Mô hình trồng ngò gai cho thu nhập khá

Thấy cây ngò gai (ngò tàu, ngò tây) có hiệu quả kinh tế khá cao, có thể cải thiện đời sống cho gia đình mình, nên chị Lê Thị Đức, ở khối 1A, thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn) đã mạnh dạn đầu tư kéo điện, sử dụng mô tơ bơm nước giếng để chủ động trồng 2 sào ngò gai trong vườn nhà.

Chị Đức thu hoạch ngò gai

Nhờ tìm hiểu kỹ thuật và qua kinh nghiệm từ thực tế của bản thân về chăm sóc, bón phân, phòng ngừa sâu bệnh hại cho cây trồng, nên vườn ngò gai của chị luôn tươi tốt. Chị Đức cho biết, đặc điểm của cây ngò gai là chịu rập, do đó có thể bố trí trồng xen canh với các loại cây màu, cây lâu năm khác. Cây ngò gai ít bị ảnh hưởng của thời tiết, canh tác không theo mùa vụ nên có thể chủ động trồng được 2 vụ/năm. Tuy nhiên nếu không tìm hiểu kỹ cách chăm sóc thì không phải ai cũng trồng tốt được, đã có nhiều người trồng nhưng không thành công.

Đất ít, con đông nên vợ chồng chị Đức vừa làm ruộng, chăn nuôi lại vừa phải tất bật trồng ngò gai để kiếm thêm thu nhập trang trải chi tiêu trong gia đình. Trồng hoa màu thì tốn công nhưng hiệu quả cao, nên hơn 1 năm nay gia đình chị theo đuổi và gắn bó với cây ngò gai. Với giá hiện nay khoảng 40.000 đồng – 60.000 đồng/kg lá ngò gai, sau khi trừ chi phí người trồng có lãi hơn 10 triệu đồng/sào/vụ 3-4 tháng.

Nguồn: Nghenong.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tiền Giang: Khá lên nhờ trồng ngò gai và rau húng cây

Đến ấp 5 (xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành), người ta sẽ nhìn thấy những ruộng rau xanh mượt chạy dài theo con lộ dal vào xóm. Hỏi ra mới biết đây là ruộng rau của tổ hợp tác rau an toàn do ông Chín Trưng làm tổ trưởng, đã hình thành từ năm 2006 đến nay.

Anh Quốc đang chuẩn bị đất trồng rau.

Tổ hợp tác có 30 hộ tham gia, mỗi hộ đăng ký sản xuất thấp nhất 1.000 m2, nhiều nhất 2.000 m2. Trồng các loại rau màu, nhưng chủ lực là cây ngò gai, rau húng cây, xen vào đó là hành lá, cải bẹ ngọt và rau tía tô, nhằm lấy ngắn nuôi dài.

Do được hướng dẫn kỹ thuật của ngành Khuyến nông, chăm sóc đúng quy trình, Công ty bao tiêu sản phẩm đầu ra, sản xuất vì thế mà có lời. Từ đó, kinh tế gia đình của nhiều hộ trồng màu vươn lên khá giả. Trong số này có anh Nguyễn Văn Quốc, nhờ trồng cây ngò gai và rau húng.

Diện tích ban đầu anh trồng là 4.000 m2 trên đất ruộng nhà, sau làm ăn khá, anh thuê thêm 3.000 m2. Trên diện tích trên, anh trồng được nhiều loại rau, chủ yếu là cây ngò gai và rau húng.

Tiếp chúng tôi, anh Quốc cho biết, làm rẫy cực lắm, công việc đồng áng cứ quần quật mỗi ngày, bắt đất quay vòng liên tục. Nhưng bù lại, khi sản phẩm đạt năng suất, bán được giá, thu nhập nhiều tiền, cũng thấy ham, cái cực khổ cũng dần quên đi.

Nói về sản xuất cây ngò gai, mỗi năm anh trồng 2 lứa trên diện tích 4.000 m2, do chăm sóc tốt, năng suất đạt từ 3 tấn/1.000 m2 trở lên. Giá bán cũng tùy lúc, thấp nhất 6.000 đồng/kg, lúc cao hút hàng giá đến 22.000 đồng/kg. Bình quân 1 công ngò gai có vụ thu từ 25 – 30 triệu đồng.

Còn 3.000 m2 trồng rau húng cây, cứ 2 tháng cắt 1 lần (1 năm cắt 6 lần), năng suất rau tốt đạt 1,5 tấn/1.000 m2. Còn trung bình thì khoảng 700 – 800 kg/1.000 m2. Giá dao động thấp nhất 5.000 đồng/kg, cao nhất 20.000 đồng/kg. Riêng các loại rau trồng xen như ngò gai xen tía tô, mỗi công thu cũng khoảng 1 tấn/1.000 m2 rau tía tô, giá 20.000 – 25.000 đồng/kg.

Ngoài trồng rau, anh còn tận dụng ao nuôi cá tai tượng, mỗi lần thả nuôi khoảng 2.000 con. Do cho ăn phụ phẩm rau trong vườn nên không tốn kém nhiều tiền thức ăn. Cá có trọng lượng từ 800 gram đến 1 kg, bán giá 40.000 đồng/kg, thu hơn 50 triệu đồng. Tổng các nguồn thu trên khoảng 300 triệu, sau trừ chi phí hàng năm còn dư trên 200 triệu đồng.

“Nhờ sự cần cù lao động, chịu thương chịu khó, bám với ruộng đồng, giờ đây kinh tế gia đình anh Quốc đã vươn lên khá, cuộc sống ổn định, nhà cửa xây dựng khang trang, tiện nghi đầy đủ”. Đó là nhận xét của ông Chín Trưng, tổ trưởng tổ rau an toàn ấp 5.

Nguồn: Báo Ấp Bắc được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng và bón phân cho cây ngò gai

Cây ngò gai thuộc cây thân thảo, thấp. Thân đơn độc, chia cành ở ngọn. Cây cao trung bình khoảng 1 5 – 25 cm.

Lá mọc ở gốc, xoè ra hình hoa thị, lá ngò gai hình mác thuôn dài, 2 bên mép của phiến lá có nhiều răng cưa nhỏ, rộng dần về phía ngọn lá. Cuống lá mọc trực tiếp từ gốc cây, ngò gai phát triển phân thành nhiều tầng lá khác nhau. Hoa của ngò gai mọc từ trục thân, hoa hình bầu dục hay hình trụ. Khi trưởng thành, hạt rụng và phát tán.

Công dụng:

Ngò gai vừa làm gia vị, vừa là nguồn dược liệu quý giá từ xưa đến nay. Ngò gai được xem như loại rau dùng để ăn sống hoặc chế biến với những loại thực phẩm khác để kích thích ăn ngon miệng vì mùi thơm nhẹ nhàng của chúng.

Ngoài ra, ngò gai còn được dùng để làm thuốc như chữa sổ mũi, đau tức ngực, chữa rối loạn tiêu hoá, viêm ruột… Chữa hôi miệng: Lấy một nắm rau ngò gai sắc đặc lấy nước, cho thêm vài hạt muối vào rồi súc miệng. Dùng liên tục 5-6 ngày, mỗi ngày súc miệng vài lần, bệnh sẽ khỏi.

Lá ngò gai có tác dụng làm giảm đường huyết, đối với những người có bệnh đái tháo đường, khuyến cáo nên dùng thường trong các bữa ăn.

Kỹ thuật trồng:

Cây ngò gai rất dễ trồng, dễ chăm sóc. Ưu điểm của nó là chịu rập, do đó có thể bố trí trồng xen canh với các loại cây màu, cây lâu năm khác. Trồng xen vậy vừa tiết kiệm lượng phân, thuốc, tận dụng diện tích đất sản xuất và còn tăng thu nhập, “lấy ngằn nuôi dài”.Cây ngò gai ít bị ảnh hưởng của thời tiết, canh tác không theo mùa vụ,, nên người dân có thể chủ động mùa vụ và trồng được 2 vụ/năm.

a. Giống:

Trồng ngò gai chủ yếu bằng hạt. Hạt ngò gai dễ mọc nên gieo thẳng trực tiếp trên luống, liếp. Lượng hạt giống từ 3 – 5 kg cho 1.000 m2 .
Gieo xong rải thuốc trừ kiến, dế, mối trong đất và phủ lên trên một lớp rơm mỏng để tạo ẩm độ giúp hạt nẩy mầm nhanh. Tưới nước để giữ ẩm độ. Khoảng một tuần sau, hạt nẩy mầm.

b. Đất trồng:

Ngò gai là một loại cây tương đối dễ trồng, thích hợp với nhiều loại đất khác nhau. Tốt nhất là đất nhiều mùn, giàu dinh dưỡng, thoát nước tốt.

Trước khi gieo hạt nên cày bừa làm đất thật nhỏ.

Lên liếp, rộng 1 – 1,2m, cao 15 – 20cm, chiều dài liếp tuỳ theo kích thước vườn. Các liếp cách nhau 0,3 – 0,4m.

c. Bón phân: (Tính cho 1.000m2)

Bón lót: Bón trước khi gieo, ngay sau khi lần làm đất sau cùng. Bón 100 – 150kg phân hữu cơ sinh học Better HG01 và 20 – 25kg Better NPK 16-12-8-11+TE

Sau khi rãi phân xong, xới đất lại lần nữa để trộn phân vào đất.

Bón thúc: Sau khi gieo hạt khoảng 2 tuần: 2kg Urê Đầu Trâu 46 A+ và 10kg super lân, kết hợp với việc tỉa dăm cây.

Có thể bón phân bằng cách pha vào nước rồi tưới. Sau khi tưới phân, nên tưới lại một lần bằng nước lã để rửa sạch phân bám dính trên lá. Do đọt non của cây ngò gai nằm sát với mặt đất, vì thế không được để cho đất cát, bùn bao phủ trên đọt non dễ làm cho đọt bị thối chết.

d. Tưới nước:

Ngò gai dễ sống, ít sâu bệnh hại nên việc chăm sóc chủ yếu là tưới nước và bón phân.
Cây ngò gai ưa ẩm ướt vì thế phải thường xuyên tưới nước cho cây, đảm bảo cho đất luôn đủ ẩm, nếu đất bị khô hạn sẽ làm cho cây còi cọc, sinh trưởng phát triển kém. Nhưng cũng cần có hệ thống thoát nước tốt để chống úng cho ngò gai mỗi khi có mưa to và kéo dài.

e. Thu hoạch:

Tùy mục đích sử dụng (dùng ăn sống hoặc làm thuốc). Nếu dùng ngò gai để ăn sống thì sau khi trồng khoảng 2 tháng là có thể nhổ để sử dụng. Thời gian thu hoạch kéo dài từ 4 – 6 tháng. Năng suất từ 3,5 – 4 tấn/công (1.000m2 ).

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Một số bệnh quan trọng trên cây Ớt

Dưới đây là một số bệnh hại trên cây ớt và biện pháp phòng trừ

1. Héo rũ gốc mốc trắng

– Tác nhân gây bệnh: Do nấm Sclerotium rolfsii.

– Triệu chứng bệnh: Triệu chứng điển hình của bệnh được thể hiện rõ nhất từ khi cây ra hoa – hình thành quả – thu hoạch. Nấm xâm nhiễm vào phần thân cây sát mặt đất, vết bệnh lúc đầu nhỏ màu nâu tươi hơi lõm, về sau vết bệnh lan rộng có thể dài tới vài centimet bao quanh thân, gốc, lan rộng xuống tận cổ rễ dưới mặt đất. Mô vết bệnh dần dần bị phân hủy, các lá dưới gốc héo vàng và rụng trước, sau đó lan lên các lá phía trên, cuối cùng dẫn tới các lá héo rũ, cây khô toàn thân. Khi cây mới nhiễm bệnh thì rễ cây vẫn bình thường, sau đó rễ dần dần hóa nâu, thâm nâu và thối mục.

Trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, ẩm độ cao thì trên bề mặt vết bệnh sát mặt đất sẽ xuất hiện lớp nấm màu trắng phát triển mạnh, sợi nấm mọc đâm tia lan dần ra mặt đất chung quanh gốc cây, tạo thành một đốm tản nấm màu trắng xốp, một vài ngày sau trên tản nấm đó sẽ hình thành nhiều hạch nấm. Khi còn non hạch có màu trắng sau chuyển dần sang màu nâu giống hạt cải. Bệnh xuất hiện có thể rải rác hoặc từng vạt trên ruộng tùy theo điều kiện ngoại cảnh đất đai và quá trình chăm sóc.

– Đặc điểm phát sinh gây hại của bệnh

Đây là loại nấm đa thực gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau, phát sinh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ cao nhưng thích hợp nhất là nhiệt độ 25-30oc. Hạch nấm có thể tồn tại 5 năm trong đất khô nhưng chỉ tồn tại 2 năm trên đất ẩm. Sợi nấm chỉ sống được vài tuần và chết khi nguồn dinh dưỡng được sử dụng hết. Nấm gây bệnh được bảo tồn trong đất và các tàn dư cây trồng bằng hạch nấm hoặc sợi nấm, có khả năng sinh sống và nảy mầm ở độ sâu khoảng 5-8cm, nếu bị vùi lấp sâu hơn sẽ không có khả năng nảy mầm. Nấm không thể tồn tại trên đất bỏ hoang khoảng 2 năm. Sự có mặt của tàn dư cây trồng chưa bị phân hủy trên ruộng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và xâm nhiễm của nấm bệnh. Bệnh thường phát sinh nặng hơn khi lượng lá rụng trên ruộng tích tụ quá nhiều chung quanh gốc.

2. Héo rũ thối đen

Do nấm Phytophthora capsici. Bệnh gây hại trên cây ớt trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển. Tùy từng giai đoạn và điều kiện ngoại cảnh khác nhau mà mức độ gây hại của bệnh cũng khác nhau. Ở thời kỳ cây con, vết bệnh lúc đầu là là một chấm nhỏ màu nâu hoặc màu đen ở rễ gốc thân. Sau đó vết bệnh lan lên phía trên làm hại thân lá và lan xuống phía dưới gây hại rễ chính, gây thối rễ, cây chết gục. Khi gặp trời mưa độ ẩm cao toàn cây bị thối nhũn ra, bề mặt mô bệnh thường có một lớp nấm màu trắng.Trời hanh khô cây bệnh nâu đen héo và chết. Khi cây lớn, trên gốc thân có vết màu đen kéo dài về phía trên và dưới. Khi chẻ phần thân thấy lõi có màu nâu đến nâu đen, nhưng đặc điểm này không có ở những vị trí cao hơn.

– Đặc điểm phát sinh gây hại của nấm

Nấm phát sinh gây hại trong phổ nhiệt độ rộng 12-300c. Bệnh phát triển gây hại mạnh khi thời tiết nóng ẩm và đất ướt, lượng mưa lớn hay tưới nước quá mức, nhất là khi trên ruộng đã có cây bị bệnh thì đây là điều kiện để bệnh lây lan ra cả ruộng, vì du động bào tử của nấm gây bệnh có thể bơi được trong nước.

3. Bệnh héo xanh vi khuẩn

Bệnh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra. Bệnh héo xanh thường thể hiện triệu chứng ngay sau khi vi khuẩn xâm nhập vào rễ hoặc phần thân sát mặt đất. Ở cây bị bệnh ban ngày lá cây mất màu nhẵn bóng, tái xanh héo cụp xuống, về ban đêm có thể hồi phục lại. Sau 2-3 ngày lá cây bị bệnh không thể hồi phục được nữa, các lá gốc tiếp tục héo rũ và toàn cây bị héo rũ rồi chết, cắt ngang thân thấy bó mạch dẫn hóa nâu hoặc nâu đen, nhúng đoạn thân vào cốc nước sạch sẽ thấy dịch vi khuẩn chảy ra màu trắng sữa (đây là đặc điểm để phân biệt bệnh do vi khuẩn và các đối tượng gây hại khác). Trong điều kiện ẩm độ cao, thân cây bệnh dần thối mềm, gãy gục.

– Điều kiện phát sinh phát men của bệnh:

Bệnh gây hại mạnh trong điều kiện nóng ẩm, nhất là khi gặp nắng mưa xen kẽ.
Nguồn bệnh vi khuẩn có thể sống trong đất 5-6 năm, còn trên cây ký chủ và trong hạt giống là 7 tháng.

Vi khuẩn chủ yếu tồn tại trong đất, tàn dư cây bệnh để trở thành nguồn bệnh cho vụ sau, năm sau.

Bón đạm quá nhiều, tưới nước quá ẩm, nhất là khi trên ruộng có cây bị bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh lây lan và gây hại.

† Biện pháp quản lý bệnh các loại bệnh trên

+ Dọn sạch tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng.

+ Luân canh với cây không cùng ký chủ, tốt nhất là lúa nước.

+ Chọn hạt giống khỏe sạch bệnh để trồng, giống trên ruộng không bị bệnh.

+ Tránh gây tổn thương rễ trong quá rinh trồng trọt, chăm sóc.

+ Khi trồng cần lên luống cao sâu rộng để dễ thoát nước khi gặp mưa lớn.

+ Bón phân cân đối hợp lý tránh bón đạm quá nhiều.

+ Thường xuyên kiểm tra phát hiện cây bị héo rũ để nhổ bỏ kịp thời, phải hạn chế tưới nước, tránh bệnh lây lan trên ruộng.

+ Sử dụng giống chống chịu bệnh, giống ít bị bệnh.

+ Đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii có thể cày sâu 10-13 cm để vùi lấp hạch nấm và dùng một số loại nấm đối kháng như: Trichoderm, Gliocladium…

+ Biện pháp hóa học thường hiệu quả thấp do tác nhân gây bệnh tồn tại chủ yếu trong đất, xâm nhiễm gây hại ở bộ phận rễ, cổ rễ thân sát mặt đất. Tuy nhiên, trong những trường hợp thực sự cần thiết có thể dùng một số loại thuốc phun để tăng cường sức đề kháng cho cây và hạn chế bệnh lây lan như: Rovral, Viroval, Hạt vàng, Carbendazim, Benlat… (dùng đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii); Aliette, Ridomil, Phosacide… (dùng đối với bệnh do nấm Phytophthora capsici); Streptomycine 50-200ppm, Kasamin, Starner… (dùng đối với bệnh do vi khuẩn).

4. Khi cây ớt bị chết nhanh

Bà con nông dân ở vùng rẫy Long Hồ và Bình Minh có nhiều kinh nghiệm trong phòng trị các bệnh cho cây ớt- cây có giá trị kinh tế cao trong mùa mưa lũ như hiện nay. Trong mùa này, thủy cấp trong nhiều vùng ở đồng bằng dâng cao do đang vào mùa lũ và ẩm độ trong không khí cũng cao (mưa nhiều xen kẽ với nắng), nên không thích hợp với sự phát triển của cây ớt, vì là loại cây thích đất xốp thông thoáng. Bệnh gây thiệt hại lớn thường gặp trong lúc này của cây ớt là bệnh héo rũ khiến cây chết rất nhanh.

Theo bà con, bệnh do nấm gây ra (nấm Pythium sp. Và Fusarium sp.).Mầm bệnh thường lưu tồn trong đất, bã thực vật, nhất là các loại cây có mang bệnh này ở vụ trước. Rẫy ớt bị bệnh này thường là các rẫy thoát nước không tốt và việc luân canh cây trồng không hợp lý, nhất là vụ trước cũng trồng ớt. Trong rẫy ớt bị bệnh, rải rác có những cây có hiện tượng sáng và chiều lá vẫn tươi, nhưng trưa lại héo. Sau đó vài ngày, các cây ớt này nhanh chóng héo hoàn toàn, lá rụng và trái ớt bị giảm kích thước đáng kể. Nhổ cây ớt lên sẽ thấy rễ bị thối và có màu nâu.

Khi phát hiện trong rẫy ớt có hiện thượng này, phải lập tức nhổ bỏ các cây bệnh và tiêu hủy ngay để diệt mầm bệnh, tránh lây lan qua cây khác và cả các loại cây của vụ rẫy sau. Phòng và trị bệnh cho cây ớt lúc này bằng cách phun cho cây các loại phân bón lá giàu Can-xi như Caltrac, BoroCa, Hợp trí CaSi,… và phun các loại thuốc có gốc Fosetyl Alumium, Metalaxyl theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì, kết hợp việc khai nước ra cho ruộng thông thoáng. Trong bón phân, chú ý dùng phân cân đối, nên tăng cường phân hữu cơ, phân hữu cơ sinh học như Super Humic… Sẽ hiệu quả hơn nếu kết hợp với sử dụng các sản phẩm có chứa nấm đối kháng Trichoderma, nhằm tiêu diệt mầm bệnh trên rẫy. Tuy nhiên, biện pháp hóa học không mang lại hiệu quả hữu hiệu nhất, mà phải dùng biện pháp tổng hợp nói trên, chú ý tuyệt đối không dùng hạt giống có mầm bệnh (lấy ở rẫy có cây bị bệnh) và xử lý đất trước khi xuống giống bằng các loại thuốc gốc đồng có bán nhiều trên thị trường.

5. Bệnh thối xám hại ớt

Trong vụ đông, khi nhiệt độ xuống thấp, kèm theo những đợt mưa phùn kéo dài, tạo nên độ ẩm cao là điều kiện thích hợp cho các loại nấm bệnh phát sinh và phát triển, làm cho cây trồng dễ mắc một số bệnh. Gần đây, qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy cây ớt ở một số vùng thuộc các địa phương như Hà Tây, Hải Phòng, Hải Dương đã bắt đầu bị nhiễm bệnh do một loại nấm mốc màu xám gây ra. Bệnh phát triển khá nhanh, ở vùng bãi ven sông có xu hướng nặng hơn ở nội đồng. Đó là bệnh thối xám (gray mold hay botrytis cinerea). Nếu không kịp thời phòng trừ, trong thời gian tới khi có những giai đoạn mưa phùn kéo dài, bệnh sẽ có nguy cơ phát triển trên diện rộng.

Triệu chứng: Có thể tìm thấy các triệu chứng bệnh xuất hiện trên hoa, quả (trái) non, thân và lá ớt, kể cả ở phần cuống quả và đoạn cuống còn sót lại sau thu hoạch. Ngay từ đầu, những cánh hoa nhiễm bệnh sẽ chuyển màu xám và thối. Sau đó những quả ớt non trong diện tiếp xúc với những cánh hoa này sẽ có màu nâu đậm và bắt đầu mềm rũ. Quả non mang bệnh có nhiều khả năng bị rụng sớm. Trong khi đó, những quả ớt lớn hơn cũng có thể bị bệnh thông qua phần cuống của vòi nhụỵ. Quả bị nấm bệnh một thời gian sẽ bị mềm nhũn ra, biến màu nâu và thối. Vết bệnh trên thân cây thường phát sinh từ phần cuống quả của già còn sót lại sau thu hoạch hay do những cánh hoa bị bệnh bay trong gió và rơi xuống. Nấm mốc màu xám xuất hiện trên hầu hết các vết bệnh, nhưng các vết trên thân và lá không có nhiều nấm này như ở cánh hoa và quả non.

Nguyên nhân và điều kiện phát bệnh:

Nguồn gây bệnh ban đầu là các sợi nấm bay tới từ các ruộng bị bệnh ở kế bên, nhất là đầu hướng gió thổi tới, hay của các vụ trước còn sót lại trong đất. Khi gặp điều kiện thuận lợi như đã nhắc tới ở trên, chúng hình thành các bào tử đính (conidia) và bắt đầu phát tán, đồng thời tạo ra các vết bệnh mới. Nhiệt độ thích hợp nhất cho bệnh bùng phát là vào khoảng 14-200C. Bệnh không chỉ gây hại cho cây trồng ngoài ruộng mà còn có thể tấn công cả cây trong nhà lưới hoặc nhà kính của các trung tâm rau sạch.

Phòng trừ:

Khi trồng cần làm đất sạch, tơi xốp, khô thoáng và chọn trồng những cây non khỏe mạnh, không mang bệnh. Trồng ớt với mật độ vừa phải, không nên quá dày. Khi cần tưới nước, chỉ tưới vào gốc, tránh tưới trên tán lá ớt để hạn chế độ ẩm cao. Nếu phun bổ sung phân bón lá thì nên phun vào buổi sáng của ngày nắng ấm để nước dễ bay hơi. Khi nhiệt độ không khí xuống thấp và độ ẩm cao cần lưu ý phun thuốc phòng bệnh. Tốt nhất, nên phun thuốc phòng tối thiểu một lần trước khi bệnh xuất hiện, điều này rất đáng lưu ý trong phòng trừ bệnh nói chung. Sau đó có thể phun từng đợt, cách nhau 7 đến 14 ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và mật độ vết bệnh phát hiện trên ruộng. Khi cây đã bị bệnh, cần xử lý bằng thuốc trừ bệnh. (Báo NNVN đã có dịp giới thiệu về thuốc phòng và trừ bệnh hại cây trồng trên số 1607 ngày 1/4/2003). Nên sớm loại bỏ các lá, quả và thân cây bị nhiễm bệnh vì chúng chính là nguồn gây bệnh cho các cây khoẻ mạnh khác. Có thể kể ra một vài tên hoạt chất (active ingredient) của các thuốc hóa học thường dùng phòng trừ bệnh này như: Folpet, Metalaxyl, Daconil, Benomyl v.v.

6. Bệnh thán thư ớt (còn gọi là bệnh đốm trái – nổ trái)

Triệu chứng bệnh

Vết bệnh lúc đầu là một đốm nhỏ hơi lõm, trên bề mặt vỏ quả. Vết bệnh, thường có hình bầu dục hoặc hình thoi, mầu nâu đen hoặc màu vàng trắng bẩn, kích thước vết bệnh có thể trên dưới 1cm tuỳ thuộc vào giống ớt. Phần ranh giới giữa mô bệnh và mô khoẻ thường có một đường vạch màu đen chạy dọc theo vết bệnh. Trên bề mặt mô bệnh có những chấm nhỏ màu đen đó là đĩa cành của nấm gây bệnh.

Bệnh thán thư làm thối chồi non, chết cây con vườn ươm, đặt biệt làm thối quả, cây bệnh ít quả, kém năng suất và giá trị kinh tế, xuất khẩu. Đặc biệt bệnh thán thư hại ớt cả trong thời kỳ bảo quản sau thu hoạch làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng hạt giống.

Tác nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây bệnh thán thư do nhiều loài nấm thuộc loại Colletotrichum gây ra, trong đó hại phổ biến là 2 loài Colletotrichum nigrum Ell et Hals và C. capsici (Syd) Butler and Bisby. Cả 2 loài nấm này thường cùng phá hại làm thối quả ớt rất nhanh. Về đặc điểm hình thái và sinh học của 2 loài nấm trên có những khác biệt, song về điều kiện sinh thái, chúng đều sinh trưởng phát triển thích hợp ở nhiệt độ 28 – 30oC và ẩm độ cao. Đặc biệt bào tử nấm thán thư có sức sống cao, có khả năng chịu đựng khô hạn, dễ dàng phát tán nhờ gió và côn trùng. Nấm gây bệnh tồn tại chủ yếu ở dạng sợi nấm và bào tử phân sinh trên tàn dư lá, thân cành, quả và hạt ớt bị nhiễm bệnh. Vì vậy tàn dư cây ớt bị nhiễm bệnh và hạt giống cũng là những con đường truyền lan bệnh chủ yếu trong tự nhiên.

Nếu vết bệnh có màu trắng trắng xám, bên trong có nhiều vòng đồng tâm nhô lên và có màu vàng nhạt, trên đó có những chấm nhỏ li ti màu vàng do nấm Colletotrichum spp. gây ra (Colletotrichum gloeosprioides; C. capsici; C. acutatum; C. coccodes).

Nếu vết bệnh có màu đen không có nhiều vòng đồng tâm, trong vết bệnh có nhiều chấm nhỏ li ti màu đen, và chỉ gây hại trên trái chín mà thôi, do nấm Volutella sp. gây ra.

Biện pháp phòng trị

– Xử lý hạt giống bằng KMnO4 (0,1%) trong 1 giờ hoặc xử lý nước nóng 52oC trong 2 giờ.
– Gieo trồng ớt ở mật độ thích hợp.

– Nấm tồn tại trong tàn dư thực vật, thu hái các trái bệnh đem thu huỷ.

– Luân canh, không trồng cây họ cà ớt trong vòng 2 – 3 năm.

– Chọn giống kháng bệnh, tăng cường bón thêm phân chuồng hoai mục cho ruộng ớt.

– Tránh trồng ớt trong mùa mưa. Nếu ớt gặp mùa mưa, xem cách chăm sóc và phòng trừ bệnh thán thư trên ớt trong mùa mưa.

– Phun thuốc Copper B 75 WP, Score 250 EC, Appencarb, FOLPAN 50SC, … nồng độ 0,2 – 0,5% khi bệnh gây hại.

– Bón cân đối NPK, đặc biệt để bổ sung đầy đủ nguyên tố vi lượng cho cây ớt có thể sử dụng chế phẩm Bayfolan khoáng chất 11 – 8 – 6 của Công ty Bayer với liều lượng 50ml/bình 16l. Chế phẩm Bayfolan dễ hấp thụ qua lá, thân, rễ cây, giúp cây ớt tăng sức đề kháng, tăng khả năng đậu quả, không rụng hoa và quả.

Trên cây ớt thường bị phá hại bởi các loại côn trùng, sâu ăn lá, sâu đục quả ớt, tạo các vết thương cơ giới rất thuận lợi cho nấm gây bệnh thán thư xâm nhập phá hại. Vì vậy có thể dùng thuốc Bulldock 025EC liều lượng 0,5 – 1lít/ha diệt sâu hại.

Để phòng trừ nấm gây bệnh thán thư ớt, cần sử dụng kịp thời một số thuốc trừ bệnh chủ yếu sau: Thuốc Antracol 70WP (liều lượng 2kg/ha) phun trực tiếp lên lá, cây hoặc quả khi bệnh mới xuất hiện. Thuốc Antracol 70WP ngoài tác dụng phòng trừ trực tiếp nấm gây bệnh thán thư còn có tác dụng bổ sung nguyên tố vi lượng kẽm (Zn++) tinh khiết cho cây ớt, làm tăng sức đề kháng, xanh và cứng cây, chống rụng hoa và quả, đồng thời làm quả ớt có màu sáng đẹp. Nhờ có vi lượng kẽm, thuốc Antracol 70WP còn phòng trừ rất tốt bệnh vàng lá.

Có thể phun luân phiên thuốc Antracol 70WP (1.5 – 2 kg/ha) với thuốc Nativo 750WG (liều lượng 0,12kg/ha), nhờ tác động kép giữa 2 hợp chất trừ bệnh của thuốc Nativo 750WG giúp cây ớt phòng trừ được tất cả các bệnh nấm hại cây và quả ớt kéo dài.

Ngoài 2 loại thuốc trên, người sản xuất cũng có thể dùng luân phiên với thuốc Melody DUO 66,75WP với liều lượng theo khuyến cáo (1kg/ha).

7. Bệnh chết cây con:

Nguyên nhân: Bệnh do nhiều loại nấm sinh sống và gây hại trong đất như Rhizoctonia solani, Pythium, Fusarium, Phytophthora spp. + Triệu chứng: Bệnh xảy ra trong giai đoạn cây con, triệu chứng dễ nhận diện do phần thân cây tiếp giáp với mặt đất bị thối khô có màu nâu đen, cây bị bệnh không đứng thẳng mà ngả sang một bên, lá rũ, còi cọc và chết. Bệnh chết cây con thường thấy khi ẩm độ và nhiệt độ cao. Bệnh thường xuất hiện khi gieo quá dày, tưới nước quá nhiều nhất là khi gieo hạt mùa mưa mà không có giàn che.Phòng trừ: – Không lập vườn nơi quá ẩm ướt không thoát nước tốt hay vườn tối, không đủ ánh sáng, nên làm giàn có mái che.

– Đất vườn ươm phải xử lý trước khi gieo như xử lý vôi, đốt rơm rạ, phơi nắng trước khi trồng…

– Nên bón phân hữu cơ đã hoai mục, hạn chế bón nhiều phân hóa học nhất là đạm.

– Luân canh với các cây trồng khác họ cà (cà, ớt, khoai tây…) để diệt nguồn bệnh.

– Xử lý hạt giống trước khi gieo: Trộn 10 gr thuốc Carbenzim 50WP trong 1 kg hạt giống hay ngâm hạt vào dung dịch nước thuốc với nồng độ 0,1% (pha 1 gr thuốc/1 lít nước) trong 1 – 2 giờ

– Phun thuốc hoá học: Khi thấy cây chớm bệnh phải phun thuốc trừ bệnh ngay, có thể sử dụng các loại thuốc sau: Carbendazim 500 FL, Mexyl MZ 72WP, Alpine 80WP. Nếu cây nhiễm bệnh nặng 5 – 7 ngày phun một lần

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật lấy hạt giống cây Ớt

Ớt là một loài cây kỳ diệu. Loài cây thú vị này tạo ra nhiều giống ớt đến khó tin, với rất nhiều hình dạng, kích thước, màu sắc, và mức độ cay. Nếu thu hoạch đúng cách, quả ớt là một nguồn hạt giống khả dĩ. Những hạt giống này có thể được cất giữ, bảo quản để tạo ra những cây ớt mới từ các giống ớt ưa thích của bạn cho năm tới.

Chọn quả để lấy được hạt giống khỏe mạnh

Để đảm bảo có cơ hội tốt nhất để lấy được những hạt giống khỏe mạnh, bạn phải đảm bảo rằng quả ớt được chọn đã chín hẳn trước khi hái. Quả ớt có thể cần vài tháng để chín hẳn.

Quả ớt sẽ có màu sắc cuối cùng khi nó chín hẳn, và khi đó là lúc tốt nhất để hái quả lấy giống. Màu sắc cuối cùng thường là đỏ hay vàng, nhưng nhiều giống ớt còn có thể có màu nâu, trắng, hồng/cam, cam, hay màu ngà. Quả ớt còn có thể thay đổi sang những màu khác trong quá trình chín. Một quả ớt còn xanh không thể cung cấp hạt giống khỏe mạnh

Nên chờ đợi thêm vài tuần để quan sát. ớt chín sẽ được bảo quản trên cây ớt, trừ khi bị phá hại, trong một khoảng thời gian dài.

Những quả ớt có hình thức khỏe mạnh, cho dù méo mó hay cân đối một cách hoàn hảo, là một nguồn hạt giống khỏe mạnh. Những quả ớt bị gãy, biến màu, và bị sâu ăn có thể bị bệnh/thối và chỉ nên dùng làm phương sách cuối cùng. Tuy nhiên, nếu không bị bệnh thì chúng cũng có thể là một nguồn hạt giống khỏe mạnh. Nhận thức hiện hành về di truyền học là lấy hạt giống ớt từ quả ớt có hình dạng lạ, hay nhỏ bé hơn sẽ không có bất kỳ ảnh hưởng nào tới các thế hệ tương lai.

Tránh lấy hạt giống ớt từ những cây ớt bệnh, quả ớt bệnh, hay quả ớt bị mềm vì thối rữa hay bị mốc. Một số mầm bệnh/virut có thể được truyền sang thế hệ hạt ớt tiếp theo.

Chiết xuất và sấy khô hạt giống ớt

Cách sất khô hạt giống ớt rất quan trọng nến bạn muốn hạt giống của mình sống lâu và đảm bảo cây ớt tương lai được khỏe mạnh. Độ ẩm dư thừa còn lại trong hạt ớt khuyến khích sức sống của hạt và hạt giống sẽ chậm mất dưỡng chất và khỏe mạnh cho đến khi chết, hay đơn giản là thối rữa. Độ ẩm còn khuyến khích khuẩn mốc, mầm bệnh và nhiễm nấm và có thể truyền sang thế hệ cây tiếp theo nếu hạt giống không được sấy khô vừa đủ. Tài liệu khoa học về việc lấy hạt giống thường nêu ra rằng hạt giống phải được khử nước (sấy khô) cho đến khi lượng ẩm từ 8% trở xuống. Về thuật ngữ thực hành, nếu hạt giống không giòn sau khi sấy, chúng chưa đủ khô!

Hạt giống có thể được sấy khô bằng khí hoặc sấy khô bằng máy sấy. Cả hai phương pháp đều có ưu điểm và hạn chế mặc dù theo quan điểm thực hành, cách thứ nhất là dễ dàng nhất đối với người trồng ớt nghiệp dư và do đó được mô tả chi tiết trong hướng dẫn này.

Quy trình lấy hạt giống:

Bước 1 – Lựa chọn.

Chỉ chọn những quả ớt chín khỏe mạnh

Bước 2 – Chiết hạt

Hãy cẩn thận chiết hạt ớt từ quả ớt và đặt chúng lên một miếng khăn ăn. Khăn ăn sẽ làm khô hạt ớt để khử ẩm và mọi mảnh vụn bám vào hạt. Hãy kiểm tra hạt ớt và loại bỏ bất cứ hạt nào bị gãy hay phai màu ở giai đoạn này.

Bước 3 – Sấy khô

Có thể sấy hạt ớt trong những cốc nhựa đặt trong ngăn hong bát đĩa trong một vài tuần. Hoặc bạn có thể sấy hạt trên một tờ khay giấy ở đâu đó ấm áp (và ngoài ánh nắng mặt trời) và ngoài tầm tay trẻ em. Hãy đảo hạt ớt vài ngày một lần để đảm bảo lớp dưới cùng của hạt ớt được tiếp xúc với không khí. Không khí thoáng đãng rất quan trọng để đảm bảo hạt ớt khô đều và ngăn ẩm lại.

Bước 4 – Kiểm tra

Sau một tuần hãy kiểm tra hạt giống ớt về độ ẩm. Theo quy luật chung, nếu bạn không thể uốn cong hạt ớt thì chúng chưa đủ khô. Hạt ớt khô phải khá giòn và sẽ không có vết răng khi bạn cắn thử.

Điều cốt yếu để bảo quản hạt giống ớt được khỏe mạnh là duy trì nhiệt độ đều đặn và loại trừ độ ẩm dư thừa. Hạt giống được bảo quản đúng cách có thể duy trì sức sống trong nhiều năm mặc dù khả năng nảy mầm có xu hướng giảm xuống qua thời gian. Vì hầu hết các hạt ớt đều giống nhau, nhãn mác rõ ràng là rất cần thiết. Cũng như tên giống, nên ghi chi tiết nguồn hạt giống, ngày lấy giống và tỷ lệ nảy mầm thành công (nếu lô hạt giống này đã được sử dụng trước đó).

Để duy trì khả năng phát triển của hạt ớt, chúng phải được bảo quản ở nơi tối, mát, khô, thích hợp nhất là từ 2-10oC. Một cách thức ưa thích để bảo quản hạt giống ớt là bảo quản ở đáy tủ lạnh. Các điều kiện mát, tối tương tự như tự nhiên giúp làm chậm sự trao đổi chất của hạt giống ớt. Xin nhắc lại, hãy đảm bảo hạt giống ớt được sấy đủ khô trước khi bảo quản trong tủ lạnh vì lượng nước/ẩm dư thừa có thể phá hoại thành tế bào và hạt giống sẽ chết!

Hoặc hạt giống có thể được bảo quản trong một hộp thủy tinh kín gió với một lượng vừa đủ tác nhân chống ẩm như keo Silic hay Gạo. Tránh bảo quản hạt hộp đựng giống ớt ở những chỗ có ánh nắng mặt trời, gần các vật bức xạ nhiệt hoặc ở những nơi có độ ẩm cao.

Nguồn: Trang ớt tiêu được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng ớt tại Việt Nam

Dưới đây là một số kiến thức cơ bản về các kỹ thuật canh tác cây ớt nói chung ở điều kiện môi trường khí hậu và thổ nhưỡng của Việt Nam.

1. Thời vụ trồng ớt:

– Ớt có thể trồng quanh năm ở những nơi có điều kiện thuận lợi;

– Ớt thích hợp nhiệt độ cao từ 25-30oC.

– Ớt có thể trồng được quanh năm nhưng thường tập trung vào 3 vụ chính:

– Ớt Thu Đông: Gieo vào tháng 9 thu hoạch từ tháng 1 đến tháng 3 năm sau.

– Ớt Đông Xuân: Gieo vào tháng 11- 12 thu hoạch từ tháng 2 đến tháng 6 năm sau.- Ớt Xuân Hè: Gieo vào tháng 2-3 thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 8 tháng 9.

2. Giống ớt tại Việt Nam:

Một số giống ớt cay phổ biến đang trồng hiện nay: Ớt Sừng Trâu, Chỉ Thiên, Ớt lai TN 255, TN 256… Về phương pháp trồng ớt ngọt, xem hướng dẫn cụ thể.

3. Chuẩn bị đất trồng.

– Chọn đất để trồng ớt:

+ Đất thoát nước tốt, có cơ cấu thoáng xốp như: Đất cát pha, đất thịt pha sét, đất phù sa ven sông và đất canh tác lúa.

+ Đất không hoặc ít nhiễm phèn mặn, có hàm lượng dinh dưỡng khá, pH đất = 5,5-6,5.

+ Có nguồn nước tưới tốt và giao thông vận chuyển sản phẩm thuận tiện.

Đất chuẩn bị trồng phải được luân canh lúa, bắp, đậu… tối thiểu 3 năm, vụ trước không trồng cây thuộc họ cà như: ớt, cà chua, cà tím,… để phòng nấm bệnh trong đất truyền cho ớt. Đất phải được cày bừa tơi xốp, sạch cỏ và thoát nước tốt. Mùa mưa cần phải lên líp cao kích thước trung bình: mặt liếp rộng 1m, chiều cao 20 – 30cm và mương thoát rộng 40 cm. Nên sử dụng màng phủ nông nghiệp (Plastic) để trồng ớt rất tốt. Dùng màng phủ nông nghiệp chiều ngang 1,2m trồng hàng đôi, cách làm đất, bón lót, trải màng phủ giống như trải trồng dưa hấu.

– Kỹ thuật làm đất:  Làm đất kỹ, cày xới sâu 20- 25cm, phơi ải 10-15 ngày, lên luống cao 20cm, rộng 1m.(có thể cao hoặc rộng hơn tuỳ theo vùng đất)

4. Gieo hạt:

– Ngâm ủ hạt giống:

Lượng hạt giống cần cho 1 ha tùy thuộc vào giống và tỷ lệ nảy mầm, trung bình khoảng 150 – 200g/ha.

Ngâm hạt giống trong nước sạch không bị phèn mặn từ 6 – 8 giờ, sau đó ngâm ướt với thuốc trừ nấm Funomyl (1g thuốc pha với 1 lít nước) trong 30 phút, vớt lên rửa sạch để ráo nước, lấy khăn ẩm gói hạt lại và cho vào bao nylon cột kín miệng để hạn chế bốc thoát hơi nước. Sau cùng đem gói giống ủ ở nhiệt độ từ 27 – 280C. Hầu hết các giống ớt bắt đầu nảy mầm từ 48 giờ sau. Đem gieo những hạt đã nứt mầm, đừng để hạt ra rễ quá dài, cây mầm sẽ lên yếu và khi gieo dễ bị gãy mầm.

Chuẩn bị gieo hạt: Nên gieo hạt vào bầu đất, bầu thường làm bằng nylon hay lá chuối. Thành phần đất trong bầu thông thường có tỷ lệ như sau:

– Đất mặt tơi xốp: 60%

– Phân chuồng hoai mục: 29%

– Tro trấu: 10%

– Phân lân: 0,5 – 1%

– Vôi: 0,2 – 0,3%

Trộn đều các thành phần trên và sàng kỹ để loại bỏ rác và cục đất to trước khi cho vào bầu.

Sau khi gieo hạt vào bầu, rải một lớp mỏng phân chuồng hoai sàng kỹ để lấp kín hạt, rải một lượt thuốc Basudin hạt đề phòng kiến và dế, sâu đất phá hại. Tưới đẫm nước, giữ ẩm để hạt dễ nảy mầm. Chăm sóc cây con phải phòng trừ sâu bệnh tốt, nếu cây thiếu phân có thể tưới NPK, DAP và Urê hoặc phân vi sinh ra rễ Bảo Đắc.

Khi cây có từ 4-5 lá thật (25-35 ngày sau gieo), chọn những cây phát triển tốt, không bị nhiễm sâu bệnh, có thể tiến hành đem ra trồng. Mật độ khoảng cách trồng tùy thuộc vào giống, đất đai và khí hậu, mật độ cao cây sẽ có sự cạnh tranh ánh sáng, phân bón, nhiều sâu bệnh ảnh hưởng đến năng suất.

Khoảng cách trồng – mật độ:

+ Vào mùa khô: hàng đôi cách hàng đôi 1,2 – 1,4m, hàng cách hàng của hàng đôi 0,6 mét, cây cách cây trên hàng 0,6m. Mật độ trung bình từ 1.700 – 1.900 cây/1.000m2.

+ Vào mùa mưa: hàng cách hàng từ 1,2 – 1,4m, cây cách cây trên hàng 0,7m. Mật độ trung bình từ 1.400 – 1.500 cây/1.000m2.

Lưu ý:

– Phun thuốc phòng trừ sâu bệnh (như Thianmectin 0.5ME + Thane M 80WP ở liều nhẹ) 3 ngày trước khi đem trồng.

– Một ngày trước khi trồng phải cung cấp đủ nước để giúp cây con phát triển tốt ngoài đồng.

– Trồng cây con sao cho mặt bầu ngang bằng với mặt đất ngoài đồng. Sau khi trồng nên tưới phân vi sinh ra rễ Bảo Đắc để giúp cây ra rễ tốt và phòng bệnh chết cây con.

5. Chăm sóc ớt:

– Tưới nước: Mùa mưa cần đảm bảo thoát nước tốt, mùa nắng phải tưới nước đầy đủ. Tưới rãnh (tưới thấm) là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. (Chú ý: Khi trên ruộng có cây bị bệnh do các tác nhân gây bệnh ở trong đất thì hạn chế phương pháp tưới này mà chuyển sang tưới hốc hoặc tưới phun và giảm tối đa lượng nước tưới). Trong thời gian cây ra hoa và kết trái cần cung cấp đủ nước để ngăn ngừa rụng bông rụng trái. Tưới quá ẩm hay để quá khô hạn dễ xảy ra các trường hợp sau:

+ Rụng hoa, rụng trái

+ Cây phát triển kém

+ Giảm số bông, giảm chất lượng trái, năng suất thấp

– Tỉa nhánh: Tỉa bỏ các cành, lá dưới điểm phân cành để cây ớt phân tán rộng và gốc được thông thoáng, hạn chế sâu bệnh phát triển – cho năng suất cao. Nên tỉa cành lúc nắng ráo.

– Làm giàn: Giàn được làm bằng cây hay dây ni lông. Giàn giữ cho cây đứng vững, dể thu trái, kéo dài thời gian thu hoạch, hạn chế trái bị sâu bệnh do đỗ ngã. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây lớn ở 2 đầu, dùng dây căng dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, khi cây ớt cao tới đâu căng dây tới đó để giữ cây đứng thẳng.

Cây ớt mang nhiều trái gặp gió mạnh dễ đổ ngã, nên cắm le (cây le dài khoảng 1m) chống đỡ, mỗi cây ớt cắm một cây le, cắm xiên buộc vào thân chính, có thể dùng dây nylon giăng dọc theo hàng để đỡ cành mang trái, hạn chế cành bị gãy khi mang trái nặng.

Bón phân:

– Lượng phân bón (500m2):

+ Phân chuồng: 500 – 1.000kg + NPK: 27- 29kg

+ Phân lân: 25kg + Kali: 10kg

+ Vôi: 50kg + Urê: 10kg

+ Ca(N03)2: 6kg

– Cách bón:

Bón lót (Trước khi trồng): 50kg vôi và 500 -1.000kg phân chuồng hoai, 25kg super lân, 1,5kg Kali, 1kg Calcium nitrat, 5 – 7kg phân NPK (16-16-8). Sử dụng màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, sâu bệnh, giảm hao hụt phân bón, nước tưới

Bón phân thúc: Phân nên chia làm 4 lần bón: (Có thể kéo dài hơn tuỳ theo thời gian thu hoạch).

+ Lần 1: 20 – 25 ngày sau khi trồng: 2kg Urê + 1,5kg Kali + 5kg NPK (16-16-8) + 1kg Calcium nitrat.

+ Lần 2: Khi ớt đã đậu trái đều: 3kg Urê + 2,5kg Kali + 5kg NPK (16-16-8) + 1kg Calcium nitrat.

+ Lần 3: Khi bắt đầu thu trái: 3kg Urê + 2,5kg Kali + 7kg NPK (16-16-8) + 1,5kg Calcium nitrat.

+ Lần 4: Khi thu hoạch rộ: 2kg Urê + 2kg Kali + 5kg NPK (16-16-8) + 1,5kg Calcium nitrat.

Chú ý: Trong giai đoạn nuôi trái, trái ớt thường bị thối đuôi do thiếu canxi. Vì vậy, cần phun bổ sung thêm Canxi, có thể bằng Clorua canxi (CaCl2) phun định kỳ 7-10 ngày/lần. Đồng thời, phun thêm phân vi lượng có Bo để ớt dễ đậu trái và ngừa trái bị sẹo.

Ghi chú:

– Kết hợp làm cỏ, lấp phân, vun gốc mỗi lần bón thúc phân. Rễ cây ớt rất mẫn cảm (dễ bị tổn thương) với phân bón do đó khi bón phân hóa học phải xa gốc, tưới phân và phun phân bón lá phải đúng liều lượng.

– Các lần bón thúc kế tiếp cứ cách 20 ngày bón 1 lần với loại, lượng phân như bón thúc lần 2 (trừ phân chuồng) (có thể ngâm phân, pha loãng với nước tưới gốc theo hàng).

– Lần bón thúc thứ 3 rải phân giữa 2 hàng đôi lấp phân.

– Lần bón thúc thứ 4, 5, 6… lặp lại thứ tự như lần bón thứ 2, 3 …

– Khi cây con còn nhỏ hoặc giữa 2 lần bón thúc, tưới NPK hoặc DAP với lượng pha loãng 2 – 3% với nước vào gần gốc nếu cần, kết hợp phun phân vi sinh phun lá Bảo đắc 15 ngày/lần.

– Khi trái ớt bắt đầu lớn, phun định kỳ CaCl2 khoảng 0,4% nửa tháng một lần để phòng bệnh thối đuôi trái.

6. Thu hoạch:

Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu – trước khi chín, thu trái già chuyển màu có vết đỏ (bắt đầu chín) làm cho kích thích ra hoa nhiều tạo năng suất cao hơn cho đợt sau. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh. Ớt cay cho thu hoạch 35- 40 ngày sau khi trổ hoa. Ở các lứa rộ, thu hoạch ớt mỗi ngày, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần.
Thông thường từ 35 – 40 ngày sau khi đậu trái có thể bắt đầu chín và thu hoạch được. Nếu chăm sóc tốt, bón phân đầy đủ, ớt có thể cho nhiều đợt trái, năng suất có khả năng đạt trung bình từ 25 – 35 tấn/ha hoặc cao hơn.

Nguồn: Sites.google.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nghệ An: Trồng cà pháo phủ ni lông thu nhập hàng trăm triệu đồng/ha

Bà con nông dân xã Chi Khê, huyện Con Cuông đang thu hoạch cà pháo. Bằng phương pháp trồng phủ nilong, chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật nên cà pháo cho năng suất bình quân 8 tấn/sào, thu nhập 40 triệu đồng/sào/vụ.

Bà con xã Chi Khuê cùng nhau trồng cà phủ nilong

Nguồn: baonghean.vn

Xã Chi Khê, huyện Con Cuông hiện có 15 ha trồng cà pháo, tập trung ở 2 thôn Tiến Thành và Quyết Tiến. Trong đó, hơn 8 ha ở thôn Tiến Thành được trồng theo phương pháp phủ nilong.

Theo các hộ dân ở đây, trồng cà bằng phương pháp phủ nilong mặc dù chi phí đầu tư lớn hơn so với phương pháp thường nhưng có ưu điểm vượt trội là duy trì được độ ẩm cho đất nên không phải tưới nước, sạch cỏ, khả năng chống chịu sâu bệnh cao, vì thế cà cho năng suất cao hơn và chất lượng quả đẹp hơn so với phương pháp thường.

Gia đình chị Trần Thị Xanh, thôn Tiến Thành, xã Chi Khê trồng 2,1 sào cà pháo, chị đã đầu tư gần 500 nghìn đồng để mua nilong phủ, cộng với phân bón, giống… tổng chi phí gần 2 triệu đồng.

 Với phương pháp trồng bằng phủ nilong như thế này gia đình chị không phải mất nhiều thời gian chăm sóc. Cà pháo cho thu hoạch quay vòng trong khoảng thời gian 6 tháng, mỗi tháng hái 4- 5 lần. Với giá bán trung bình 5.000 đồng/kg thì với diện tích cà này gia đình chị thu nhập trên 70 triệu đồng/vụ.

Bình quân mỗi sào cà pháo trồng bằng phương pháp thường cho năng suất 4 – 5 tấn/sào. Nay trồng bằng phương pháp phủ nilong cho năng suất cao gần gấp đôi, từ 7-8 tấn/sào, trừ chi phí mỗi sào cũng cho thu nhập gần 40 triệu đồng.

Thu hoạch cà pháo giòn tan, chất lượng

Cà pháo được thương lái tại địa phương và vùng lân cận đến thu mua tận chân ruộng nên người dân không lo về đầu ra của sản phẩm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Trồng cà pháo giòn tan, 1 tuần thu về lời 1 triệu

Năm nào ông Nguyễn Văn Lâm, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) cũng dành 1 sào đất để trồng cà pháo. Chỉ tay về ruộng cà trĩu quả, ông Lâm cho hay, một tháng nay cà cho thu hoạch rộ. “Cứ 1 tuần tôi thuê người hái cà một lần, được trên dưới 2 tạ, với giá bán hiện tại là 6.500 – 7.000 đồng/kg, trừ chi phí còn lời khoảng 1 triệu đồng…”.

Trồng cà pháo ăn giòn tan, lãi 1 triệu đồng

Nhiều năm nay, thay vì bám vào các cây trồng kém hiệu quả, người dân ở xã Bình Hòa và Bình Hải, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) đã chuyển sang mô hình trồng cà pháo. Cà pháo dễ trồng, cho thu nhập cao, là loại cây trồng có đầu ra ổn định nhất trong các loại rau quả.

Mấy năm nay, người dân ở xóm Hải An, thôn Vạn Tường, xã Bình Hải đã dành một phần diện tích đất đồi trồng keo để trồng cây cà pháo. Hiện nông dân đang bước vào thu hoạch rộ cà pháo. Thôn Hải An cũng được gọi là “thủ phủ cà pháo” bởi có diện tích trồng cà pháo lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi.

Len lỏi trong rừng keo bạt ngàn, ruộng cà nhà ông Nguyễn Văn Lâm đang rộ quả, bốn chị em phụ nữ mỗi người mang theo một cái giỏ đi chợ đang lúi húi hái cà để chủ hộ kịp xuất bán cho thương lái. Gia đình ông Lâm có thâm niên trồng cà khoảng 10 năm nay.

Năm nào ông Lâm cũng dành 1 sào đất để trồng cà pháo. Bà con mua hạt về ươm giống và xuống giống khoảng tháng 11 âm lịch, 3 tháng sau, cà bắt đầu ra hoa, kết trái và cho thu hoạch lứa đầu tiên. Cà pháo cho thu hoạch liên tục trong khoảng thời gian 6 – 7 tháng.

Chỉ tay về ruộng cà trĩu quả, ông Lâm cho hay, một tháng nay cà cho thu hoạch rộ, cứ một tuần tôi thuê người hái cà một lần, được trên dưới 2 tạ, với giá bán hiện tại là 6.500 – 7.000 đồng/kg, trừ chi phí còn lại khoảng 1 triệu đồng. Sau mỗi lần thu hoạch chỉ cần tưới nước, bón phân, trái sẽ lớn nhanh một tuần sau lại tiếp tục thu hoạch.

Một sào cà chi phí đầu tư vài trăm nghìn đồng, nhưng lãi 7 – 8 triệu đồng. Nếu cất công chăm sóc tốt lợi nhuận có thể lên đến 10 triệu đồng hoặc gấp đôi nếu gặp năm cà được giá.

Ông Lâm nhẩm tính: Một sào bắp đặng mùa được 4 tạ, với giá bán 6.000 đồng/kg, cao lắm cũng lời chưa được 2 triệu đồng, còn cà pháo, mất mùa cũng được 2 tấn, gấp 4 – 5 lần, 1 vốn 10 lời. Có năm, giá cà lên đến 14.000 – 15.000 đồng/kg. So với cây ớt, dưa gặp thời điểm được giá vượt trội thì cà pháo không sánh bằng, nhưng nó là cây trồng có giá cả, đầu ra ổn định nhất.

Với ưu thế nổi trội của cây cà pháo, 2 năm nay, gia đình nông dân Phạm Văn Thuần, ở thôn 4, xã Bình Hòa cũng chuyển 2 sào đất chuyên trồng dưa sang trồng cà pháo.

“Cây cà ưa nắng, nó cần ánh sáng mạnh để ra hoa và cần nước để nuôi thân và trái. Thân cây càng cao lớn là lúc cà đạt năng suất cao nhất. Năm nay, thời tiết thường xuyên có mưa nên cà cho năng suất cao”- ông Thuần cho biết.

Theo ông Thuần, trồng dưa, ớt phập phồng, năm được năm mất, còn cà pháo giá cả ổn định, dễ trồng, ít sâu bệnh, dễ chăm sóc, ít tốn công, thỉnh thoáng cũng gặp bệnh quả cà vàng như cà kiểng nhưng không nhiều.

Bà con nông dân chia sẻ cách chăm sóc để cà pháo cho năng suất cao là từ lúc trồng đến lúc ra hoa, cà rất cần giữ độ ẩm nên bà con phải tưới nước thường xuyên. Lúc cà có quả non thì tưới nhiều hơn và xới đất để đất không đóng váng, tăng độ ẩm cho đất, thúc cho bộ rễ phát triển, chống đổ ngã cho cây.

Thời gian sinh trưởng cây cà mọc nhiều là xum xuê, là bị thiếu ánh sáng, vì vậy, cần tỉa lá để thoáng ánh sáng và gió, giúp cà ra nhiều quả. Vì chúng cho thu hoạch kéo dài trong thời gian 6 – 7 tháng nên tốn nhiều phân bón để nuôi cây, đặc biệt là phân chuồng.

Theo bà con nông dân, cà pháo có đầu ra ổn định nhất trong cây trồng hiện nay. Họ thu hoạch xong chở đến điểm thu mua, cân và nhận tiền liền, không phải lo đầu ra vì không phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc như dưa và ớt.

Thị trường tiêu thụ của cà pháo khắp nơi, mạnh nhất là các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và các tỉnh phía Bắc. Cà pháo được thu mua về, các thương lái sẽ bán cho các cơ sở chế biến cà muối.

Cà pháo là cây truyền thống, trước đây, nông dân thường chỉ trồng với diện tích ít ỏi để sử dụng trong gia đình. Nhưng vài năm trở lại đây, nhận thấy hiệu quả kinh tế từ loại cây trồng này, nhiều hộ nông dân ở xã Bình Hải, Bình Hòa đã chuyển từ trồng bắp, mì luân canh với cây keo trên đồi để trồng cà pháo. Đây là mô hình canh tác lấy ngắn nuôi dài hiệu quả, mang lại thu nhập không nhỏ cho người nông dân…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Rau tiến vua thực chất là rau gì?

Rau tiến vua cái tên mỹ miều được nhiều người liên tưởng đến loại rau chuyên dùng để tiến lên vua. Nhưng giờ đây nó đã trở thành một loại thực phẩm quen thuộc của các bà nội trợ. Loại rau này khi dùng tươi hoặc dùng loại muối đều ngon cả.

Rau tiến vua còn có tên gọi khác là rau cần biển. Đây là loại rau mọc ở ven biển, có thân lá mềm nhưng dai, với kích cỡ bằng ngón tay út.

Rau tiến vua có tên Tiếng anh là : Dried Mountain Jelly Vegetable hay Gongcai

Đây là hình ảnh thực tế của cây rau tiến vua trước khi được chế biến thành dạng khô mà chúng ta vẫn thường hay thấy.

Loại rau này được trồng ở Trung Quốc và hiện chưa thấy ở Việt Nam. Vì thế những sản phẩm rau tiến vua hiện nay đều có xuất xứ từ Trung Quốc.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Chế biến rau tiến vua: gỏi vừa ngon vừa mát

Rau tiến vua còn được gọi là rau cần biển, mọc ở vùng ven biển. Từ tháng 4 âm lịch là mùa của rau.

Rau tiến vua còn được gọi là rau cần biển, mọc ở vùng ven biển. Từ tháng 4 âm lịch là mùa của rau, trên thị trường có hai loại rau khô và rau tươi. Nếu sử dụng rau khô thì ngâm nước trước khoảng 3-4 tiếng cho rau nở. Dùng rau tươi chỉ cần xả nước rửa sạch. Vị sần sật của rau tiến vua hẳn sẽ tạo thành một món ăn hấp dẫn mà lại dễ làm.

Gỏi rau tiến vua

Nguyên liệu:

– 50 gr rau tiến vua (khô)

– 300 gr tôm sú

– 300 gr thịt heo

– 50 gr đậu phộng rang bóc vỏ, 1 củ cà rốt, 1 trái dưa leo để trang trí, 2 củ tỏi, 2 trái chanh, 2 trái ớt sừng, hành phi, rau răm, nước mắm ngon, đường, muối.

Cách làm:

– Rau tiến vua ngâm nước lạnh, vớt để ráo nước cắt khúc chừng 4 cm, vắt chanh, cho 2 muỗng đường và 1/2 muỗng cà phê muối trộn đều cho thấm. Thịt heo luộc chín, xả nước lạnh, thái mỏng. Tôm luộc chín, bóc vỏ, chừa đuôi. Rau răm cắt nhỏ. Trộn rau với tất cả các nguyên liệu, cho 1 muỗng nước mắm ngon, 2 muỗng đường, 1/4 muỗng cà phê muối, vắt chanh trộn đều.

– Trút gỏi ra đĩa, trang trí vài con tôm lên mặt, rắc hành phi, đậu phộng. Đĩa gỏi sẽ có màu xanh của rau tiến vua, màu đỏ của tôm và ớt, màu cam của cà rốt, nhìn rất hấp dẫn. Gỏi ăn kèm với nước mắm chua ngọt và bánh phồng tôm.

Nguồn: Thanh niên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.