1. Bệnh lùn xoắn lá
Bệnh lùn xoắn lá đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam năm 1977 ở Cai Lậy Tiền Giang. Đến vụ Hè thu năm 1978 bệnh đã phát triển gây hại trên hầu khắp các tỉnh phía Nam. Bệnh lùn xoắn lá làm giảm năng suất nghiêm trọng do chiều cao cây, chiều dài lá và rễ bị giảm nhiều. Bông lúa trổ không thoát và tỷ lệ lép cao.
Bệnh lùn xoắn lá ở lúa
Triệu chứng
– Cây lúa bị bệnh lùn lá còn xanh và bị xoắn, cây sinh trưởng chậm. Trên ruộng lúa phát triển không đều, mép lá có thể bị rách hình răng cưa gân lá có màu vàng lợt, trắng, hoặc nâu đậm.
– Cây lúa trổ muộn và trổ không thoát, có trường hợp bong lúa bị quăn và đâm xuyên qua bẹ lá. Ở cây lúa bệnh thường có mọc nhiều chồi trên đốt thân. Bông lúa ngắn và tỷ lệ lép cao. Các nhánh con đều là nhánh vô hiệu.
Tác nhân gây bệnh
– Bệnh lùn xoắn lá do virus gây ra, rầy nâu là môi giới truyền và lây lan virus vào cây lúa do chích hút.
– Virus có dạng hình khối cầu, thường tập trung ở những phần non trên cây vì vậy các dảnh cấp 2 và 3 bị nặng hơn dảnh cấp.
– Bệnh không lây qua hạt cũng như các biện pháp cơ giới.
– Rầy nâu ở tuổi 4 – 5 truyền bệnh mạnh nhất, sau khi đã chích hút ở cây lúa bệnh 2 – 5 ngày, chỉ sau 5 phút chích hút là rầy nâu có thể truyền được bệnh sang cây lúa khỏe.
– Khi bị truyền virus 5 – 32 ngày sau cây lúa có biểu hiện bệnh. Sau khi virus có trong cơ thể rầy nâu sẽ tồn tại trong con rầy cho tới cuối đời của con rầy.
– Virus lùn xoắn lá còn gây hại và tồn tại trên cỏ lồng vực và cỏ đuôi phụng. Bệnh gây hại quanh năm khi có cây lúa, tuy nhiên thời gian có nhiệt độ từ 25 – 26°C là thích hợp nhất cho bệnh phát triển.
– Trên ruộng lúa bón nhiều đạm bị bệnh nặng hơn. Phân đạm là nhân tố ảnh hưởng cả đến bệnh và côn trùng truyền bệnh. Nhìn chung khi bón bất kỳ loại phân nào cũng đều làm tăng mức độ bệnh.
Biện pháp phòng trừ
Không có thuốc hóa học đặc trị bệnh lùn xoắn lá cho nên phải tuân theo hướng dẫn sau:
– Sử dụng các giống lúa kháng rầy nâu.
– Khi bệnh mới xuất hiện cần nhổ bỏ để tránh lây lan.
– Vệ sinh đồng ruộng, cày ải diệt lúa chét vì là nguồn bệnh cho vụ sau.
– Thời vụ sạ đồng loạt cây lúa sinh trưởng đồng đều hạn chế sự di chuyển của côn trùng môi giới.
– Bố trí sản xuất luân canh hai lúa một màu.
– Phân bón cân đối hợp lý.
– Dùng các biện pháp hoá học phòng trị rầy nâu như applaud, Bassa, Mipcin. Áp dụng tiêu chuẩn 4 đúng trong bảo vệ thực vật.
2. Bệnh đốm vằn
Bệnh đốm vằn trên lúa hay còn gọi là bệnh ung thư, được phát hiện và mô tả đầu tiên vào 1910 ở Nhật Bản, sau đó bệnh này cũng được ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới. Bệnh đốm vằn là một trong những bệnh gây hại quan trọng trên ruộng lúa nước ở nước ta và các nước trồng lúa trên thế giới.
Bệnh đốm vằn ở lúa
Nguồn: Internet
Triệu chứng
– Bệnh thường xuất hiện từ 40 ngày sau khi sạ tới khi lúa trổ. Đầu tiên là những vết bệnh xuất hiện trên bẹ lá ở gần gốc lúa, đôi khi lây trực tiếp qua lá từ những cây bị bệnh xung quanh.
– Các vết bệnh lúc đầu có hình hơi tròn hoặc bầu dục có màu xanh xám, tâm có mày trắng xám và xung quanh màu nâu; kích thước vết bệnh thay đổi thường dài từ 1-3 cm. Khi gặp điều kiện thuận lợi các vết bệnh phát triển và liên kết lại hình thành nên những vết bệnh vằn vện không có hình dạng nhất định nên gọi là bệnh đốm vằn.
– Ở trên ruộng lúa, bệnh thường xuất hiện gần mặt nước ruộng, sau đó bệnh phát triển lên các bẹ và lá phía trên hay lây sang những cây xung quanh. Có nhiều hạch nấm được hình thành ngay gần vết bệnh. Đầu tiên hạch nấm có màu trắng khi già chuyển sang màu nâu. Hạch nấm già sẽ rơi xuống đất và trôi nổi trên mặt nước, đây là nguồn lây lan bệnh từ nơi này sang nơi khác hoặc từ vụ này sang vụ tiếp theo.
Tác nhân gây bệnh
– Bệnh đốm vằn do nấm Rhizoctonia solani Kuhn gây ra, là bệnh hại quan trọng đối với lúa cao sản ngắn ngày. Bệnh có thể gây hại ở tất cả các vụ trong năm, thường gây hại nặng ở vụ Đông Xuân. Bệnh nhẹ thì làm tăng tỷ lệ lem lép hạt, gây đổ ngã, làm giảm năng suất. Bệnh nặng sẽ làm cây lúa chết và có thể gây thất thu năng suất lên đến 25%.
– Nấm R. solani còn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như: gây bệnh chết cây con đối với đậu nành, đậu xanh, cà chua; gây bệnh đốm vằn, chết cây con trên cây bắp, … Vì vậy các loại hoa màu trồng luân canh trên đất lúa thường dễ bị nhiễm bệnh do nấm R. solani gây ra.
– Nấm R. solani có thể sống, phát triển hầu hết trên tất cả các loại cỏ dại, hạch nấm rơi xuống đất có thể tồn tại rất lâu và có khả năng gây bệnh trở lại sau một thời gian dài trong điều kiện tự nhiên. Do đó bệnh thường xuyên xuất hiện trên ruộng lúa.
Biện pháp phòng trừ
– Làm cỏ xung quanh ruộng, trong ruộng và kênh mương dẫn nước.
– Gieo sạ với mật độ thích hợp (150-200 kg/ha sạ bằng tay, 80-100 kg/ha sạ bằng máy sạ hàng).
– Sử dụng phân bón thích hợp (dùng bảng so màu là lúa, bón phân cân đối theo quy trình bón phân).
– Sử dụng thuốc hóa học: Validamycin 3DD, 5 DD (SL); Bonanza 100 DD (SL); Monceren 25BTN(WP), 250DD(SL); Anvil 5DD(SL).
3. Bệnh đạo ôn
Là một bệnh nguy hiểm đối với cây lúa. Hiện nay hầu hết các giống lúa đang được trồng phổ biến trong sản xuất (đặc biệt là những giống có chất lượng gạo ngon đạt tiêu chuẩn xuất khẩu) lại là những giống nhiễm hoặc kháng yếu với bệnh đạo ôn.
Vì thế, nếu gặp thời tiết phù hợp, cây lúa đang ở giai đoạn xung yếu đối với bệnh, mà ruộng lại bón thừa phân đạm, thì bệnh có thể hủy diệt cả ruộng lúa chỉ trong vài ngày.
Bệnh đạo ôn ở lúa
Triệu chứng
Đạo ôn có thể gây hại nhiều bộ phận phía trên mặt đất của cây lúa từ lá, đốt thân, cổ bông đến gié lúa, hạt lúa,…
– Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu ở giai đoạn mạ-đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ nhỏ như đầu mũi kim, màu xám xanh giống như bị nước sôi, sau đó chuyển sang màu nâu, rồi lan rộng dần ra thành hình thoi, xung quanh màu nâu đậm, giữa màu xám trắng. Nếu nặng, nhiều vết bệnh liên kết lại với nhau làm lá bị cháy khô, cây lúa bị lụi xuống, ruộng lúa sẽ bị thất thu nghiêm trọng.
– Trên cổ bông, đốt thân lúa: Nấm bệnh tấn công trên đốt thân, trên cổ bông. Chỗ bị bệnh lúc đầu có màu xám xanh, sau chuyển dần sang màu nâu, nâu đậm. Trên cổ bông, nếu ẩm độ không khí cao, chỗ vết bệnh sẽ mọc một lớp nấm mốc màu xám xanh, nếu trời khô vết bệnh sẽ khô tóp lại. Gặp gió to chỗ vết bệnh bị gẫy gập, ruộng lúa trở nên xơ xác. Do cản trở việc vận chuyển chất dinh dưỡng từ cây lúa lên nuôi hạt, làm cho hạt lúa bị lép lửng. Nếu nặng bệnh có thể làm cho hạt lúa bị lép hoàn toàn.
– Trên hạt: Vết bệnh có hình đốm tròn, viền nâu, tâm mầu xám trắng, đường kính khoảng 1-2 mm. Nếu nặng có thể làm cho hạt lúa bị lem lép lửng.
Biện pháp phòng trừ
– Để hạn chế tác hại của bệnh, bà con cần kiểm tra ruộng lúa thường xuyên (đặc biệt là những ruộng gieo cấy giống nhiễm như một số giống lúa thơm, những ruộng lúa tốt lốp,…) để kịp thời phát hiện và có biện pháp phòng trị kịp thời.
– Khi phát hiện thấy chớm có bệnh, bà con phải ngưng bón đạm, không để ruộng bị khô nước. Đồng thời tiến hành phun xịt thuốc ngay.
– Về thuốc có thể dùng một trong các loại thuốc như: Vifusi 40ND; Fuji-one 40EC; Vihino 40ND; Vikita 50ND,… trong các loại thuốc trên thì Fuji-one 40EC có tính lưu dẫn cao, ngoài đặc tính trị bệnh đạo ôn lá và cổ bông Fuji-one 40EC còn có tác dụng phụ kích thích bộ rễ phát triển giúp cho cây lúa hấp thu nhiều dinh dưỡng và cây trở nên to khỏe chống chịu được bệnh tốt hơn làm tăng năng suất thực tế cao hơn.
– Khi sử dụng thuốc bà con phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng, đặc biệt là phải đủ lượng nước như khuyến cáo của nhà sản xuất để nước thuốc được trải đều trên toàn bộ ruộng và cây lúa. Trường hợp bệnh nặng hoặc điều kiện thời tiết nhiều sương mù, ẩm cao,… thuận lợi cho nấm phát triển thì bà con nên phun thuốc nhắc lại 2 đến 3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày để hiệu quả trừ bệnh đạt hiệu quả. Tuyệt đối không pha thêm những loại phân bón lá có tỷ lệ đạm cao phun xịt cùng với thuốc.
– Đối với những ruộng sắp trỗ đến trỗ lẹt xẹt, nếu thấy thời tiết thuận lợi cho bệnh (ban đêm lạnh, đêm và sáng sớm có nhiều sương mù, trời âm u, ít nắng,…) thì bà con nhớ phun một đợt thuốc ngừa bệnh tấn công trên cổ bông, bông và hạt lúa, và phun tiếp lần hai sau đó khoảng 10-15 ngày (phun vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát để không ảnh hưởng đến thụ phấn của bông lúa).
Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.