai đoạn chuẩn bị: trồng cây che bóng cho cây Ca cao là yếu tố then chốt quyết định sự thành công trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, khi đảm bảo được bóng che thì chưa nên trồng Ca cao. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc Ca cao trồng xen trong vườn. Dừa là cây che bóng vĩnh viễn là cây trồng chung với Ca cao và tồn tại suốt chu kỳ sinh trưởng của ca cao.

Chuẩn bị đất: Mật độ và khoảng cách trồng: ca cao trồng xen trong vườn dừa với khoảng cách 3×3 m cho thấy là hợp lý. Nếu trồng mật độ dầy hơn năng suất tối đa đạt nhanh hơn nhưng vốn đầu tư ban đầu về giống và công lao động cao. Mật độ có thể từ 400-700 cây /ha.

Đào hố trồng cây: vùng ĐBSCL có thuỷ cấp cao và ảnh hưởng bởi triều nên cần phải lên mô thay vì đào hố. Lân, vôi, phân chuồng bón một tháng trước khi trồng. Sau khi trồng xong cần sử dụng thuốc trừ mối, kiến trên mặt đất trồng cây .Bằng cách này không những phòng trị được mối mà còn cả nhưng côn trùng chích hút và ăn lá.

Bón lót: để cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây Ca cao trong thời gian đầu, nên trộn chung vào đất hỗn hợp phân bón gồm 100gram super lân + 50gram phân tổng hợp 20-15 – 20 + phân hữu cơ để lấp đầy hố trống và quanh bầu cây.

Giống: ca cao là cây dài ngày nên việc chọn giống là rất quan trọng, không đúng sẽ thiệt hại lâu dài hoặc phải mất từ 3-5 năm và tốn nhiều công của thời kỳ kiến thiết cơ bản nếu quyết định thay đổi giống khác tốt hơn. Ca cao có 03 nhóm giống chính là Forastero, Crillo và Trinitario. Giống hiện có ở Bến tre là giống Forastero và con lai giữa Forastero cùng Trinitario

3. Trồng và chăm sóc

Cách trồng: Sau khi hố và cây con đã chuẩn bị xong, dùng dao bén cắt bỏ phần đáy bầu và phần rễ cái bị cong. Đặt nguyên bầu đã cắt đáy vào hố. Lấp đất lại xung quanh bầu, nén chặt lại và từ từ kéo nhựa ra khỏi bầu đất. Không nên lấp đất trồng cây con quá sâu, cây con sẽ khó phát triển, nên lấp bằng mặt bầu là tốt, nên trồng cây vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.

Tưới nước: Nguồn nước tưới từ sông hồ hay nước giếng, tưới theo hàng hay tưới từng cây nhưng không nên tưới lúc trời nắng to. Khi cây còn non, tránh dùng vòi nước phun thẳng vào cây vì có thể gây đỗ ngã. Trường hợp cây đang trổ bông hay có trái non cũng cần để tránh vòi nước phun vào hoa, trái sẽ ảnh hưởng đến thụ phấn và gây rụng trái non. Nên kết hợp bón phân trước khi tưới nước thì hiệu quả sẽ cao hơn.

Bón phân: trong năm đầu tiên tổng lượng phân bón cho mỗi cây từ 150 – 200 gram phân tổng hợp NPK. Trong năm thứ hai lượng phân tăng lên vào khoảng 300-400 gram, năm thứ ba là 500-600 gram. Từ năm thứ tư trở đi lượng phân còn lại khoảng 800-1.000 gram/gốc. Lượng phân được chia ra bón nhiều lần trong mùa mưa.

Trong những năm đầu lượng phân cần chôn quanh gốc nhưng khi cây đã giao tán vào thời kỳ kinh doanh chỉ cần rãi trên mặt là được, sau đó đậy bằng lá mục vốn có sẳn trong các vườn ca cao.

Tỉa cành – tạo tán: điều chỉnh cây phát triển cân đối, cành vươn đều mọi hướng, tán lá thông thoáng để giảm thiểu sâu bệnh, chiều cao cây hợp lý dễ chăm sóc và thu hoạch. Việc tạo hình, tạo tán còn tuỳ thuộc vào cây trồng từ hạt, hay cây ghép.

Hạt ca cao 

Cây trồng từ hạt: Chỉ cần giữ 1 thân chính, điều chỉnh tầng cành đầu tiên có độ cao 1,5 – 2 m từ mặt đất. Khi cây phân cành và điều chỉnh các yếu tố giới hạn (tưới nước, bón phân, che bóng…). Bằng cách nầy có thể đưa vị trí phân cành lên thêm khoảng 50 cm khi cây phân cành trở lại. Khi cây đã giao tán, nên tỉa thông thoáng vùng thân chính và chung quanh điểm phân cành để kích thích phát triển trái và hạn chế sâu bệnh.

Cây ghép: Do mầm ghép lấy từ cành ngang nên cây không phát triển tầng cành mà phát triển theo dạng bụi có nhiều thân (có từ 3-7). Các nhánh phụ ở phần gốc, cành bị che khuất hay mọc hướng xuống cần được tỉa bỏ để tạo sự thông thoáng cho cây, hạn chế sâu bệnh, kích thích ra hoa và tiện cho việc chăm sóc thu hoạch. Tỉa bỏ hoàn toàn các cành thứ cấp trong khoảng 1 m cách mặt đất khi cây vào giai đoạn kinh doanh.

Nguồn: Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Hải Dương: Cam ngon bón bằng Đậu Tương, Ngô Sạch

Vườn cam đường nhà anh Phạm Văn Triệu (Hải Dương) sai trĩu, quả đều tay, ngọt lừ. Đó là vì cây được tưới bằng nước sạch ngâm ngô, đậu tương.

Vườn cam sai trĩu quả của gia đình anh Triệu

Không bón cây bằng Kali, phân đạm hay các kiểu truyền thống khác, ở những vườn cam đường tại Hải Dương, người ta không ngạc nhiên khi các chủ vườn đổ hàng tạ ngô, đậu tương ngâm trong những hố nước sạch lớn. Tưới bằng nước này, những trái cam ở đây vừa ngọt vừa có vị thơm ngon hơn nhiều vùng khác.

Vườn cam nhà anh Phạm Văn Triệu (Vũ Xá, Thất Hùng, Kinh Môn, Hải Dương) rộng trên 1 ha. Cả nghìn gốc cam, cây nào cũng sai trái. Trái cam nào cũng đều tay to như nắm đấm.

Anh Triệu cho biết, gia đình anh đã trồng cam đường 7 năm nay. Cam đang vào mã, chỉ 2 tháng nữa là cho thu hoạch.

Nhưng, bất ngờ nhất là nhà anh Triệu tưới cây bằng nước sạch ngâm ngô, đậu tương. Anh chia sẻ: “Sau một thời gian mày mò, thử nghiệm, tôi phát hiện ra tưới cam bằng nước ngô, đậu tương ngâm sẽ tăng vị ngọt và vị thơm cho quả. Từ năm 2009 đến nay, nhà tôi thường xuyên áp dụng cách này. Với 1.000 gốc cam, mỗi năm tôi phải bỏ ra 5 đến 6 triệu tiền ngô và đậu tương”.

So sánh cây cam bón bằng kali và cam bón bằng ngô, đậu tương, nhiều người thấy rõ sự khác biệt. Cam bón bằng kali cũng có vị ngọt nhưng ăn xong có vị hơi chát ở cổ. Trong khi đó, cam được bón bằng ngô và đậu tương cho mùi thơm, ăn xong vị ngọt còn lưu lại. Chính vì thế, hàng chục chủ vườn cam tại đây hiện đều áp dụng phương pháp này.

Cũng giống như anh Phạm Văn Triệu, gia đình ông Hậu (Thái Thịnh, Kinh Môn, Hải Dương) cho hay, gia đình ông có 40 gốc cam lần đầu ra quả. Để trái được thơm ngon, ông đã đầu tư 40 kg ngô và 15 kg đậu tương, với chi phí khoảng 400.000 đồng, để ngâm nước tưới cho cây trong thời điểm cam vào mã.

Theo các chủ vườn cam lâu năm, một tháng tưới cho cam hai lần, duy trì như vậy liên tục trong 2 tháng đến khi cam xuất bán.

Anh Phạm Văn Triệu cho biết, hiện giá cam đường bán tại vườn đã ở mức 45.000-50.000 đồng/kg. Thương lái đến tận vườn đặt và hái quả, các chủ vườn không phải đi bán.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Làm ngọt Bưởi Diễn bằng bột Đậu Tương

Ngày nay, bưởi diễn được trồng rộng rãi ở rất nhiều tỉnh thành trên cả nước. Tuy nhiên để có màu sắc và vị ngọt như ở đất diễn thì còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân. Có 3 nguyên nhân chính: thứ nhất là do giống bưởi diễn không phải bưởi diễn xịn, thứ hai là do khí hậu, thổ nhưỡng của từng vùng và thứ ba là do kỹ thuật chăm sóc cây bưởi diễn còn chưa tốt.

Sau khi chăm sóc cây bưởi diễn thời kì sau thu hoạch đúng cách như: cắt tỉa cành và tán, sử dụng chế phẩm sinh học, phân bón để kích thích cây bưởi phát lộc và ra hoa tăng tỷ lệ đậu quả… thì đến bước tiếp theo là tạo ngọt cho quả. Để tạo ngọt cho trái bưởi ta dùng:

Phân đơn Kali

kali có vai trò làm tăng khả năng đề kháng của cây cũng như làm cho bộ rễ chắc khỏe, hấp thụ tốt chất dinh dưỡng… Tạo độ ngon ngọt lẫn màu sắc của trái. Sử dụng Kali vào thời điểm trước thu hoạch để làm tăng độ ngọt đậm đà của bưởi và sau khi thu hoạch để giúp cây phục hồi độ sinh trưởng.

Đậu tương ngâm thối

Đậu tương ngâm thối được rất nhiều nhà vườn trồng bưởi lựa chọn vì nó cung cấp đầy đủ lượng dinh dưỡng cần thiết cho cây, giúp cây phát triển ổn định tươi tốt.

Ngâm đậu tương thối

Đặc biệt khi sử dụng phân bón đậu tương thì múi bưởi thường có vị ngọt hơn so với sử dụng kali.

Kỹ thuật ngâm đậu tương

  • Bước 1: Xay hạt đậu tương
  • Bước 2: Chuẩn bị thùng phi có nắp đậy hoặc bể chứa có lắp đậy kín để tránh mùi khi đậu tương lên men.
  • Cho đậu tương và dung dịch EM2 (dung dịch điều chế phân bón đậu tương) vào thùng phi hoặc bể chứa.
    • Với 100kg đậu tương ta cần bể chứa khoảng 700l nước.
    • 100kg đậu tương ta đổ 120l EM2 vào và khuấy đều. khuấy lại sau 12h và lặp đi lặp lại trong khoảng 2 – 3 hôm.
    • Sau 2 tuần ta đổ thêm 300l nước và 120l EM2  vào bể khuấy đều.
    • Sau 30 ngày ta có thể đem phân ra bón cho bưởi.

Thời vụ bón phân đậu tương 

Tháng 10 khi quả bưởi đã đạt kích thước tối đa và bưởi đang tập trung dinh dưỡng vào độ ngọt của trái. Thời gian này việc tạo ngọt cho trái bưởi diễn trở lên cần thiết hơn bao giờ hết. Đây chính là lúc mang đậu tương đã ngâm ra sử dụng.

Bón đậu tương cho bưởi diễn vào tháng 10

Lưu ý: Không nên bón sớm vì khi bón đậu tương ngâm sớm sẽ làm cây bưởi nhiều chất dinh dưỡng quá khiến quả bị to nhưng ộp dẫn đến chất lượng kém.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Trồng Đậu Tương hè thu lấy giống

Theo Cục Trồng trọt, dự kiến diện tích gieo trồng đậu tương vụ đông năm nay của các tỉnh khu vực phía Bắc sẽ tăng cao, khả năng thiếu giống, đặc biệt là các giống chất lượng cao.

Khuyến cáo của các nhà chuyên môn là, các địa phương cần khẩn trương thu hoạch đậu tương xuân và tranh thủ các chân đất tốt, điều kiện tưới tiêu thuận lợi để tiếp tục gieo trồng thêm vụ đậu tương hè thu nhằm cung cấp đủ giống cho vụ sản xuất đậu tương đông sắp tới.

Đậu tương (đậu nành)

Xin giới thiệu “Quy trình tóm tắt sản xuất đậu tương giống vụ hè thu” của Viện Di truyền Nông nghiệp để bà con và các địa phương tham khảo, áp dụng.

– Giống: Bà con có thể sử dụng các giống DT 84, DT 96, DT 2001 nguyên chủng do cơ quan tác giả – Viện Di truyền Nông nghiệp hoặc của các công ty, cơ quan có thẩm quyền sản xuất giống nguyên chủng cung cấp để gieo trồng trong vụ hè thu nhằm lấy giống cho sản xuất vụ đông sắp tới.

Đây là các giống đậu tương có tiềm năng năng suất cao, có tính thích ứng rộng, có thể trồng được cả 3 vụ xuân, hè, đông (vụ hè giảm 1/2 lượng đạm, chỉ nên tập trung cho bón lót, nếu đất tốt không cần bón đạm, tiết kiệm chi phí). Ngoài ra, có thể sử dụng các giống đậu tương khác như: DT 76, DT 80, DT 83, DT 92, DT 93, DT 94, DT 99, TL 75, HL 92, HL 2, AK 06, DT 2000…

– Tiêu chuẩn hạt giống: Hạt giống phải lấy ở cây khỏe mạnh, thuần chủng, đúng giống, nhiều quả có 2-3 hạt, khi chín ít bị tách vỏ. Chọn hạt mẩy, không sâu bệnh, độ nẩy mầm phải đạt >90%. Trước khi gieo bà con nên phơi lại bằng các dụng cụ đựng như nong, nia, cót; tránh phơi trên sân gạch hoặc sàn xi măng dưới nắng gắt sẽ làm hạt chảy dầu, giảm sức nẩy mầm.

– Thời vụ: Gieo từ 15-6 đến 15-7.

– Chọn và làm đất, gieo hạt: Chọn các chân đất tốt, chủ động tưới tiêu, cát pha, ít chua. Với vụ hè, hè thu, gặt và giải phóng lúa xuân trước 26-5 đến 6/6 dương lịch; ngô xuân phải giải phóng trước 1/7. Có thể làm đất toàn diện (cày bừa với đất khô) hoặc làm đất tối thiểu (với đất ướt) nhưng phải cày thành luống để thoát nước nhanh, tránh bị ngập úng.

Gieo thưa với mật độ 20-25 cây/m2 để tránh đổ trong vụ hè. Số hạt thừa nên gieo thêm 0,5-1m2 mạ ở đầu bờ để dặm sau 7 ngày, khi cây con chưa có lá nhặm. Gieo xong phủ một lớp rơm rạ, bẹ ngô vừa để giữ ẩm, vừa chống mưa to xói trôi hạt giống. Sau khi gieo nếu gặp mưa to, ngày hôm sau dùng bàn cào cào nhẹ để phá váng giúp cho hạt không bị chầm dưới đất ẩm.

– Bón phân, chăm sóc: Lượng phân bón cần cho 1 sào (360m2): 300 kg phân chuồng hoai mục + 4 kg đạm +15 kg phân lân + 5 kg phân kali + 10 kg vôi bột (nếu đất chua). Với đất khô, bón lót toàn bộ phân chuồng + lân hoặc NPK vào rạch, lấp nhẹ, gieo hạt bên cạnh, cách phân 5cm, lấp hạt sâu 1-2cm.

Trường hợp đất ướt, bón toàn bộ phân chuồng được trộn thêm trấu và đất bột theo tỷ lệ 1:1 để lấp hạt. Xới xáo làm cỏ lúc cây mới có 3 lá thật, xới xáo kết hợp bón thúc toàn bộ lượng đạm và phân kali còn lại hoặc NPK và vun cao gốc lúc cây có 5-6 lá thật. Nếu cây phát triển kém do bị úng, hạn cần pha nước phân chuồng ngâm với lân và đạm urê pha loãng tưới 2-3 lần.

– Thu hoạch, để giống: – Khử lẫn để loại bỏ cây khác dạng vào 3 giai đoạn lúc cây 8 ngày tuổi, khi ra hoa rộ và trước khi thu hoạch.

– Thu hoạch lúc 1/2 số quả có vỏ đã chuyển sang khô. Thu hoạch vào những ngày nắng ráo. Có thể xử lý cho rụng lá trước khi thu hoạch 1 tuần bằng các biện pháp như: ngâm nước, phun ethrel hoặc nước muối, phân kali…

Cắt gốc, rải trên sân phơi 1 nắng, đưa vào nơi khô ráo, xếp dựng cây đứng không được đắp đống cao trên 0,5m, ngày thứ 3 đem phơi tiếp 1 nắng rồi đập lấy hạt đợt 1 để làm giống. Số còn lại ủ tiếp 2 ngày, đập lấy hạt, phơi khô còn độ thủy phần 10-13% đem vào cất giữ, bảo quản làm đậu thương phẩm.

Nguồn: nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Hưng Yên: Vườn chanh bonsai được trồng bằng Đậu Tương

Giống chanh ngoại nhập, được chăm sóc hữu cơ của anh Nguyễn Hữu Hà bán chạy dịp Tết.

Vườn chanh của anh Nguyễn Hữu Hà

Hơn 1.700 gốc chanh tứ quý của anh Nguyễn Hữu Hà (xã Tân Dân, Khoái Châu, Hưng Yên) sau nhiều năm chăm sóc, tạo thế bonsai đã được tung ra thị trường vào dịp Tết Nguyên đán này.

“Từ kinh nghiệm truyền thống dùng hạt đậu tương và cây đậu tương bón cho hoa, cây trầu không, tôi đã triển khai mô hình chăm sóc hữu cơ cho vườn chanh của mình, với thành phần chính nấm vi sinh, phân chuồng hoai mục, bột đậu tương, hạt đậu tương luộc ủ lên men”, anh Hà nói.

Bột đậu tương chứa rất nhiều chất dinh dưỡng cho cây chanh

Bột đậu tương là chất dinh dưỡng quan trọng để nuôi cây. Mỗi cây chanh bón 5 gram đậu tương thì có thể chơi 3 tháng mà không phải chăm bón gì thêm.

Cây chanh cảnh giá từ 2 đến 60 triệu đồng. Cây giá cao thường là trồng lâu năm, thế bonsai đạt thẩm mỹ cao, quả to vàng, có hoa, quả xanh, cây không xước.

Chanh vàng xuất xứ ngoại lai nhưng lại phù hợp với vùng đất Bắc Bộ. Cây sinh trưởng và chống chịu sâu bệnh tốt, không tốn công chăm sóc.

“Tôi đã tạo ra các cây chanh thế bonsai từ nhỏ cho đến cây cao 3 mét dành cho mọi nhu cầu người chơi. Đây là giống chanh từ Australia, ra quả quanh năm, quả tồn tại trên cây đến 6 tháng nên vừa để chơi trong ngày Tết vừa có thể dùng được lâu dài”, anh Hà nói.

Nghệ nhân tạo thế cho cây chanh cảnh với nhiều biểu tượng, như địa danh đất mũi Cà Mau, hay hình ảnh 5 anh em trên một chiếc xe tăng, những bàn tay xòa cụp…

Giống chanh vàng nhìn rất đẹp mắt

Cây giống sau khi trồng dưới đấ 6 tháng thì chuyển lên chậu cho rễ cây thích nghi không gian nhỏ và chất đất, cũng như cân bằng chế độ dinh dưỡng. Thân cây chanh giòn nên phải làm cho thân nóng lên mới uốn được thế mong muốn, quá trình uốn nắn tạo thế mất khoảng 3 năm.

Anh Hà đang chăm sóc cho vườn chanh

Quá trình chăm sóc hữu cơ nên chủ vườn hầu như không cần bón hoặc phun thuốc cho chanh, chỉ cần tưới nước. Toàn bộ 1,7 ha đất của anh Hà trồng 4.700 gốc chanh nhưng dịp Tết chỉ có 1.700 cây đủ tiêu chuẩn xuất đi, những gốc khác cần thời gian hoàn thiện dáng và cân bằng chế độ dinh dưỡng.

Bên cạnh tác dụng làm cảnh, quả chanh có giá bán từ 40.000 đồng mỗi cân

Hiện 1.000 cây chanh của anh Hà đã có người đặt mua, đây đều là những cây chanh thế có tuổi đời ít nhất 3 năm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chăm sóc Đậu Tương đông

Đến thời điểm này cây đậu tương đông đã được trên dưới 1 tháng (tuỳ theo địa phương, tuỳ theo giống…), hiện đang bước vào giai đoạn chuẩn bị ra hoa, do đó chúng tôi chỉ đề cập đến một số điểm chính trong kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch để bà con tham khảo, áp dụng.

Cây đậu tương non

Với các tỉnh phía Bắc đậu tương có thể trồng được 2 vụ chính cho hiệu quả cao: Xuân hè và vụ đông do đó bà con có thể tham khảo thêm các tài liệu về giống, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh v.v… được đăng tải thường xuyên trên báo Nông nghiệp Việt Nam và các báo địa phương trước khi vào vụ hoặc thông qua các Phòng Nông nghiệp, Trạm Khuyến nông huyện, Sở Nông nghiệp, Trung tâm Khuyến nông và Chi cục BVTV các tỉnh để được cung cấp tài liệu và tư vấn thêm về kỹ thuật. Do khuôn khổ bài báo có hạn, chúng tôi giới thiệu một số kinh nghiệm của bà con Hà Tây trong những năm gần đây thông qua tài liệu của TT Khuyến nông Hà Tây và Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam:

Chăm sóc

Do gieo vãi nên cây mọc không đều, bà con nhổ bớt những chỗ mọc dày để trồng dặm lại những chỗ thưa nhằm đảm bảo mật độ (45-55 cây/m2 với các giống trung ngày, 55-65 cây/m2 với các giống ngắn ngày) sẽ cho năng suất cao nhất. Công việc cấy dặm lại phải xong trước 15 ngày sau gieo. Dặm xong cắt rạ phủ kín gốc và tưới nước đủ ẩm. Thường xuyên dẫn nước tưới đủ ẩm cho đậu sinh trưởng, phát triển tốt, nhất là thời kỳ ra hoa, nuôi quả lớn. Chú ý khơi thông mương rãnh để thoát nhanh nước sau mưa to, không để ruộng bị úng ngập.

Lượng phân bón tính cho 1 sào Bắc bộ gồm: 200kg phân chuồng hoai mục, 3kg urê, 10kg phân lân, 3kg phân kali. Phân chuồng ngâm vào hố ở góc ruộng để pha tưới dần cùng với phân hoá học. Bón thúc lần 1 khi đậu có 1 lá thật (là lá đầu tiên bên trên 2 lá mầm) bằng cách pha 5kg lân + 1,5kg đạm + nước phân chuồng hoà đều để tưới vào gốc. Thúc lần 2 khi đậu có 3-4 lá: Pha 5kg lân + 1,5kg đạm + 1,5kg kali + nước phân chuồng hoà đều để tưới. Thúc lần 3 khi đậu có 5-6 lá: Pha 1,5kg kali còn lại + nước phân chuồng hoà đều để tưới. Chú ý các đợt bón thúc phải kết thúc xong 23 ngày sau khi mọc, không bón quá muộn làm ảnh hưởng đến việc ra hoa, đậu quả và chất lượng hạt sau này.

Phòng trừ sâu bệnh

Vụ đông ít sâu bệnh hơn vụ xuân hè, tuy nhiên cần chú ý phát hiện và phòng trừ kịp thời một số đối tượng sau: Sau khi gieo 9 ngày (5 ngày sau mọc) pha Dipterex 2/1.000 cộng với 1/1.000 Padan 95SP (bình bơm 10 lít pha 2g Dipterex + 1g Padan) phun kỹ để chống dòi đục thân. Sau 3-5 ngày phun kép lần 2 (cây có 7-8 lá thật) để trừ sâu ăn lá, có thể kết hợp phun thêm các chế phẩm phân bón qua lá để tăng năng suất hạt.. Khi đã tắt hoa phun trừ sâu đục quả bằng thuốc Ofatox, Regent… nồng độ 2/1.000. Dùng thuốc Zineb, Tilsupper để phòng trị bệnh rỉ sắt, sương mai, đốm nâu hại lá. Dùng Validamicin để trị bệnh lở cổ rễ khi cây còn nhỏ. Ngoài ra chú ý diệt trừ sâu khoang hại lá, hại hoa bằng cách bắt bằng tay hoặc đặt các bẫy Pheromone, bẫy chua ngọt có pha thuốc trừ sâu và chuột đồng hại quả vào cuối vụ.

Thu hoạch

Khi thấy lá đậu đã vàng, một số rụng xuống gốc, quả khô là thu hoạch được. Nếu đậu đã già mà lá xanh còn nhiều thì có thể phun nước muối, phun ethrel hoặc xả nước vào ngâm chân 2-3 hôm rồi rút cạn nước cho lá rụng hết dễ thu hoạch.

Đậu tương sắp được thu hoạch

Chọn ngày nắng ráo cắt sát gốc, phơi tại ruộng cho khô bớt rồi vận chuyển về phơi trong nong, nia, vải bạt đập lấy hạt. Cũng có thể dùng máy tuốt lúa để tuốt lấy hạt, phơi khô (độ thuỷ phần khoảng 13%), quạt sạch đem bảo quản nơi khô mát hoặc đem tiêu thụ.

Nguồn: Khoahoc.tv được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh hại sâu và thuốc trừ sâu vi sinh áp dụng cho ruộng trồng Đậu Tương (Đậu Nành)

Bệnh hại sâu là một thành phần chính trong thiên địch tự nhiên. Thiên địch tự nhiên gồm loài ăn thịt và loài ký sinh. Loài thiên địch đóng vai trò rất quan trọng, nó luôn giữ sâu hại ở dưới ngưỡng tổn thất kinh tế. Bệnh hại sâu đặc biệt rất hiệu quả trong phòng trừ sâu bộ cánh vảy (Lepidoptera).

Nấm ký sinh rất phổ biến trên diện tích trồng đậu tương, trong đó Nomuraea rileyi (Farlow) là loại phổ biến nhất. Nấm này thường ký sinh gây dịch hại đối với sâu non của sâu xanh, sâu đo, sâu xanh hại ngô và sâu róm. Sâu bị chết lúc đầu có màu trắng sau đó chuyển sang xanh với nhiều bào tử. Nấm Entomophthora gammae Weiser ký sinh trên sâu non của sâu đo. Sâu bị chết có hai dạng, một dạng mất màu, nhăn nheo, một dạng màu đen và cứng.

Phòng bệnh hại cây đậu tương là một trong những yếu tố quan trọng để bảo vệ, chăm sóc đậu tương phát triển tốt

Vi khuẩn Bacillus thuringiensis:

Berliner là một loại thuốc trừ sâu vi sinh (microbial insectiside) có ích, dùng để phòng trừ sâu xanh, sâu đo và sâu róm. Tuy nhiên sau khi phun thuốc từ hai hoặc nhiều ngày sau mới chết, cho nên nông dân ít dùng. Một vài loại virus như virus đa diện (Nucleo polyhedrosis NPVS) có hiệu quả trong phòng trừ các loại sâu bọ cánh vảy: sâu đo, sâu róm, sâu đục quả.

Thiên địch ăn thịt và ký sinh:

Thiên địch tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc giữ mật độ sâu ở dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Không có chúng ta phải dùng thuốc nhiều lần để kiềm chế sâu ở dưới ngưỡng gây tổn thất kinh tế. Những năm gần đây, nhiều nước đã quan tâm đến sử dụng thiên địch tự nhiên, hạn chế sử dụng thuốc hoá học. Ở nước ta ngay từ những năm 1980 đã nghiên cứu và sử dụng ong mắt đỏ trong phòng trừ sâu hại và gần đây là các loại thuốc trừ sâu vi sinh.

Loài ăn thịt ở đậu tương là loài đa thực, nó ăn nhiều loại sâu khác nhau. Nó thường ăn trứng và sâu non trước khi chúng gây hại. Reed và cộng sự (1984) thấy rằng 25% trứng sâu xanh ngô bị loài ăn thịt ăn sau khi đẻ trên lá đậu tương ở ngoài đồng một ngày (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Loài ăn thịt chủ yếu là con trưởng thành của Notoxus monodon (F) và Lebia analis (Dejean) và sâu chưa trưởng thành của một số loài thuộc bộ cánh cứng.

Biện pháp canh tác cây đậu tương (đậu nành):

Nhiều biện pháp canh tác như thời gian gieo trồng, sinh trưởng của cây, khoảng cách mật độ cây…có thể đóng vai trò quan trọng trong phòng trừ sâu hại. Ở Mỹ gieo trồng sớm các giống thuộc nhóm V, có thể tránh được sâu xanh ngô hại đậu tương ở vùng Bắc Carolina. Ngược lại ở Nam Carolina, gieo trồng giống thuộc nhóm V hoặc Vi thường bị sâu xanh ngô hại nặng. Trong khi đó, những giống gieo muộn thì ít khi đùng thuốc. Khoảng cách trồng có tác dụng điều khiển sâu xanh ngô bởi vì sâu trưởng thành thích đẻ trứng ở trong ruộng đậu tương tán thoáng. Như vậy, trồng dày sẽ hạn chế sâu xanh ngô. Mật độ sâu xanh tăng nếu trồng xen ngô với đậu tương, bởi vì thế hệ đầu sâu ăn ngô, sau đó chuyển sang đậu. Sâu đo đậu tương thường không gây hại nghiêm trọng đối với đậu tương ở vùng không có bông, nếu có bông bướm sâu đo do hút mật ở hoa bông và đẻ trứng tới mức tối đa. Sâu nở ra sẽ sang hại đậu tương trồng bên cạnh. Giảm cày bừa tăng vụ có thể ảnh hưởng tới bọ cánh cứng Mêhicô, châu chấu chân đỏ và các loại sâu khác. Dùng bẫy bằng giống dễ mẫm cảm có tác dụng thu hút sâu bệnh và hạn chế ảnh hưởng với giống chính.

Dùng giống đậu tương (đậu nành) kháng sâu bệnh:

Dùng giống kháng sâu bệnh là biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất trong quản lý sâu hại đậu tương. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định mức đề kháng nhiều loại sâu hại đậu tương. Lông đậu tương có tác dụng chống bọ nhảy (Empoasca fabae). Lông gây khó khăn cho đẻ trứng và ăn hại của sâu. Lông cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của loài chân đốt trên đậu tương.

Chương trình chọn giống chống sâu gần đây được đẩy mạnh hơn, các nguồn gen chống sâu xanh ngô, cánh cứng, sâu đo đậu tương, sâu đo bắp cải hại đậu (Trichoplusiani Hubner), rệp và ruồi trắng khoai lang (Bemisia tabaci) đã được xác định để phục vụ cho chương trình chọn tạo giống.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Quản lý sâu hại tổng hợp (IPM) trên cây Đậu Tương (đậu nành)

Quản lý sâu hại tổng hợp là kết hợp các phương pháp hoặc chiến thuật vào chiến lược phòng trừ thích hợp cho từng vùng. Hiện nay, chương trình phòng trừ sâu bệnh ở đậu tương chủ yếu là vào diệt trừ tạm thời việc bùng nổ của sâu hại mà nó đã đạt được hoặc vượt ngưỡng gây hại kinh tế. Điều này có thể thực hiện hoặc sử dụng thuốc trừ sâu.

Đậu tương (đậu nành)

Phương pháp này yêu cầu xác định mật độ sâu trên đồng ruộng, ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây và đồng thời đánh giá mức hại do sâu đã gây ra. Thông tin này có được qua các phương pháp theo dõi. Dựa trên kết quả theo dõi, người quản lý dùng ngưỡng và sơ đồ quy định để xác định việc phun thuốc hay không. Thuốc trừ sâu phải dùng ở mức độ thấp nhất và chỉ khi mật độ sâu đến mức gây thiệt hại kinh tế. Để có biện pháp phòng trừ sâu thích hợp, thì phương pháp theo dõi, phương pháp dự đoán và kế hoạch rất cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra quyết định trong việc phòng trừ sâu hại.

Theo dõi cây ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Để xác định được lịch theo dõi hợp lý, ta cần hiểu đặc điểm phát sinh và gây hại của chúng. Thí dụ nếu sâu hại chính trong vùng là rệp thì chú ý theo dõi từ giai đoạn hình thành quả, vì rệp ít khi xâm nhập vào đồng ruộng trước giai đoạn hình thành quả. Theo dõi để cung cấp một số thông tin sau:

– Mật độ của sâu hại và trạng thái của tác nhân tự nhiên phòng trừ chúng (ký sinh, loài ăn thịt, bệnh, khí hậu, thời tiết).

– Số liệu về trạng thái cây trồng và mức độ gây hại hiện tại.  Cần phải đánh giá quần thể sâu hại:

Có nhiều phương pháp để đánh giá mật độ sâu, nhưng không một phương pháp nào cho hiệu quả như nhau đối với tất cả các loại sâu ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng cây. Có nhiều tài liệu nói về các phương pháp lấy mẫu đối với sâu hại đậu tương, nhưng phương pháp thực tế nhất áp dụng trong chương trình IPM là theo dõi trực tiếp, để xác định trực tiếp và mức độ gây hại từ khi cây mọc tới giai đoạn bốn lá (V4) hoặc năm lá (V5) sau đó dùng phương pháp lưới vét để đánh giá chính xác mật độ.

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau

 

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau

Trong kế hoạch cần có thông tin về thiên địch tự nhiên và đặc biệt khả năng bị bệnh. Công việc này có thể khó khăn bởi vì nó cần xác định thiên địch tự nhiên hoặc ở ngoài đồng ruộng, hoặc ở trong phòng thí nghiệm.  Để có kế hoạch phòng trừ cần có những số liệu về cây trồng. Mức hại trên đồng ruộng là chỉ tiêu cuối cùng khó theo dõi nhất. Chẳng hạn khó đánh giá mức độ lá rụng. Phương pháp mang tính thực tiễn nhất là đánh giá bằng mắt. Tuy nhiên, phương pháp này biến động nhiều giữa những người đánh giá. Những người đánh giá phải được huấn luyện kỹ. Để làm được việc này, cây hoặc từng lá chết, với mức độ rụng lá được đo trước một cách cẩn thận và dùng để so sánh bằng mắt với mẫu lấy ngẫu nhiên ngoài đồng ruộng.

Dự báo tình hình sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Theo dõi là biện pháp quan trọng quản lý sâu ở đậu tương. Tuy nhiên cuối cùng việc chấp thuận chương trình quản lý của người nông dân tuỳ thuộc vào hiệu quả của các biện pháp theo dõi, đánh giá và sự đơn giản của phương pháp. Ở hầu hết các diện tích trồng đậu tương, sâu hại xuất hiện rải rác cả về thời gian, không gian và có nhiều năm không cần dùng thuốc sâu. Nhìn chung, cải tiến khả năng dự báo cung cấp cho người trồng ngay từ đầu vụ những thông tin về khả năng sâu hại, sẽ thúc đẩy người nông dân chấp nhận các phương pháp theo dõi và quản lý sâu bệnh. Dự báo dựa trên mô hình nhưng bắt đầu xây dựng mô hình cần thu thập số liệu về mật độ diễn biến sâu hại theo vùng.

Xác định biện pháp phòng trừ sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Sau khi theo dõi, người ta có thể đưa ra một số tiêu chuẩn để xác định chiến lược phù hợp cho phòng trừ sâu hại ở điều kiện nào đó. Hầu hết các chương trình quản lý sâu bệnh này sử dụng mức độ tổn hại kinh tế và áp dụng liều lượng và thuốc trừ sâu tối thiểu có ích, qua cái gọi là mô hình quyết định tĩnh, nó thường gồm sơ đồ sử dụng dễ dàng cho nông dân.

Tuy nhiên, nếu nông nghiệp hiện đại ngày nay yêu cầu xác định một cách chính xác các thông số cần thiết cho việc đưa ra một quyết định kinh tế đúng. Điều này có thể được qua sử dụng một mô hình cơ động gồm quần thể sâu bệnh và giai đoạn sinh trưởng cây.

Mô hình bao gồm tác dụng tổng hợp của thuốc sâu, bệnh và thiên địch tự nhiên. Thông tin càng nhiều, mô hình càng trở nên hiện thực, và sẽ giúp cho việc xây dựng một kế hoạch thực hiện tốt hơn. Phòng trừ sâu hại đậu tương hiện nay chủ yếu là ngăn chặn tạm thời sự bùng nổ của sâu bệnh khi chúng đạt tới mức hoặc vượt ngưỡng kinh tế. Để có kết quả, việc phòng trừ cần kết hợp tất cả các thông tin về mật độ sâu.

Thuốc hoá học phòng trị sâu hại đậu tương (đậu nành):

Thuốc hoá học chỉ là phương tiện tạm thời ngăn chặn sự bùng nổ của sâu lá, việc dùng thuốc đúng liều lượng, theo đúng hướng dẫn của chuyên môn thì nó không có hại tới người dùng và môi trường. Hiện nay, thuốc sâu là xương sống của hệ thống phòng trừ tổng hợp và nó vẫn tiếp tục như vậy cho tới khi một phương pháp phòng trừ mới ra đời.

Mặc dù, hầu hết thuốc hoá học được sử dụng hợp lý và an toàn. Song cũng có một vài trường hợp lạm dụng thuốc quá nhiều, ở liều lượng cao gây ảnh hưởng đến môi trường và con người, đôi khi còn tăng thêm mật độ sâu do quen thuốc. Những kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ở nồng độ thuốc thấp cũng đủ để phòng trừ sâu hại và cho phép các thiên địch tự nhiên có lợi sinh sống bình thường.

Nghiên cứu thuốc trừ sâu đậu tương phải khuyến khích nghiên cứu về loại mới và phương pháp sử dụng trong hệ thống phòng trừ tổng hợp để bảo vệ môi trường và bảo vệ thiên địch tự nhiên. Hiện nay có rất nhiều loại thuốc trừ sâu hại đậu tương như: Dipterex, Ofatox, Sutin 5EC, Tanggo 800WG, Azodin, Basudin, Dimecron, Match 050EC, để phun phòng trừ (Bộ NN & PTNT, 2002; Trần Văn Hùng, 1992).

Thông thường sau khi cây mọc được 5 ngày, nên dùng Dipterex 2‰ cộng với l‰ Padan 95SP (bình bơm 10 lít pha 2g Dipterex +lg Padan) phun kỹ để chống đối đục thân. Khi cây có 7 – 8 lá thật để trừ sâu hại lá phun kép lần 2 thuốc Dipterex 2‰ cộng với 1‰ Padan 95SP. Lần phun này có thể phun thêm các chế phẩm phân bón và chất kích thích qua lá để tăng năng suất hạt. Khi cây tắt hoa phun thuốc trừ sâu đục quả bằng thuốc Ofatox hoặc Regent với nồng độ 2‰.

Nguồn: camnangcaytrong.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Xác định thời vụ gieo trồng Đậu Tương (Đậu Nành)

Đậu tương (đậu nành) là một trong những cây trồng lý tưởng trong việc luân canh, xen canh và gối vụ với nhiều loại cây trồng khác nhằm khai thác một cách hiệu quả tiềm năng của đất đai, lao động vật tư, công cụ lao động… lại vừa góp phần cải tạo và bồi dưỡng đất, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích. Nhiều bà con dân tộc vùng núi từ lâu đã có tập quán trồng nhiều cây đậu nành (đậu tương) xen canh với cây sắn, nhãn, vải và các cây khác như cây ngô vừa giải quyết được lương thực vừa có đậu nành (đậu tương) cung cấp dinh dưỡng lại có tác dụng bảo vệ và cải tạo đất rất tốt, chống xói mòn, rửa trôi.

Đậu tương (đậu nành)

Những vùng có tập quán canh tác hai vụ lúa, một vụ đậu nành (đậu tương) đông thì vụ lúa mùa sớm cần thu hoạch trước 15 – 20/9 để bà con kịp thời vụ đậu nành (đậu tương) đông. Ngược lại những vùng có tập quán trồng đậu nành (đậu tương) hè giữa hai vụ lúa cần thu hoạch lúa xuân sớm để có thể gieo trồng đậu nành (đậu tương) vào cuối tháng 5 đầu tháng 6.

Các thời vụ trồng đậu tương (đậu nành):

1. Vụ xuân

* Vùng đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc

Gieo trồng từ 15/1 đến 15/3 không nên gieo muộn để tránh khi đậu nành (đậu tương) làm quả gặp mưa và nắng to.

* Vùng khu 4 cũ

Do nhiệt độ thường ẩm hơn nên gieo từ 20/1 đến 10/2 để tránh gió Tây cuối tháng 4.

* Vùng Tây Bắc Bắc Bộ

Thường bị rét kéo dài và kết thúc muộn hơn nên gieo từ 1/3 đến 20/3

* Vùng từ Quảng Bình đến Bình Thuận

Có thể gieo từ 10/1 đến 30/1

* Vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Gieo cuối tháng 2 đầu tháng 3

2. Vụ hè

* Ở các tỉnh phía Bắc

– Trên đất màu gieo từ 25/5 đến 20/6 đối với giống ngắn ngày. đối với một số tỉnh có tập quán trồng đậu nành (đậu tương) hè giữa 2 vụ lúa thì thời vụ gieo phải gieo từ 15/5 đến 15/6, nên sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng ngắn như: ĐT12, DT99…

* Các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Gieo từ 25/4 đến 10/5.

3. Vụ hè thu

* Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc

Đây là vụ đậu nành (đậu tương) chính gieo từ 10/7 đến 25/7 vì không ảnh hưởng đến cây trồng sau.

* Đối với các tỉnh Quảng Bình, Quảng trị, Thừa thiên- Huế

Gieo từ 15/6 đến 10/7

* Đối với các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Tranh thủ gieo trong mùa mưa gieo từ 1/8 đến 15/8 thu hoạch cuối tháng 10 đầu tháng 11, ở thời điểm này trùng với thời tiết khô hanh nên rất thuận lợi cho việc thu hoạch.

* Vùng Tây Nguyên Nam Bộ

Gieo từ 15/5 đến 31/5

4. Vụ đông

* Đối với các tỉnh đồng bắng sông Hồng

Gieo từ 20/9 đến 5/10, nếu sử dụng các giống trung ngày chịu rét có thể gieo đến 10/10. Gặt lúa mùa xong tranh thủ gieo đậu nành (đậu tương) ngay để tận dụng những điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, ẩm độ của đầu vụ. Đậu nành (đậu tương) đông càng gieo muộn cây sinh trưởng càng kém và năng suất càng thấp.

* Các tỉnh Duyên hải miền Trung

– Đối với đất chuyên trồng màu và đất bãi ven sông sau khi nước rút có thể trồng sớm từ 15/9 đến 20/9.

– Trên đất ruộng cao nên gieo kết thúc trong tháng 10.

* Vùng đồng bằng sông Cửu Long

Gieo chủ yếu vào mùa khô gieo trong thàng 12 thu hoạch vào tháng 2.

Căn cứ vào đặc điểm và cơ cấu cây trồng xác định mùa vụ trồng thích hợp để cây đạt được năng suất tối ưu. Chúc bà con thành công!

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.