Độc đáo chuyên canh mít ruột đỏ thu 400 – 500 triệu đồng/năm

Nhờ chuyên canh mít ruột đỏ, mỗi năm ông Nguyễn Văn Trắng (66 tuổi) ở xã Vị Đông, huyện Vị Thủy, Hậu Giang thu về hàng trăm triệu đồng. Đây là niềm mơ ước của rất nhiều nông dân.


Ông Trắng kể, cách đây hơn 15 năm trong một lần đi hội chợ triển lãm các loại trái cây, ông đã mua 50 cây giống mít ruột đỏ về trồng. Kỳ lạ là có một cây mít cho trái màu đỏ sậm hơn các cây khác, ăn giò, ngọt và thơm hơn nhiều.
Thấy nhiều người khen ngon, ông đốn bỏ hết cây khác trong vườn để nhân giống và trồng hơn 4 công mít ruột đỏ. Sau 2 năm, cây bắt đầu cho thu hoạch lứa trái đầu tiên, bán được 10.000 đồng/kg, rồi 30.000 đồng cao hơn hẳn các loại mít khác. Nhờ đó kinh tế gia đình ông ngày càng khấm khá.
Đến nay, với 4 công mít ruột đỏ 15 năm tuổi cho thu về 400 – 500 triệu đồng/năm. Ông đã tậu thêm thêm được 6 công vườn trị giá gần 700 triệu đồng và mua sắm nhiều vật dụng có giá trị.


Ông Trắng cho biết, giống mít này ngon nên được các thương lái tranh giành mua với giá cố định 60.000 đồng/kg, ông không đủ hàng để bán. Đây là giống mít siêu sớm, trồng sau 24 tháng cho thu hoạch, ít sâu bệnh. Khi trái nhỏ cần đề phòng sâu đục trái, thán thư. Trái lớn thì cần bao trái và không phải phun xịt thuốc bảo vệ thực vật.
Thấy nhu cầu thị trường khá lớn, ông Trắng đang tiếp tục trồng thêm 12 công và nhân giống bán.

Nguồn: Báo Nông Nghiệp, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trồng ớt ngọt lãi 600 triệu đồng/ha

Ớt ngọt trồng được trên nhiều loại đất, thích hợp nhất là đất thịt nhẹ, có độ pH: 5,5 – 6,5, đất phải thoát nước tốt…

Những năm gần đây có nhiều giống ớt ngọt (của Mỹ và Đài Loan) được du nhập vào Lâm Đồng, cho năng suất cao được bà con nông dân chọn trồng khá phổ biến. Mới đây Hội Nông dân thị trấn Nam Ban phối hợp với Phòng NN- PTNT huyện Lâm Hà, xây dựng và chuyển giao quy trình kỹ thuật trồng ớt ngọt trong nhà che plastic, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình được giao cho hộ anh Chử Văn Thành, thị trấn Nam Ban. Anh Thành vui vẻ nói: “Trước đây tôi chủ yếu trồng cây cà phê, các anh biết đấy, giá cả cũng bấp bênh lắm. Từ khi được đi học, tập huấn quy trình kỹ thuật rồi chuyển qua trồng ớt ngọt trong nhà che plastic, kết quả cho thấy năng suất ớt đạt ngoài sự mong đợi. Giá cả rất cao, thu hoạch ớt xong, mối tới tận nhà để cân, chẳng phải mang đi đâu cả, cứ 1 tuần cắt bán ớt 1 lần. Nếu so với trồng cà phê thì trồng cây ớt giống mới này hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần”.

Anh Thành cho biết: Ớt ngọt trồng được trên nhiều loại đất, thích hợp nhất là đất thịt nhẹ, có độ pH: 5,5 – 6,5, đất phải thoát nước tốt, không nên trồng ớt trên đất vụ trước đã trồng cây thuốc lá, hoặc cây cà chua (cây họ cà). Đất được cày tơi xốp, làm sạch cỏ, bón vôi bổ sung và cày trộn đều trong đất, phơi ải từ 1 – 2 tuần để tiêu diệt một số bệnh hại. Có thể xử lý đất bằng chế phẩm Mocap, hoặc Sincosin, sau đó lên luống cao 15 – 20 cm để bón lót và chuẩn bị trồng cây.

Bón lót phân bò hoai mục đã xử lý nấm Trichoderma (8 khối phân bò cho 1.000m2), rải phân đều trên mặt luống, dùng cuốc xăm đều sau đó phủ một lớp đất mỏng trên bề mặt luống và tưới ẩm đều, tiến hành phủ màng nilon ngay sau khi bón lót, để hạn chế cỏ dại, tránh hao hụt phân bón và giảm lượng nước tưới.

 

                                                Nguồn: Báo Nông Nghiệp, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng cây Đinh lăng đơn giản và cho năng suất cao

Cây Đinh lăng có tên khoa học là polyscias fruticosa, là cây thuộc họa ngũ gia bì, cây trồng khá dễ, cây thường được trồng để lấy lá, rể, thân, lá cây có thể được dùng làm thuốc trị bệnh hoặc làm gia vị các món ăn gỏi cá, thịt chó và nhiều món ăn khác.
Ngoài giá trị kinh tế cao cây Đinh lăng còn được biết đến là một loài cây thuốc chữa bệnh cực kỳ hiệu quả và được ví như nhân sâm Việt. Chính vì như vậy mà cây Đinh lăng hiện nay được rất nhiều bà con áp dụng và nhân rộng thành nhiều mô hình trang trại vô cùng hiệu quả.
Thực tế, trồng cây Đinh lăng không phải khó nhưng cũng không dễ nếu không biết cách áp dụng các bước kỹ thuật trồng cây khoa học như phải đảm bảo về mọi mặt từ giống, thời vụ trồng và nhất là hiểu đặc điểm của cây để tìm ra hướng chăm sóc sao cho phù hợp nhất.

Kỹ thuật trồng cây Đinh lăng cho năng suất cao không phải dễ. Ảnh minh họa
Cách chọn giống
Đinh lăng có 2 loại chính là Đinh lăng tẻ và Đinh lăng nếp. Cây Đinh lăng tẻ là loại có lá to, vỏ sần, củ nhỏ, rễ ra ít, cứng và có vỏ bì mỏng nên khả năng phát triển không cao. Ngược lại, Đinh lăng nếp có lả nhỏ và xoăn, vỏ cây nhẵn, củ to, rễ mềm, vỏ bì dày và phát triển mạnh nên cho chất lượng và năng xuất cao. Đây là loại Đinh lăng tốt, mạnh nên lựa chọn trong việc gieo trồng. Vì vậy khi chọn giống Đinh lăng không nên chọn cây quá già hoặc quá non. Để có được nhiều giống và dễ chăm sóc sau này, nên chặt cành ra thành nhiều đoạn, có độ dài khoảng 25-30cm, tránh làm dập 2 đầu của các đoạn.
Chọn đất
Đinh lăng là loài cây ưa ẩm không chịu được khô hạn nên chọn đất trồng phải tơi xốp, thoáng và giữ ẩm tốt. Vì vậy phải đảm bảo được yếu tố này cây mới thực sự phát triển nhanh.
Kỹ thuật trồng cây Đinh lăng
Kỹ thuật trồng cây Đinh lăng có thể áp dụng bằng cách giâm trực tiếp vào các bầu đất nilong hoặc cấy trên đất cát vàng đều có thể sinh trưởng được. Trước khi tiến hành trồng cần loại bỏ hết các tạp chất như đá, hạt cỏ, trộn chung với 9% phân chuồng u hoai cùng 1% supe lân tính theo trọng lượng của bầu.

Để có được những cây Đinh lăng tươi, tốt nhiều nhánh cần áp dụng đúng kỹ thuật trồng cây và chăm sóc. Ảnh minh họa
Bầu cần đóng đầy đất, chặt đất rồi xếp bầu vào luống rộng khoảng 0,8 đến 1 m. Trong trường hợp trồng cây Đinh lăng với số lượng lớn, thì nên cày cho đất tơi xốp, luống cao 20-50 cm và rạch sâu 15 cm, khoảng cách giữa các hố trồng là 50 cm, đặt hom giống theo chiều luống, nên bón lót bằng phân chuồng (4kg/sào), phân NPK (20kg), sau đó lấp hom và cho đầu hom hở khoàng 5 cm.
Chăm sóc
Sau khi trồng được một thời gian dài thì bạn nên chú ý khi cây bắt đầu xuất hiện một số bệnh và sâu hại cây. Do đó cần thường xuyên cắt tỉa những cành già và bỏ đi để cho cây thông thoáng hơn. Khi trồng được 6 tháng tuổi, tiến hành bón thúc bằng phân Ure (8kg/sào). Trồng được 2 năm tuổi trở đi, nên cắt bỏ bớt cành và lá thừa vào khoảng tháng 4 và tháng 9 hằng năm. Sau tỉa lần đầu, bón thêm 15kg phân NPK, 4kg phần Kali và bón thêm phân chuồng (300 kg/sào).
Thu hoạch
Trồng cây Đinh lăng phải sau 3 năm gieo trồng mới có thể thu hoạch. Nhìn chung, hầu hết các bộ phận của cây dược liệu Đinh lăng đều có tác dụng y học. Thân, lá và rễ có tác dụng tăng lực. Khi thu vỏ rễ, vỏ thân, người thu nên thu hoạch lá trước. Lá thu được đem hong gió cho khô là tốt nhất, cuối cùng sấy cho thật khô và đem bảo quản.
Thân và lá dùng làm thuốc bổ tăng cân, tăng co bóp tử cung và tăng tiết niệu có tác dụng an thần, ít độc. Nước sắc Đinh lăng có tác dụng đối kháng với trùng roi, trị lỵ amip cấp. Rễ dùng làm thuốc bổ tăng lực, gầy yếu mệt mỏi, tiêu hóa kém, phụ nữ sau sinh ít sữa, chữa ho ra máu, kiết lỵ, đau tử cung, giúp lợi tiểu. Lá của cây Đinh lăng chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương. Thân và cành chữa thấp khớp đau lưng.
Nhân giống
Kỹ thuật nhân giống cây Đinh lăng hơi phức tạp. Bà con cần sử dụng dao sắc để chặt hai đầu của cành giâm hom, nên chặt từng đoạn với chiều cao khoảng từ 15 đến 20 cm, trên cành có khoảng từ 3- 4 mắt lá. Tránh làm dập 2 đầu của bầu để rễ dễ phát triển hơn.
Khi tỉa hom cần để lại khoảng từ 3 đến 4 lá, mỗi lá cần tỉa nhỏ lại, chỉ nên để khoảng 1/3 phiến lá. Phần phía dưới cần tỉa sạch lá để khi cắm vào bầu thì không bị chôn vùi trong đất nếu không những lá này sẽ bị thối. Bà con nên chọn cách cắt vát khoảng 45 độ, cắt gọn và dùng dao sắc để lá không bị giập.
Sau khi cắt xong cần được nhúng vào dung dịch Benlat nồng độ 100-200 ppm, khoảng 100- 200 mg Benlat thì pha với một lít nước. Nhúng cành hom vào dung dịch trong khoảng 12 phút để phòng trừ nấm bệnh là có thể đem hom đi giâm. Chú ý sau khi giâm không nên rửa lại cành với nước lã, nếu có thể thì nhúng vào dung dịch thuốc tím với nồng độ 0,1% để phòng trừ nấm rồi cắm vào trong bầu.

Nguồn: An Dương được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Hồng không hạt cho quả sai trĩu cành

Mới đây, các nhà khoa học tại Fukuoka Prefecture, Nhật Bản đã phát triển thành công kỹ thuật trồng cây hồng không hạt cho năng suất rất cao, dễ trồng.

Hồng không hạt

Hồng không hạt có nguồn gốc từ Nhật

Hồng là loại quả giàu dinh dưỡng, với hàm lượng vitamin A & C cao, hồng có màu vàng cam tươi, vị ngọt. Nhờ vào sự phát triển của nền công nghệ hiện đại, mới đây các nhà khoa học Nhật đã phát hiện ra một loại giống hồng mới cho năng suất và giá trị kinh tế cao hơn.

Việc thu hoạch hồng diễn ra khá muộn, thường là vào cuối mùa thu. Hồng có thể bắt đầu được thu hoạch từ tháng 10-11 vì thời gian đợi hồng chín khá lâu, đặc biệt hồng sẽ không thể chín ở miền Tây, Washington, Mỹ vì thiếu ánh nắng. Trái lại, hồng lại chín vàng và nở rộ ở thung lũng Willamette cùng một số vùng khác có khí hậu ấm áp mùa hè.

Tuổi thọ của cây hồng khá cao từ khoảng 50 tới 75 năm. Khi cây hồng được khoảng 2-3 năm thì nó đã cho vụ thu hoạch quả đầu tiên.

Ở Châu Á, kỹ thuật trồng cây hồng không hạt không cần tới quá trình thụ phấn, nhưng ở Mỹ thì quá trình này rất cần để tạo nên những quả hồng ngon, thơm, và có vị ngọt lịm.

Kỹ thuật trồng cây hồng thực hiện như thế nào?

Hồng mọc lá rất muộn. Đừng quá lo lắng về việc này! Bởi nó cần nhiệt độ nóng thích hợp để đâm trồi. Với những khu vực có thời mát mẻ mùa xuân hay mùa hè thì dường như trồi của cây hồng phát triển nhanh. Để thúc đẩy sự tăng trưởng cho cây, bạn cần ngâm cây hồng vào chậu nước ấm cho đến khi lá của hồng trồi ra.

Tiếp đó, hãy nhấc cây ra khỏi chậu nước, chú ý để lại một chút bùn bọc lấy dễ cây, sau đó trồng cây ở xuống đất, trong suốt quá trình cây ở dưới đất cần tưới nước và giữ độ ẩm ướt cho cây.

Với một cây hồng có dễ trần thì việc trồng ở dưới đất sẽ trở lên đơn giản hơn hoặc nó cũng có thể được trong chậu cây ngay sau khi nó ra lá.

Hồng không hạt có nguồn gốc từ Nhật

Hồng dễ dàng thích nghi với nhiều loại đất. Nó thích hợp với các loại đất có độ ẩm ướt hay đất cát đều được. Sau quá trình đâm trồi và phát triển trưởng thành, hồng có khả năng chịu hạn tốt hơn.

Trong các loại cây ăn quả, thì hồng được coi là một loại cây ăn quả dễ trồng nhất. Bởi chúng hầu như ít bị sâu bệnh hại. Nhưng có một việc mà người trồng phải thường xuyên cắt, tỉa cành và lá cho cây phát triển tốt hơn. Đặc biệt khi cây phát triển cứng, có nhánh trung tâm thì bạn cần cắt tỉa cành thường xuyên để cây hấp thụ ánh sáng giúp sự phát triển và tăng trưởng của cây diễn ra nhanh hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Hẹ trong thùng xốp dùng quanh năm

Theo các sách cổ để lại thì cây hẹ không chỉ là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng hàng đầu mà còn là vị thuốc quý dễ sử dụng lại lành tính. Cây hẹ có khả năng chữa nhức răng, hỗ trợ điều trị đái tháo đường, trị táo bón, chữa ho trẻ em do cảm lạnh, tiểu đường…

1. Chuẩn bị dụng cụ trồng, đất trồng và giống

Dụng cụ trồng

Bạn có thể tận dụng bao nilon, bao xi măng, chậu, khay, thùng xốp có sẵn trong nhà hoặc mảnh đất trống trong vườn để trồng hẹ. Lưu ý: Dưới đáy khay đục lỗ để thoát nước.

Đất trồng

Hẹ ưa phát triển ở đất tơi xốp, thoáng khí, màu mỡ, tốt nhất là đất thịt, thịt pha cát, đất phải chủ động được hệ thống tưới và tiêu nước tốt. Bạn có thể mua đất sẵn hoặc tiến hành trộn đất với phân bò hoai mục, phân gà, phân trùn quế, vỏ trấu, xơ dừa… Nên bón lót với vôi rồi phơi ải từ 7 – 10 ngày trước trồng để xử lý các mầm bệnh có trong đất.

Chọn giống

Hẹ có thể trồng bằng hạt hoặc thân. Hạt giống bạn có thể tìm mua ở các cửa hàng bán đồ nông sản. Hẹ trồng bằng thân bạn có thể xin giống về trồng.

2. Cách trồng

Trồng bằng thân: Chọn kỹ các nhánh củ khỏe, chuẩn bị đất trồng tơi xốp cho vào trong dụng cụ trồng. Trồng từng nhánh hẹ vào đất cách nhau 8 – 10cm, lấp đất vừa kín nhánh, dùng tay ấn đất cho chặt, sau đó phủ rơm rạ mục, tưới nước. Sau 5 – 7 ngày nhánh hẹ sẽ mọc mầm.

Trồng bằng hạt: Hạt cây hẹ trước khi gieo nên xử lý bằng cách ngâm vào nước ấm 35 – 37 độ C (hoặc pha nước theo tỉ lệ 2 sôi + 3 lạnh trong 4 – 5 giờ). Sau khi gieo rải nhẹ một lớp đất mặt, ủ một lớp rơm rạ mỏng lên trên, tưới đủ ẩm. Sau khi cây hẹ mọc 5 – 10 ngày nên bón thêm urê. Khi cây hẹ cao 10 – 15cm thì nhổ mang đi trồng.

3. Chăm sóc

Sau khi trồng hẹ được khoảng 7 – 10 ngày, tiến hành bón lót đợt 1 bằng phân hữu cơ, phân bò, phân trùn quế, phân dê, phân gà… Cứ khoảng 15 – 20 ngày thì bón đợt tiếp theo.

Chăm sóc hẹ đúng cách để có được chất lượng tốt

Trong quá trình chăm sóc nên chú ý nhổ tỉa cây mọc quá dày trồng dặm vào chỗ thưa.Thường xuyên xới xáo đất, vun nhẹ gốc và nhổ cỏ.

Thời gian đầu mới trồng, tưới nước mỗi ngày 3 lần, đến khi cây hẹ đã bén rễ và phát triển tốt thì chỉ cần tưới mỗi ngày 2 lần, tránh tưới vào buổi trưa.

4. Chăm sóc

Cây hẹ có khả năng tái sinh cao nên có thể cắt lá để dùng, chừa lại 2 – 3cm cách mặt đất, tưới phân thúc cây hẹ phát triển lá và củ.

Bạn có thể áp dụng lịch thu hoạch như sau:

– Đợt 1: 55 – 60 ngày sau khi trồng.

– Đợt 2: 30 – 35 ngày sau khi thu hoạch đợt 1.

– Đợt 3, 4, 5, 6…: cách nhau 30 – 35 ngày.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cây Ca Cao – đối tượng trồng xen canh cho hiệu quả cao

Cây ca cao sau nhiều năm thử nghiệm ít được người trồng chú ý. Tuy nhiên, gần đây loại cây này đã được nhiều người chú ý đến bởi giá trị kinh tế mang lại của loại cây này. Các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông đã đưa loại cây này vào cánh đồng liên kết. Trong khi đó, những người trồng ca cao ở Bến Tre đang tiếc vì lâu nay mình không mấy mặn mà với loại cây này.

Ca cao

Đối tượng trồng xen canh chủ lực

Do Ca cao thích hợp với bóng râm, không ưa ánh sáng nên nó là đối tượng trồng xem canh với cây điều ở vùng điều; dừa ở vùng trọng điểm dừa như Bến Tre.

Hiện tại ở Đồng Nai, đã xây dựng nhiều tổ hợp tác trồng ca cao xen canh với cây điều. Ông Nguyễn Thanh Lập, Tổ trưởng Tổ hợp tác sản xuất ca cao Trung Hòa, huyện Trảng Bom, trồng ca cao xen canh trong vườn điều chỉ sau 5 năm, mỗi hét ta ca cao cho thu hoạch ít nhất 10 tấn trái tươi/năm. Với giá bán 6.300 đồng/kg như hiện nay, nông dân đã thu về 63 triệu đồng.

Tại đây HTXNN An Viễn, đơn vị chịu trách nhiệm sản xuất cánh đồng lớn ca cao xen điều cho rằng, nông dân an tâm nhất khi trồng ca cao xen điều là đầu ra cho sản phẩm vì hiện hạt điều vẫn chủ yếu tiêu thụ qua thương lái nên rất bấp bênh. Còn cây ca cao nằm trong chuỗi liên kết của dự án cánh đồng lớn nên được các công ty cam kết bao tiêu đầu ra. Hiện tại giá thu mua ca cao tươi từ 6.000 đồng/kg. Với giá này, người trồng lãi trên 70 triệu đồng/ha/năm.

Trong khi đó tại Bến Tre, dự án trồng ca cao xen canh với cây dừa, có thời điểm lên đến 10.000 ha vào năm 2012. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đến nay diện tích giảm còn trên 5.000 ha. Nguyên nhân chủ yếu là người dân chăm sóc chưa tốt, giá chưa hấp dẫn so với các loại cây khác.

Trên thực tế, ở tỉnh Bến Tre có nhiều mô hình trồng ca cao xen trong vườn dừa nếu được chăm sóc hợp lý đã giúp người dân tăng thêm thu nhập không nhỏ trên cùng diện tích. Mô hình ca cao trồng xen trong vườn dừa của anh Nguyễn Văn Thanh ở ấp Vĩnh Hòa, xã Tân Hội, huyện Mỏ Cày Nam là một điển hình.

Trong 2 năm 2007 và 2008, anh Thanh mua 500 cây ca cao về trồng xen trong 1 héc-ta vườn dừa 4 năm tuổi. Nhờ áp dụng kỹ thuật trồng, chăm sóc ca cao theo khuyến cáo của ngành chuyên môn, loại cây trồng xen này sau 2 năm đã có thu hoạch. Năm 2014, nhờ giá ca cao tăng bình quân 5.000 đồng/kg và anh sơ chế bán hạt tươi trực tiếp cho Công ty Puratos Grand – Place nên giá tăng lên tương đương 6.500 đồng/kg trái tươi. Với năng suất thu hoạch khoảng 8 tấn, cây ca cao đem về thu nhập cho anh Thanh trên 50 triệu đồng.

Chăm sóc không mấy khó

Kinh nghiệm của người trồng ca cao bón phân phối trộn các loại phân đơn gồm đạm, lân, kali theo tỷ lệ 1-2-1 hoặc 1-1-1, tùy theo thời điểm cây ra hoa và nuôi trái. Với cách bón phân này, vừa giảm tỷ lệ phân bị thất thoát vừa giúp tôi tiết kiệm gần 40% so với mua phân hỗn hợp bón cho cây trồng.

Theo kỹ thuật chăm sóc, bón phân cho ca cao của các kỹ sư Cty Cổ phần Bình Điền, lượng bón tuỳ theo tuổi cây như sau: Năm thứ nhất : 0,2-0,3kg/cây. Năm thứ hai : 0,5-0,6kg/cây Năm thứ ba : 0,6-0,8kg/cây. Lượng phân này chia làm 4 đợt vào đầu, giữa, cuối mùa mưa và 1 lần trong mùa khô. Đối với cây ca cao kinh doanh nên cắt tỉa cành vượt, cành sà, đồng thời cắt bỏ những cành yếu, cành khô, cành sâu bệnh mỗi năm 3 lần.

Bón phân cho cây ca cao kinh doanh: Ca cao kinh doanh có nhu cầu kali cao nhất, đến đạm, lân và trung vi lượng. Lượng bón thay đổi tùy theo loại đất, tuổi cây và năng suất. Do đặc điểm bộ rễ cây ca cao ăn nông (80% rễ tập trung ở tầng 0-30cm) nên cần bón phân trong lớp đất mặt. Rải phân bằng cách theo đường chiếu của vanh tán rồi vùi lấp để giảm bớt thất thoát do bay hơi, rửa trôi. Vào thời kỳ kinh doanh, cây đã giao tán, có thể chịu hạn và cho năng suất khá.

Ngoài ra, ca cao cũng có một số loại sâu bệnh thông thường. Tuy nhiên, không đáng ngại bởi tất cả đã được cán bộ kỹ thuật tại địa phương đều biết cách phòng trừ.

Đối tượng trồng xen canh cho thu nhập ồn định 60 triệu đồng/ha bên cạnh các cây chủ lực khác là điều để người trồng lựa chọn. Bởi thị trường tiêu thụ ca cao hiện nay rất ổn định, giá có thể xuống thấp trong thời gian tới.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cách phân biệt các loại dây Lạc Tiên

Vị thuốc cây chùm bao hay con gọi là cây nhãn lòng trong y học cổ truyền thường dùng là bộ phận trên mặt đất của cây lạc tiên (Passiflora foetida L.). Ở Việt Nam có tới 15 loài, trong đó chỉ có loài P.foetida được dùng làm thuốc an thần gây ngủ.

Lạc tiên là loại dây leo bằng tua cuốn. Thân mềm tròn và rỗng, có lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, thùy giữa lớn hơn hai thùy bên, mép uốn lượn có lông mịn. Gốc lá hình tim, đầu lá nhọn. Hoa to, đều, lưỡng tính, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, 5 cánh, màu trắng hoặc hơi tím. Quả mọng, hình trứng, dài độ 3cm, bao bọc bởi tổng bao lá bắc tồn tại. Lạc tiên mọc hoang và được trồng ở nhiều vùng nước ta. Để làm thuốc, người ta thu hái các bộ phận trên mặt đất, rửa sạch, phơi khô, cắt đoạn 3-5cm. Trước khi dùng sao hơi vàng, dùng dần.

Trường hợp ngủ không yên giấc: sắc riêng 20 – 40g lạc tiên khô, uống.

Trường hợp tim hồi hộp, loạn nhịp, mất ngủ, lo âu, đau đầu, choáng váng:

Lạc tiên nấu thành cao lỏng với tỷ lệ 1 phần lạc tiên 1 phần nước, pha thêm chút đường cho dễ uống, ngày 2-3 lần, mỗi lần 50 -100ml, sau mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cũng có thể phối hợp với một số dược liệu an thần khác như lạc tiên, lá vông, lá dâu, lá sen, mỗi loại 20g, tâm sen 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống 2-3 tuần, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.

– Trong dân gian, bà con ta thường thu hái quả, rửa sạch, bổ đôi, nạo hết ruột, ép và lọc lấy dịch quả, thêm ít nước đun sôi để nguội và chút mật ong hoặc đường đủ ngọt để uống. Dịch quả lạc tiên thơm, ngon, bổ, mát; thích hợp cho giải nhiệt mùa hè. Hoặc hái phần ngọn và lá non của lạc tiên mỗi lần khoảng 100 – 200g nấu canh ăn giúp ngủ ngon.

Phân biệt các loại lạc tiên:

Ngoài loài lạc tiên nói trên, để tránh nhầm lẫn, cần lưu ý tới một số loài khác cũng mang tên lạc tiên.

– Lạc tiên Nam Bộ (Passiflora cochinchinensis  Spreng) cũng là cây leo nhưng cành hơi dẹt, có khía rãnh. Lá thuôn hẹp, gốc lá và đầu lá hơi tròn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có ít lông. Cụm hoa màu trắng. Quả nhỏ hình trứng nhẵn. Cây này không được dùng làm thuốc an thần như lạc tiên nói trên.

Lạc tiên Nam Bộ

– Lạc tiên tây (Passiflora incarnata L.): là dây leo, dài đến 9 – 10m. Thân có rãnh dọc, vỏ màu xám nhạt, sau chuyển màu đỏ tía, khi non có lông mịn. Lá mọc so le, ba thùy, mép có răng cưa, có tua cuốn ở kẽ lá. Hoa to, màu trắng, thơm, có cuống dài, màu tím hoặc hơi hồng. Quả hình trứng. Khi chín có màu vàng. Quả có vị chua, chứa vitamin. Có tác dụng bổ mát, giải nhiệt.

Lạc tiên tây

– Lạc tiên trứng, còn gọi là dây mát (Passiflora edulis Sím): Là dây leo, mảnh, dài hàng chục mét. Thân mềm, hình trụ, có rãnh dọc, nhiều lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, nhẵn, mép khía răng cưa, gốc lá hình tim, có hai tuyến nhỏ, đầu lá nhọn. Hoa mọc riêng ở kẽ lá, có cuống dài, màu trắng. Quả mọng hình trứng, khi chín màu da cam.

Lạc tiên trứng

Ở  nước ta, dây mát mọc hoang ở vùng Kỳ Sơn, Nghệ An. Dây mát cho quả thơm ngon, vỏ quả chứa nhiều vitamin C, axít hữu cơ, tanin, đường, các nguyên tố vi lượng: Si, K, P… Dịch quả cũng chứa nhiều vitamin C, tinh dầu, axít amin và  β- caroten. Quả lạc tiên trứng được dùng làm thực phẩm, pha chế đồ uống, đồ hộp, bánh kẹo, kem, đồ tráng miệng sau bữa ăn và làm thuốc bổ có tác dụng kích thích thần kinh và giúp cho việc tiêu hóa được tốt hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chi phí và lợi nhuận cho một vụ Lúa

Trong sản xuất cây lúa hay bất cứ các cây trồng nào khác, muốn có lợi cao, thường phải có năng suất cao và bán được giá lời.

Về năng suất thì phụ thuộc giống tốt hay xấu, kỹ thuật tiên tiến hay lạc hậu, thời tiết có thuận hòa không. Về giá cả thì thường phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng hơn là phụ thuộc vào người sản xuất. Nhưng năng suất và chất lượng của sản phẩm thì chủ yếu là phụ thuộc vào người sản xuất, là yếu tố chủ quan.

Để có được năng suất cây trồng cao cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cả khách quan và chủ quan…

Về yếu tố khách quan, đó là thời tiết thuận lợi. Yếu tố này là yếu tố vũ trụ, con người khó kiểm soát. Tuy nhiên có kinh nghiệm và có kỹ thuật cao thì con người vẫn có thể khắc phục hay né tránh được các điều kiện khách quan để có được năng suất cây trồng cao và ổn định (trường hợp của Israel sống trên sa mạc mà vẫn sản xuất được mọi loại rau, cây trái năng suất cao, chất lượng tốt).

Về yếu tố lời, lỗ thì vừa phải kết hợp năng suất cao vừa phải kết hợp nguồn chi phí đầu tư hợp lý, bất kể giá bán cao hay thấp. Vậy làm sao để thực hiện được các khoản chi phí thấp mà vẫn đạt được năng suất cao, chất lượng tốt.

Để trả lời câu hỏi này ta hãy tham khảo kết quả chương trình sản xuất lúa thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu, do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã thực hiện từ năm 2016 đến 2017.

Các số liệu thu được trong tài liệu này là do các cán bộ khuyến nông các huyện cùng theo dõi, tính toán với người nông dân mà có, vả lại đây là số liệu thu được mỗi vụ từ 65 nông dân thực hiện tại 13 tỉnh ở ĐBSCL, đại diện cho các vùng tiểu sinh thái khác nhau, vì vậy các thông tin này rất đáng tin cậy.

1. Vụ đông xuân năm 2015 – 2016:

Dưới tiêu đề “Từ ruộng vườn đến trường quay”. Vụ này với mục tiêu là biến ruộng đồng thành trường học, cán bộ kỹ thuật và nông dân cùng nhau ra đồng để trao đổi về cách làm lúa có lời cao. Chỉ tiêu chủ yếu trong vụ này là sử dụng loại phân hợp lý, chưa đề cập đến giảm lượng giống sạ, lượng giống sạ giữa mô hình và trong ruộng của dân vẫn 140kg/ha.

Thế nhưng trong mô hình nhờ sử dụng loại phân Đầu trâu có chất lượng cao, đầy đủ dinh dưỡng, nên dù chất N giảm xuống 29%, mà năng suất lúa của mô hình vẫn cao hơn đối chứng 754kg/ha.

Trong vụ này bình quân 65 mô hình có chi phí là 15.172.000đ/ha, còn bình quân ruộng đối chứng có chi phí 16.441.000 đ/ha, cao hơn ruộng mô hình là 1.269.000đ/ha. Nhờ vậy mà tiền lời thu được trong ruộng mô hình cao hơn đối chứng là 7.760.000 đ/ha.

2. Vụ hè thu năm 2016:

Quy mô thực hiện cũng trải khắp 13 tỉnh, 65 nông dân cùng tham gia. Vụ này tiêu chí đặt ra là mô hình phải giảm lượng giống sạ còn 80kg/ha,đồng thời vẫn sử dụng phân Đầu Trâu để giảm số lượng bón. Áp dụng các kỹ thuật làm giảm phèn mặn, quản lý nước và sâu bệnh đồng bộ. Vụ này chi phí của mô hình là 15.947.000 đ, còn ở ruộng đối chứng là 16.958.000 đ, vẫn cao hơn mô hình là 1.101.000 đ/ha. Năng suất ruộng trong mô hình cao hơn đối chứng 496kg thóc/ha. Nhờ vậy làm giá thành cũng hạ hơn đối chứng là 420 đ/kg thóc, nên cuối cùng ruộng mô hình vẫn có lời hơn đối chứng 3.660.000 đ/ha.

3. Vụ đông xuân năm 2016-2017:

Xét về chi phí đầu tư cả mô hình và đối chứng tương đương nhau. Nhưng do mô hình có năng suất lúa cao hơn đối chứng là 775 kg/ha, nên cuối cùng lợi nhuận của mô hình cũng cao hơn đối chứng 4.960.000đ/ha.

4. Vụ hè thu năm 2017:

Về suất đầu tư thì mô hình vẫn giữ mức sạ 80kg, còn đối chứng dân vẫn sử dụng 150kg/ha và phân bón sử dụng cũng cao hơn mô hình, nên tổng chi phí của ruộng đối chứng bình quân 15 địa điểm là 17.551.429 đ, còn ở mô hình chi phí là 15.619.136 đ/ha, thấp hơn ruộng đối chứng là 1.932.293 đ/ha. Trong đó chi cho giống cao hơn mô hình là 676.100 đ, phân bón là 348.350 đ; thuốc bảo vệ thực vật là 1.025.522 đ; chi phí khác là 324.534 đ/ha. Thực tế năng suất lúa khô của mô hình cao hơn đối chứng là 601kg/ha,dẫn đến giá thành hạ là 695 đ/kg thóc nên lợi nhuận của mô hình cao hơn đối chứng 5.792.398 đ/ha.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây Lạc Tiên (Phần 2)

B. Bệnh hại

Phòng và trị bệnh cho cây lạc tiên để cây có chất lượng trồng tốt nhất

1. Bệnh do vi khuẩn

* Bệnh đốm dầu do vi khuẩn: (Pseudomonas passiflorae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh gây hại trên lá, thân và quả dẫn đến sự mất mùa thậm chí có thể gây chết cây. Trên lá bệnh tạo nên những vết thương từ mầu oliu tới màu nâu, thường bao quanh bởi quầng sáng màu vàng nhạt, bệnh nặng dẫn đến rụng lá, trên thân còn non, dấu hiệu đầu tiên của sự xâm nhiễm là những vết lõm màu xanh đen, mọng nước. Sau sẽ phát triển thành màu nâu sáng, có viền rõ ràng với phần không bị bệnh.

Trên thân gỗ già, triệu chứng ban đầu là những đốm nhỏ hình tròn có màu xanh đen, hơi lõm xuống, sau đó lan rộng ra và có màu nâu tối, những vết bệnh này bao quanh chồi non và gây chết cây. Những dấu hiệu đầu tiên của sự nhiễm bệnh trên trái là trái nhỏ, màu xanh tối, vết bệnh phát triển thành những vòng tròn, thô nhám, mảng lốm đốm mọng nước, làm trái rụng sớm và thối trái. Đốm dầu thường xảy ra vào mùa thu và mùa khô.

* Bệnh héo rũ vi khuẩn: (Pseudomnas syringae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Loài vi khuẩn này có mối liên hệ mật thiết đối với mầm bệnh của vi khuẩn gây bệnh đốm dầu. Triệu chứng của 2 loại bệnh này tương tự nhau, và cách thức phòng trừ cũng giống nhau. Nếu quản lý tốt bệnh đốm dầu thì bệnh héo vi khuẩn sẽ ít có khả năng xuất hiện.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Sau khi thu hoạch, thu gom sạch tàn dư của cây, đặc biệt là những cây bị bệnh và cỏ trên vườn đem tiêu hủy để hạn chế nguồn bệnh ban đầu trên đồng ruộng cho vụ sau. Không nên trồng dày để vườn luôn thông thoáng, giảm bớt độ ẩm trong ruộng. Bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali, tăng cường bón thêm phân hữu cơ, vôi bột và phân kali hoặc tro trấu cũng có tác dụng làm giảm tác hại của bệnh. Kiểm tra vườn để phát hiện và nhổ bỏ sớm những cây bị bệnh đem tiêu hủy để tránh lây lan ra cây khác. Sau khi nhỏ bỏ bón vôi bột vào chỗ vừa nhổ để khử trùng đất.

Biện pháp hoá học: Tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất: Copper hydroxideCopper  Oxychloride + KasugamycinCopper Oxychloride 50% + Metalaxyl 8%Ningnanmycin phun xịt khi cây chớm bệnh.

2. Bệnh đốm nâu: (Alternaria passiflorae)

–  Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Đây là một bệnh nghiêm trọng, ảnh hưởng đến lá, thân và quả, xuất hiện vào mùa xuân và đầu mùa hè.

Trên lá, đầu tiên xuất hiện những đốm màu nâu nhỏ, sau đó lan rộng ra thành đốm lớn có tâm màu sáng và có hình dạng bất định. Trên thân, vết bệnh có hình thon dài với màu nâu đen, thường xuất hiện gần nách lá hoặc gân lá (do bị tổn thương cơ giới, cây bị chảy nhựa). Khi vết bệnh bao quanh thân cây thì chồi non sẽ bị héo, quả teo lại và rụng sớm. Trên quả, vết bệnh đầu tiên chỉ nhỏ như mũi kim sau lan rộng thành những vòng tròn lớn với vết nâu lõm có tâm màu nâu. Dần dần phần vỏ quả xung quanh vết bệnh bị nhăn nheo và quả bị rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, loại bỏ lá bệnh và những cành kém hiệu quả để cây thông thoáng.

Biện pháp hóa học: Sử dụng các thuốc hoạt chất Azoxystrobin (Amistar 250SC); hoặc hỗn hợp thuốc Mancozeb + Metalaxyl-M (Ridomil GoldÒ68WP);  Difenoconazole (Score 250EC); Chlorothalonil (Daconil 500SC); hoặc Thiophanate – Methyl (Topsin M 70WP) để phòng trừ.

Chú ý phun vào những đợt lá ra vào đầu mùa mưa.

3. Bệnh đốm xám: (Septoria passiflorae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh tấn công các bộ phận lá, thân, và quả, gây hại nặng có thể làm rụng lá, rụng quả sớm dẫn đến giảm năng suất. Bệnh thường xuất hiện trong suốt mùa hè và mùa thu.

Trên lá, vết bệnh thường không có hình dạng cố định, chỉ là những đốm nhỏ màu nâu sáng, nhanh chóng lan rộng và làm lá rụng. Trên thân, vết bệnh xuất hiện tương tự như ở trên lá. Nhưng có đặc điểm vết bệnh thường lõm sâu vào trong thân. Trên quả, vết bệnh đầu tiên cũng là những đốm nhỏ, tương tự như trên lá và thân. Sau đó những đốm này tạo thành những vết thương tổn lớn gây nên hiện tượng rụng lá và quả.

–  Phòng trừ bằng biện pháp hoá học: Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất: Azoxystrobin + Difenoconazole (Amistar top 325SC); Mancozeb + Metalaxyl – M (Ridomil GoldÒ 68WP); Carbendazim (Carbenvil 50SC); Cuprous Oxide (Norshield 86.2WP)

4. Bệnh thối hạch: (Sclerotinia sclerotiorum)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trên thân, vết bệnh lan rộng làm bong lớp vỏ, làm gãy đổ chồi non. Các hạch nấm màu đen, cứng hình thành là nguyên nhân làm cho bệnh lây lan từ vụ này qua vụ khác và thường ảnh hưởng đến chồi ngọn. Loài nấm này cũng có thể gây hại trên trái, vết bệnh lan nhanh và có màu nâu nhạt bao phủ toàn bộ trái, cuối cùng trên trái sẽ hình thành các hạch nấm màu đen có nhìn thấy bằng mắt thường, lúc này trái sẽ bị rụng. Bệnh này phát triển thuận lợi trong điều kiện ẩm ướt kéo dài và nhiệt độ từ 15 -200C.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn trồng, tiêu hủy tàn dư cây bệnh. Trồng mật độ hợp lý, tỉa bỏ bớt lá già, lá gốc để tạo độ thông thoáng, tránh ẩm độ cao trong đất.

Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo dùng một số loại thuốc có hoạt chất IprodioneTrichoderma spp.

5. Bệnh héo rũ: (Fusarium avenaceum, Giberella, baccata, Gibberella saubinetii)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trong điều kiện thời tiết ẩm ướt, nấm bệnh phát triển nhanh, vết bệnh có thể xuất hiện trên cả cổ rễ và thân. Đầu tiên cây có biểu hiện vàng lá sau đó thân lá và trái héo rũ xuống và chết dần. Ở phần thân, nơi tiếp xúc với mặt đất, các bó mạch dẫn bị nấm tấn công tạo các vết bệnh nâu đen vòng quanh thân làm cho nước và dinh dưỡng không thể truyền được từ rễ lên, gây hiện tượng héo rũ thân lá dẫn đến chết cây.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Hạn chế việc tạo vết thương cho cây trong quá trình chăm sóc, bón phân, tỉa cành, làm cỏ, giữ cho vườn luôn sạch sẽ. Phòng trừ tốt các loại bệnh do nấm và các loài sên, nhớt. Phần gốc cây cần được bảo vệ chống lại ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ và đặt các viên thuốc để dẫn dụ sên nhớt đến tiêu diệt. Những cây bị bệnh cần được di chuyển cẩn thận, đem phơi khô và đốt.

Biện pháp hoá học: Sử dụng các loại thuốc Trichoderma 3,2 x 10bao tử/g sử dụng 3kg/1000mtrộn với phân chuồng hoặc phân vi sinh bón vào đất.

6. Bệnh thối rễ:

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại:

Gây ra bởi Phytophthora cinnamomi thường hoạt động vào mùa hè và mùa thu và Phytophthora megasperma thường hoạt động mùa xuân. Cả 2 loại nấm này đều tấn công trên cây trưởng thành ngoài vườn lẫn trong vườn ươm gây chết cây, nhưng tác hại chính của chúng là nguyên nhân mở đường cho sự tấn công của nấm Fusarium và chết cây do thối ngọn.

Phytophthora cinnamomi là một loại nấm rễ gây bệnh tắc mạch dẫn và gây chết đối với nhiều loài thực vật. Bệnh phát triển mạnh trong môi trường ẩm và ký sinh trên rễ và mô thân gần gốc. Bệnh làm suy yếu hoặc giết chết cây vì gây cản trở việc vận chuyển nước và dinh dưỡng trong cây. Trên cây trưởng thành xuất hiện các triệu chứng cháy lá. Lá chuyển sang màu xanh nhạt rồi chuyển sang màu đồng. Trên trái xuất hiện các vết bệnh lớn, màu xám. Hoa và trái xanh của cây bệnh rất dễ bị rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Điều chỉnh chế độ tưới nước cho phù hợp cũng là biện pháp để giảm sự tấn công của bệnh. Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Thuốc gốc đồng, Fosetum aluminium,

7. Virus:

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Các nhà khoa học trên thế giới đã tìm ra 16 loài virus gây hại trên cây Lạc tiên, trong 16 đó có 2 loại nguy hiểm nhất là PWV và CABMV là nguyên nhân gây ra các vết khảm lá, làm lá nhăn nheo, trái bị biến dạng, gỗ hoá, giảm sự sinh trưởng, phát triển của cây.

Tại Lâm Đồng, việc xác định chính xác có bao nhiêu loại virus gây hại cây Lạc Tiên và phân biệt triệu chứng từng loại chưa được thực hiện, hiện tại các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên có thể nhận biết chung các loại vius qua các triệu chứng như sau:

+Trên trái: Các cây bị virus gây hại trái thường có màu sắc nhợt nhạt, chuyển sang trạng thái khô cứng. Bệnh gây hại nặng có thể làm trái sinh trưởng không bình thường, chuyển sang màu vàng, bị biến dạng, méo mó, khô lại, da quả nhăn nheo, bóp không vỡ, héo khô và rụng nhiều.

Ngoài ra một số vườn trên trái xuất hiện các đốm màu nâu nhạt có thể xuất hiện trên trái bình thường hoặc các trái đã bị biến dạng, méo mó, vỏ quả trở nên dầy và cứng hơn bình thường. Các đốm này có thể hình tròn, màu sắc nhợt nhạt với các đám tập trung đường kính khoảng 3 -7mm. Chúng phát triển dần và lan rộng ra, không có hình dạng nhất định, xuất hiện ở tất cả các vị trí trên trái. Ở các trái chín các đốm bệnh thường trở nên đậm và sáng. Nếu xuất hiện trên trái vẫn còn xanh, tâm của vết bệnh có màu xanh xám. Cuối cùng nhiều vết bệnh liên kết với nhau tạo thành các đốm lớn màu xám trắng.

+ Trên lá: Có rất nhiều các vết lốm đốm nhỏ màu vàng loang lổ trên lá, các đốm này có thể xuất hiện rời rạc hoặc lẫn với các đốm bệnh khác trên lá. Lúc đầu có hình dạng tròn, nhưng khi lan rộng thì nó không có hình dạng nhất định. Và thỉnh thoảng có tâm màu vàng. Vết bệnh cũng có thể xuất hiện ở trên dây hoặc trên cuống lá. Triệu chứng biểu hiện rõ nhất là trên lá già. Lúc đầu các vết bệnh màu vàng nhạt về sau chuyển sang màu vàng sáng, mép lá có những nếp nhăn, méo mó. Lóng trên thân ngắn, tán lá mọc thành chùm, cây chậm sinh trưởng. Gân lá phình to. Ngọn bị vàng và không phát triển được.

+ Trên thân: Các đốm màu xanh sáng có thể xuất hiện ở trên thân và cuống lá của những cây bị ảnh hưởng và rất dễ nhận thấy trên đồng ruộng.

– Sự lan truyền bệnh:

Đầu tiên virus lan truyền bởi quá trình ghép, qua các dụng cụ ghép từ cây bệnh vào trong cây khỏe. Ngoài ra quá trình cắt tỉa cành bằng dao, kéo cũng làm cho virus lây lan. Không có sự lan truyền qua hạt giống, mà có thể lây lan trong quá trình vận chuyển.

Các loài rệp như rệp muội Aphis gossypii rệp đào Myzus Persicae, bọ phấn và các loài chích hút là các môi giới truyền bệnh virus gây hại Lạc tiên.

– Biện pháp phòng trừ tổng hợp:

Giống: Hiện tại chưa có giống kháng bệnh rõ rệt, vì vậy cần nghiên cứu cho ra các giống mới ít nhiễm bệnh virus, chống chịu được sâu bệnh, thích nghi với điều kiện địa phương.

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn trồng, cắt tỉa chồi, lá bệnh, quả bệnh đem tiêu hủy, tưới đủ nước, giữ nước trong mùa khô, luân canh cây trồng, không trồng Lạc tiên trên đất đã trồng các cây họ cà: cà tím, ớt, khoai tây, thuốc lá và dưa chuột vì các loại cây trồng này đều là ký chủ của loài virus, bón phân cân đối và hợp lý, tránh bón quá nhiều đạm nhất là trong mùa mưa. Trong quá trình cắt tỉa từng cây cần có biện pháp xử lý tiệt trùng dụng cụ bằng xà phòng hoặc Na2PO4 (3%) để tránh lây nhiễm từ cây cây bị bệnh sang cây khỏe.

Biện pháp khác: Đối với virus hiện tại chưa có loại thuốc hóa học nào có khả năng phòng trừ hiệu quả. Vì vậy biện pháp quản lý tốt các môi giới truyền bệnh có ý nghĩa rất quan trọng.

Dùng bẫy dính màu vàng để thu hút trưởng thành các loại côn trùng chích hút, dùng giấy bạc, tạo ánh sáng phản xạ xua đuổi côn trùng chích hút, dùng lưới côn trùng quây quanh để bảo vệ vườn trồng.

+ Phòng trừ triệt để ngay từ đầu một số đối tượng trung gian lây truyền virus như các loại rệp, bọ phấn và các loài chích hút bằng các biện pháp như đã hướng dẫn ở trên.

8. Tuyến trùng:

Lạc tiên có 4 loài tuyến trùng gây hại gồm Pratylenchus spScutellonema truncatumHelicotylenchus sp; Meloidogyne javanica. Tuyến trùng không nhìn thấy được bằng mắt thường, kích thước thấy được khi được soi qua kính hiển vi điện tử. 4 loài tuyến trùng đều tấn công bộ phận rễ cây chúng xâm nhập vào rễ theo vết thương cơ giới, hệ thống mạch dẫn của rễ như hệ thống dẫn nước, dinh dưỡng.

Khi chúng xâm nhập vào bộ phận rễ, chúng hút dinh dưỡng để sống, tuyến trùng tấn công vào rễ làm cho bộ rễ phình to lên ở những đoạn có thành phần Kitin, xenlulo kém, khi bộ rễ phình to sẽ làm tắc hệ thống dẫn nước, dinh dưỡng sẽ làm cho cây Lạc tiên héo một cách bất thường, làm lá vàng, quả non rụng giống như triệu chứng thiếu nước.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Bón phân cân đối, chọn giống tốt, chống chịu với sâu bệnh… vệ sinh vườn trồng ngắt tỉa cành lá, tạo độ thông thoáng cho cây.

Biện pháp hóc học: Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Carbosunfan, Ethoprophos xử lý theo liều lượng khuyến cáo

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây Lạc Tiên (Phần 1)

A. Đối với sâu hại

Hiện nay, chưa có danh mục thuốc bảo vệ thực vật đăng ký sử dụng cho cây Lạc tiên. Tuy nhiên, đây là cây ăn quả, dư lượng thuốc BVTV có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người sử dụng. Do vậy, khuyến cáo các tổ chức, cá nhân canh tác cây Lạc tiên nên sử dụng các loại thuốc có tên trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên cây ăn quả và cây rau.

Lạc tiên

Lưu ý: Các loại thuốc khuyến cáo sử dụng như trong phần biện pháp phòng trừ chỉ mang tính chất tham khảo, cần phải được thử nghiệm trên diện tích nhỏ trước khi triển khai áp dụng đại trà để tránh gây thiệt hại trong sản xuất.

1. Nhện đỏ

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Nhện đỏ có kích thước cơ thể rất nhỏ, lấm tấm như cám, mắt thường khó phát hiện. Con trưởng thành đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới của phiến lá. Trứng hình tròn, lúc mới đẻ có mầu trắng hồng, sau đó chuyển sang hồng. Sau khi đẻ khoảng 4-5 ngày thì trứng nở ra ấu trùng. Ấu trùng có mầu xanh lợt (lúc mới nở chỉ có 6 chân, từ tuổi 2 trở đi cho đến khi trưởng thành chúng có 8 chân), khi lớn chuyển dần sang mầu nâu đỏ. Cả ấu trùng và trưởng thành đều sống tập trung ở mặt dưới phiến lá của những lá  non đang chuyển dần sang giai đoạn bánh tẻ.

Triệu chứng: Nhện đỏ gây hại bằng cách hút dịch của mô tế bào lá làm cho mặt trên của lá bị vàng loang lổ, nếu mật độ cao làm lá bị xoăn lại, lá mau rụng và chậm ra lá non. Gặp điều kiện thuận lợi sinh sản rất nhanh, làm cho từng mảng lớn của lá bị vàng, khô, thậm chí toàn bộ lá bị khô cháy và rụng. Hoa bị thui chột không đậu trái được, trái non bị hại lốm đốm vàng và có thể bị rụng, gây thiệt hại lớn cho nhà vườn. Nhện đỏ thường phát sinh và gây hại nặng trong mùa khô nóng hoặc những thời gian bị hạn trong mùa mưa.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cắt bỏ những lá có mật số nhện quá cao đã chớm bị vàng úa đem tiêu hủy để diệt nhện. Có thể dùng máy bơm nước có áp suất lớn xịt mạnh tia nước vào mặt dưới của lá để rửa trôi bớt nhện.
Biện pháp hoá học: Do nhện đỏ có tính kháng thuốc rất mạnh nên khi phát hiện trên cây có nhiều nhện cần dùng luân phiên nhiều loại thuốc. Có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Abamectin, Emamectin benzoate, Propargite sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

2. Bọ xít(Nezara viridula), (Leptoglossus australis)

– Đặc điểm hình thái và tập tính gây hại:

Bọ xít trưởng thành có cánh màu nâu đen với một vài đốm đỏ ở sau đầu và mặt dưới của cơ thể, mình thon mảnh dài 18mm, rộng 6mm, chân dài, râu dài. Sâu non có hình dáng tương tự con trưởng thành nhưng không có cánh, chúng có màu đỏ ở giai đoạn mới nở, giai đoạn sâu non kéo dài khoảng 50 ngày, trưởng thành sống trong vài tuần.

Bọ xít gây hại bằng cách tấn công (chích hút) vào hoa, đọt non và quả non làm cho quả lốm đốm, nếu gây hại nặng làm cho quả rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, dọn cỏ dại, phát quang bờ lô, bụi rậm, bón cân đối N-P-K, dùng vợt tay để bắt bọ xít vào lúc sáng sớm hay chiều mát. Kiểm tra vườn phát hiện và thu gom ổ trứng của chúng đem tiêu hủy.

Nếu mật độ cao có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: AbamectinAcephateAzadirachtinMatrine, …sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

3. Bọ trĩ(Thysanopterasp)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Là loài gây hại dạng chích hút, chúng thường xâm nhập vào bộ phận hoa, lá, quả non để chích hút làm cho hoa khó thụ phấn, quả khó hình thành, gây hại trái làm trái méo mó, dị hình, bề mặt trái bị nám.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Hàng năm xới xáo, thu gom tàn dư thực vật trên đất để tiêu hủy, bón phân, làm cỏ… đúng yêu cầu kỹ thuật. Tưới phun trực tiếp vào các bộ phận bị hại khi bọ trĩ rộ có thể giảm đáng kể tác hại của bọ trĩ.

Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: OxymatrineImidaclopridThiamethoxam.…sử dụng theo liều lượng khuyến cáo, hạn chế sử dụng thuốc phổ rộng.

4. Bọ phấn(Bemisia tabaci)

– Đặc điểm gây hại: Là loài gây hại dạng chích hút, chúng thường xâm nhập vào bộ phận hoa, lá, quả non để chích hút làm cho hoa khó thụ phấn, quả khó hình thành. Bọ phấn tập trung ở mặt dưới lá, chích hút nhựa làm cây suy yếu, bị héo, vàng lá.

Chất bài tiết của bọ phấn tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Bọ phấn thường gây hại trong mùa khô, chúng phân tán nhờ gió.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp cơ giới vật lý: Dùng bẫy dính màu vàng để thu hút con trưởng thành.

Biện pháp hóa học:  Hạn chế phun thuốc hóa học và bảo vệ các loài thiên địch có ích. Sử dụng một trong các loại thuốc có các hoạt chất:

ThiamethoxamOxymatrineDinotefuranAbamectinPetroleum spray oil,  Citrus oil.

5. Rệp các loại

– Đặc điểm và tập tính gây hại: Có nhiều loại: Rệp sáp (Planococcus citri and P. kenya), Rệp muội (Aphis gossypi), Rệp đào (Myzus persicae) và rệp vừng màu xanh quả đào (Myzus persicae)

Các loài rệp này gây hại phổ biến trên cây Lạc tiên, chúng gây hại bằng cách bám vào các bộ phận như: thân, lá, quả non, các khe cạnh giữa cuống quả, lá chúng hút nhựa để sống, làm giảm sự quang hợp của lá, làm cho lá, quả rụng bất thường. Nguy hiểm nhất là rệp sáp chích hút nhựa cây làm cây chậm phát triển, quả nhỏ. Chất bài tiết của rệp là môi trường cho nấm bồ hóng đen phát triển, bám đen cả cành lá và vỏ trái làm giảm giá trị sản phẩm. Hai loài rệp đào (Myzus persicae) và rệp muội (Aphis gossypii) đối tượng mang một loài virus rất nguy hiểm đó là woodiness (PWV).

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cắt tỉa những cành sâu bệnh, cành vô hiệu để giảm nơi sinh sống của rệp. Vệ sinh vườn, dọn sạch cỏ rác, lá cây mục ở xung quanh gốc để phá vỡ nơi trú ngụ của kiến, mùa nắng dùng vòi bơm nước phun vào chổ có nhiều rệp đeo bám có tác dụng rửa trôi bớt rệp, đồng thời tạo ẩm độ trên cây làm giảm mật độ rệp. Kiểm tra để phát hiện sự xuất hiện của rệp, nếu thấy có rệp dù với số lượng ít cũng phải diệt trừ ngay.

Tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có hoạt chất như sau: Abamectin, Abamectin+AlphaCypermethrin, Acephate, Chlorantraniliprole + Thiamethoxam, Emamectin benzoate, Etofenprox,  Thiamethoxam.

Không nên sử dụng liên tục một loại thuốc BVTV nhiều lần/vụ, hoặc qua các năm liên tục, để tránh hiện tượng “quen thuốc ” của rệp sáp.

6. Ruồi đục trái

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Có 2 loài ruồi đục trái gây hại trên Lạc tiên: Bactrocera cucurbitae và Ceratitis capitata. Trái non bị hại nhăn nheo và rụng sớm, vết thương do ruồi đục sẽ làm giảm giá trị thương mại của quả, sự tác động và gây hại của ruồi đục trái trên Lạc tiên thường không nghiêm trọng như trên các cây trồng khác vì vậy nếu gây hại ở mức độ nhẹ thì chưa cần phòng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, cắt tỉa lá già, bệnh, thu gom những trái rơi rụng đem chôn sâu có khử trùng bằng vôi. Thu hái trái sớm hơn bình thường, không để trái chín quá lâu trên cây. Sử dụng biện pháp bao trái bằng túi giấy hoặc báo trước khi trái chín để hạn chế trưởng thành đẻ trứng trên trái. Có thể dùng chất pheromon dẫn dụ với tên thương mại là Vizubon-D để làm bẫy dẫn dụ và tiêu diệt con trưởng thành đực (con ruồi đực). Biện pháp này muốn có kết quả cao nên vận động nhiều nhà vườn cùng tiến hành đồng loạt trên diện rộng.

Biện pháp hoá học: Sử dụng Protein thủy phân trộn chất độc làm bả diệt ruồi đục trái.

Cách làm như sau: pha 100ml Protein thủy phân với 3-5ml thuốc trừ sâu Regent 5SC, pha loãng với 1 lít nước rồi đem phun cho mỗi cây trên diện tích khoảng 1m2 tán lá với lượng 50ml hỗn hợp. Mỗi tuần phun 1 lần lúc 8-10 giờ sáng, ruồi sẽ đến ăn và chết làm giảm được số lượng nên không gây hại được.

7. Sâu đục thân

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Sâu trưởng thành tìm những kẽ nứt của thân cây để đẻ trứng, sâu non nở ra đục vào thân cây tạo thành đường vòng quanh thân, dần dần đục sâu vào trong thân làm rỗng thân. Khi cây vừa bị sâu hại, lá non ở đầu nhánh có màu xanh hơi đậm, hơi xoăn và nhỏ hơn lá bình thường. Cây bị hại nặng thì lá vàng và héo, vỏ thân cây Lạc tiên có dấu hiệu nứt nẻ.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cần tạo hình và cắt tỉa nhánh được tiến hành thường xuyên. Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên giàn đã cho trái, để lại thân và các cành từ mặt đất tới giàn.

Biện pháp vật lý: Quan sát kỹ các thân cây nếu có vết đục của sâu đục thân thì dùng dụng cụ rạch phần thân để bắt sâu, sau đó dùng bao nilon sạch buộc lại vết đạ rạch, kể cả vết đục.

Biện pháp hoá học: Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như Abamectin + MatrineCypermethrinDiazinon Cartap,…sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.