Vì sao cam Cao Phong chưa từng phải nhờ đến cộng đồng “giải cứu”?

Đã từng có thời kỳ, để tiêu thụ được sản phẩm cam Cao Phong (huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình), người trồng cam đã phải “mượn” tên cam Vinh, thậm chí xuất cam sang Trung Quốc, dán nhãn cam Trung Quốc rồi nhập trở lại Việt Nam.

Cam Cao Phong

Đó là thực tế đã diễn ra đối với người trồng cam Cao Phong trong quá khứ, khi những vườn cam chín khắp các triền đồi nhưng không có người mua. Thế nhưng, điều kỳ diệu đã xảy ra vào năm 2014, khi Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp Chứng nhận Chỉ dẫn địa lý cho cam Cao Phong. Từ đó, giá cam Cao Phong mua tại vườn đang từ mức giá 5.000 – 7.000 đồng/kg đã tăng lên từ 25.000 – 40.000 đồng, thậm chí đến thời điểm này cam Cao Phong mua tại vườn đang có mức giá lên đến 80.000 đồng/kg. Mức giá này là không tưởng so với trước đây khi chưa có Chỉ dẫn địa lý.

Câu chuyện về cam Cao Phong nói trên được bà Hà Nguyệt Thu, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo, Cục Sở hữu trí tuệ đưa ra để làm dẫn chứng về tầm quan trọng của Chỉ dẫn địa lý, như một gợi ý cho bài toán nông sản liên tục rơi vào cảnh được mùa – mất giá, thậm chí phải nhờ đến các chiến dịch “giải cứu” của cộng đồng.

Đúng là Chỉ dẫn địa lý mang lại giá trị cho quả cam Cao Phong, vậy Chỉ dẫn địa lý thuộc quyền của ai? Theo bà Hà Nguyệt Thu, đó là quyền sở hữu của nhà nước và nhà nước cho phép các tổ chức, cá nhân nhất định được thay mặt nhà nước thực hiện quyền đăng ký Chỉ dẫn địa lý, và khi thực hiện quyền đăng ký không đồng nghĩa với việc họ trở thành chủ sở hữu. Họ chỉ được quyền quản lý đối với Chỉ dẫn địa lý đó mà thôi.

Cam Cao Phong cuối vụ có giá lên đến 80.000 đồng/kg

“Chỉ những thương hiệu nào đã được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý thì lúc đó mới được coi là Chỉ dẫn địa lý, hoặc thời hạn bảo hộ cho Chỉ dẫn địa lý nhà nước quy định là được bảo hộ vô thời hạn, nhưng vẫn có điều kiện là khi nào các điều kiện địa lý tạo nên danh tiếng, chất lượng, đặc tính, đặc thù của sản phẩm mang Chỉ dẫn địa lý đó vẫn còn được duy trì thì hiệu lực của Chỉ dẫn địa lý vẫn còn. Trường hợp các yếu tố trên bị thay đổi, hiệu lực của Chỉ dẫn địa lý cũng sẽ chấm dứt”.

“Bài học không bao giờ là cũ đối với người Việt khi thương hiệu Cà phê Buôn Mê Thuột của Việt Nam bị rơi vào tay người Trung Quốc. Sau đó chúng ta đã phải áp dụng rất nhiều nỗ lực, bao gồm cả nỗ lực ngoại giao và các chi phí kinh tế, cùng sự vào cuộc của nhiều luật sư, chúng ta mới có thể thực hiện được thủ tục đăng ký Chỉ dẫn địa lý cho Cà phê Buôn Mê Thuột. Tuy nhiên, thực tế chúng ta cũng may mắn khi hệ thống pháp luật của Trung Quốc cho phép chúng ta có thể thực hiện việc hủy bỏ đăng ký nhãn hiệu Cà phê Buôn Mê Thuột tại Trung Quốc. Giả sử trong hệ thống pháp luật của quốc gia khác không thể có cơ chế thực hiện quyền hủy bỏ hiệu lực của một Chỉ dẫn địa lý đã bị một chủ thể khác ở nước ngoài đăng ký tại lãnh thổ quốc gia họ, chúng ta đã không thể đòi được quyền của mình,” bà Hà Nguyệt Thu lấy ví dụ.

Câu chuyện trên cho thấy đây là bài học để các địa phương, người sản xuất luôn nhớ quyền với các tài sản sở hữu trí tuệ, trong trường hợp này là quyền đối với Chỉ dẫn địa lý.

Tại Cao Phong hiện nay, bên cạnh việc bán cam, các hộ dân còn phát triển sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc địa phương, du khách có thể tận hưởng dịch vụ homestay và tự mình hái cam.

Tuy nhiên, để có được thành công như cam Cao Phong, người dân phải đảm bảo ổn định chất lượng sản phẩm, họ cũng không tăng diện tích trồng cam một cách ồ ạt dẫn đến dư thừa nguồn cung.

Quyền SHTT thực chất chỉ là một công cụ góp phần vào thành công của doanh nghiệp. Để tạo sự thành công cho mình, doanh nghiệp cần giữ cho mình được chất lượng sản phẩm cũng như tất cả những thứ làm nên thương hiệu cho mình, nếu chỉ trông chờ duy nhất vào quyền SHTT cũng khó có thể làm nên thành công cho một thương hiệu.

Theo cafef.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Cách phân biệt cam Cao Phong

Để tránh mua phải cam Trung Quốc trà trộn cam Cao Phong và đánh giá đúng chất lượng cam của địa phương, người tiêu dùng cần biết cách phân biệt cam Cao Phong “xịn” và “dởm”.

Phân biệt cam Cao Phong và cam Trung Quốc

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại cam được gắn mác là cam Cao Phong và được bày bán tràn lan tại giỏ hàng của những người bán rong, thậm chí là ở cửa hàng lớn mà giá chỉ vào khoảng 25.000 – 30.000 đồng/kg. Nhưng trên thực tế thì không phải vậy, người tiêu dùng đang bị đánh lừa bởi phần lớn là cam Trung Quốc được lấy từ chợ Long Biên (Hà Nội) mang đi bán.

Phần lớn cam ở chợ Long Biên là cam Trung Quốc với giá thành rẻ chỉ 15.000 đến 17.000 đồng/kg. Rẻ hơn rất nhiều so với cam Cao Phong. Không những thế, một số cửa hàng còn lấy tem cam Cao Phong để gán mác bên ngoài trái cam Trung Quốc rồi bán với giá thành rẻ từ 30.000 đến 35.000 đồng/kg, mà người tiêu dùng không hề hay biết.

Do đó, để nhận biết được cam Cao Phong chuẩn và cam Trung Quốc trá hình, PV đã có cuộc trao đổi với chị Nguyễn Thị Thủy, chủ của hàng hoa quả sạch trên đường Láng, chị cho biết đa phần người mua đều không thể phân biệt được cam Cao phong chuẩn hay là hàng Trung Quốc vì mẫu mã khá giống nhau.

“Hai loại cam nhìn khá giống nhau, người mua cũng khó nhận ra được, tuy nhiên nếu mọi người chịu khó quan sát, để ý kĩ từ hình dáng cho đến chất lượng bên trong của quả là có thể nhận ra ngay đâu là cam chuẩn chính hiệu Cao Phong.

Khi chọn cam, bạn lưu ý nên chọn quả to, quả càng to chứng tỏ cam càng già. Vỏ cam lúc già cũng mỏng và bóng hơn các quả khác. Còn về màu sắc, có màu vàng nhạt, nếu thấy cam có màu vàng tươi, sậm, óng ả thì không nên mua vì rất có thể đó là cam Trung Quốc hoặc cũng có thể là một loại cam khác, người bán không có thông tin, giới thiệu không trung thực về nó.

Đây là đặc trưng rất quan trọng để phân biệt giữa giống cam được trồng ở Việt Nam và cam Trung Quốc. Ngoài ra, cam Cao Phong khi cắt có lá kèm theo thường bị héo sau vài tiếng. Riêng lá kèm theo quả cam Trung Quốc, sau mấy ngày liền lá vẫn cứ tươi như ở trên cây, vì được tẩm chất bảo quản”.

Ngoài cách trên mọi người có thể nhận biết cam Cao Phong chuẩn bằng cách nhìn kích cỡ và chất lượng bên trong quả cam.

“Về kích cỡ, cam Trung Quốc quả rất đều nhau, trọng lượng giữa các quả gần như tương đương nhau. Cam Cao Phong quả không đồng đều, có quả to, quả nhỏ.

Cam Cao Phong, khi thu hoạch vỏ dày, khi bổ ra có màu vàng đậm, có hạt, mùi thơm nồng, tỏa ra một mùi thơm rất hấp dẫn, đặc biệt không loại cam nào có được. Trong lòng quả có nhiều các gân trắng chia đều các múi. Cam Trung Quốc thường không có hạt, màu vạng nhạt, bổ ra không có mùi thơm đặc trưng”, chị Thủy nói.

Cam Cao phong vị đậm, ngọt, thanh mát

Cách chọn cam Cao Phong ngon, chuẩn

Mọi người hãy kiểm tra vỏ cam là biết ngay có phải cam Cao Phong không và có phải cam Cao Phong ngon không. Chỉ cần lấy móng tay bấm vào vỏ cam, thấy sụt nhẹ và tỏa ra mùi thơm phức thì đó chính là cam Cao Phong ngon. Lưu ý nếu thấy móng tay sụt sâu là cam còn non, không nên mua. Hoặc khi bấm móng tay vào không có mùi thơm – ban đầu là sực, hơi hắc, sau đó thì thơm nhẹ hơn – thì đó cũng chưa phải là cam chín, ăn cam lúc này sẽ bị chua hơn và không thơm.

Cam Cao Phong thơm ngon đúng chuẩn

Khi mua cam Cao Phong, cần đến các cửa hàng uy tín, có giấy phép bán hàng chuẩn, không ham rẻ, hãy là người tiêu dùng thông minh khi chọn thực phẩm cho cả gia đình.

Vùng đất Cao Phong – Hòa Bình, nhờ chất lượng ổn định mà hiện nay cam Cao Phong đã tạo được một chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng Việt Nam. Do vậy, người tiêu dùng cần nắm rõ kiến thức để nhận biết được cam Cao Phong chuẩn, nhằm bảo vệ được những loại quả quý của Việt Nam.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Vài nét là cỏ Ba lá – Trifolium Repens

Bộ Bộ Đậu (Fabales)
Họ Họ Đậu (Fabaceae)
Chi Chi Cỏ Ba Lá (Trifolium)
Loài Loài T. Repens
Tên khác Cỏ chìa ba, Ðậu chẻ ba hoa trắng
Tên khoa học Trifolium Repens L
Cây Cỏ Bạc Đầu – Kyllinga Nemoralis
Cây Xăng Sê – Sanchezia Speciosa Leonard

Mô tả: Cây thân thảo, bò lan trên mặt đất, sau vươn thẳng. Thân mềm, dài 30-60cm. Lá kép chân vịt, có 3 lá chét, hình trái xoan ngược, mép có răng, lá kèm hình mũi dùi. Chùm hoa ở nách lá; hoa nhỏ màu trắng phớt hồng, xếp sít vào nhau. Quả nhỏ, có mỏ nhọn, chứa 3-4 hạt.

Ra hoa tháng 5 đến tháng 10.

Cây Cỏ Ba Lá – Trifolium Repens
Thành Phần Cây Cỏ Ba Lá – Trifolium Repens
Bộ phận dùng: Toàn cây – Herba Trifolii Repentis.

Nơi sống và thu hái: Cây được nhập trồng và cũng gặp mọc hoang ở Sapa, tỉnh Lào Cai.

Thành phần hoá học: Trong cây có glucosid cyanogenetic với hàm lượng 6%, bao gồm lotaustralin và pinitol. Còn có các chất oestrogenic.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Là loại cỏ dùng làm thức ăn giàu protein cho gia súc. Ở Ấn Độ, người ta cho biết cỏ này độc đối với ngựa.

Cỏ 3 lá là một loại thảo dược quý, có thể được dùng như một loại thực phẩm bổ sung giàu dinh dưỡng. Tuy nhiên, do thành phần dinh dưỡng chứa nhiều đạm (protein – nhiều hơn cả trong đậu tương), nên loại thảo dược này được khuyến cáo là không nên ăn sống, sẽ gây khó tiêu. Cách ăn tốt nhất là nên luộc kỹ từ 5 – 10 phút. Toàn thân đều được dùng làm thuốc. Thân lá hoa phơi khô nghiền nhỏ được coi là loại bột giàu dinh dưỡng, dùng bổ sung cho trẻ em, người già, người ốm dậy. Hoa khô hãm uống như chè, có tác dụng thải độc, dưỡng da rất tốt.

Về tác dụng dược lý thì loài cỏ 3 lá hoa đỏ được coi là tốt nhất, đặc biệt là đối với chị em phụ nữ vì có chứa thành phần phytoestrogen – một loại hormone tự nhiên. Bởi vậy, cỏ 3 lá hoa đỏ có tác dụng cải thiện tâm trạng, ngăn chặn phát hỏa, cải thiện giấc ngủ, ngăn ngừa loãng xương, tăng cường sức khỏe cho tim mạch và ham muốn tình dục cho phụ nữ tiền mãn kinh. Các tác dụng dược lý khác của cỏ 3 lá hoa đỏ còn có thể kể đến: Hỗ trợ phòng chống loãng xương, làm đẹp da, nở ngực, đặc biệt, hỗ trợ phòng ngừa ung thư vú, ung thư da.

Nguồn: Y dược Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng tỏi nơi đảo xa, nhà nông thu 1-1,3 tỷ đồng/ha

Ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), mỗi năm người dân ở đây trồng được một vụ tỏi (trồng từ tháng 9 – 10 và thu hoạch từ tháng 2 – 3 năm sau). Trung bình mỗi ha tỏi, bà con thu về từ 1 – 1,3 tỷ đồng/vụ, cao hơn bất kỳ cây trồng, công việc nào ở nơi đây…

Nhà nhà trồng tỏi

Toàn huyện Lý Sơn có khoảng 320ha trồng hành, tỏi, phân bố ở cả 3 xã An Vĩnh, An Hải và An Bình, trong đó An Hải là nơi trồng nhiều nhất. Theo báo cáo của Phòng NNPTNT huyện Lý Sơn, hầu hết các hộ dân ở đây đều làm nghề trồng tỏi, hành, dưa hấu, đánh bắt thủy hải sản và một số hộ làm dịch vụ du lịch. Hộ nào ít cũng có 1 sào đất trồng tỏi, hành; hộ nhiều 5 – 7 sào, thậm chí có hộ trồng tới gần 2ha.

Hầu hết người dân Lý Sơn đều làm nghề trồng tỏi

Ông Lê Hoài Ân – Chủ tịch UBND xã An Hải cho biết, trước đây ngành du lịch, dịch vụ ở Lý Sơn chưa phát triển, thương hiệu tỏi Lý Sơn ít được biết đến, giá trị thu nhập thấp nên ít hộ trồng. “Khoảng 7 – 8 năm trở lại đây, tỏi Lý Sơn đã xây dựng được thương hiệu, đặc biệt ngành du lịch, dịch vụ cũng được huyện, tỉnh quan tâm nên du khách tìm đến Lý Sơn tham quan, nghỉ dưỡng ngày một tăng, nhờ đó đầu ra của tỏi, hành tốt hơn và có giá trị ngày càng cao” – ông Ân cho biết.

Cũng theo ông Ân, nhờ có đầu ra tốt, giá trị thu nhập cao (khoảng 50 – 60 triệu đồng/sào/vụ) nên các diện tích đất trống đã được người dân tận dụng triệt để để canh tác, cải tạo trồng tỏi, kể cả những mảnh ruộng chỉ vài chục, thậm chí vài m2 cũng được người dân trồng tỏi, hành…

Anh Lê Tấn Dũng – người thôn Đông, xã An Hải cho biết, hiện ở An Hải đã hết đất để mở rộng diện tích trồng tỏi, hành nên hầu như hộ gia đình nào có đất đều canh tác và chăm sóc cây tỏi, hành rất cẩn thận, sao cho đạt năng suất và giá trị cao nhất…

Cây làm giàu

Từ nhiều năm nay, cây tỏi, hành đã trở thành cây trồng chủ lực, cây thoát nghèo và làm giàu của người dân nơi đây. Theo ông Dũng, từ khi trồng tỏi đến khi thu hoạch mất khoảng 4 tháng, trung bình 1 sào tỏi cho thu nhập từ 50 – 70 triệu đồng, có hộ thu tới 80 triệu đồng/sào.

ó lẽ người trồng nhiều tỏi, hành nhất Lý Sơn phải kể đến anh Dương Giáp (xã An Hải), khi anh có tới 37 sào tỏi, mỗi năm cung cấp cho thị trường hàng chục tấn tỏi tươi và khô, thu về hàng tỷ đồng. Ngoài ruộng của gia đình, anh còn nhận thầu lại ruộng của nhiều hộ dân khác rồi thuê gần chục người làm công cho mình. Anh được người dân nơi đây gọi bằng cái tên trìu mến là “vua tỏi”, không chỉ vì anh trồng nhiều tỏi, mà còn vì anh là người “bắt bệnh” tỏi rất tài tình.

Trồng tỏi giúp người dân Lý Sơn cải thiện đời sống đáng kể

Anh Giáp cho biết, gần 20 năm gắn bó với cây tỏi, giá có thể bấp bênh, song hầu như chưa bao giờ anh thất thu, kể cả vụ năm 2014 – 2015 thời tiết mưa nhiều, nhiều diện tích tỏi của bà con trên đảo bị cát vùi, giập nát thì vườn tỏi của anh vẫn xanh tốt.

Chia sẻ về bí quyết của mình, anh Giáp nói: “Đất trồng tỏi ở Lý Sơn chủ yếu là cát trắng nên khi trời mưa to kéo dài, cát sẽ bị xối vùi đảo lộn rất nhanh, nên cần phải theo dõi thời tiết để xuống giống cho phù hợp. Còn khi nhỡ xuống rồi, gặp trời mưa, bà con nên dùng lưới che để hạn chế mưa trực tiếp xối xuống luống tỏi, hành. Khi trời nắng thì dùng vòi tưới tự động để giữ ẩm cho đất…”.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Trồng tỏi voi Nhật Bản tại đảo Lý Sơn: Cần nghiên cứu khảo sát đầy đủ

Trước việc hai Công ty của Nhật Bản muốn đưa giống tỏi voi Nhật vào trồng tại đảo Lý Sơn (huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), đã đặt ra nhiều vấn đề xoay quanh sự phát triển, cạnh tranh đối với tỏi Lý Sơn.

Tỏi Lý Sơn

UBND tỉnh Quảng Ngãi vừa có buổi làm việc với Công ty Nikken Sekkei Civil Engineering và Công ty CAN Holdings (Nhật Bản) về việc phát triển và tiêu thụ giống tỏi voi của Nhật Bản trên huyện đảo Lý Sơn, đồng thời, hai công ty này giới thiệu sản phẩm tỏi voi của Nhật đối với tỉnh Quảng Ngãi.

Theo đó, tỏi voi  là giống tỏi có năng suất, chất lượng, sản lượng đạt 4,5 tấn/ha, ở Nhật giá tỏi tương đương khoảng 180.000 VNĐ/kg và được sản xuất bằng phương pháp hữu cơ. Công ty này mong rằng sẽ được mang giống tỏi voi sang trồng trên đảo Lý Sơn để xuất khẩu sang Nhật Bản. Điều này đã đặt ra nhiều vấn đề xoay quanh sự phát triển, cạnh tranh đối với tỏi Lý Sơn, vốn là thương hiệu tỏi lâu đời của cư dân vùng đất đảo Lý Sơn.

Trao đổi với Báo SGGP Online, T.S Võ Thị Việt Dung, Giảng viên thuộc Khoa Hóa –Sinh-Môi trường, Trường Đại học Phạm Văn Đồng (Quảng Ngãi), người đã có những nghiên cứu về tỏi Lý Sơn cho rằng, việc đưa các giống ngoại, giống lai về trồng đã có từ nhiều năm trước. Có nhiều giống khi đến vùng đất mới có thể thích hợp thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu mà phát triển tốt, tuy nhiên, cũng nhiều giống cây trồng khi đến một điều kiện khác thì giảm năng suất, chất lượng, không được như kỳ vọng ban đầu.

Người dân Lý Sơn vẫn sản xuất tỏi bằng phương pháp truyền thống

T.S Việt Dung cho biết: “Hiện tỏi Lý Sơn chỉ trồng được 1 vụ, nếu như giống mới có thể trồng quanh năm, đạt được kết quả tốt, năng suất tốt mà vẫn giữ được hàm lượng chất dinh dưỡng trong tỏi thì có thể mở ra một hướng đi mới. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một đánh giá, khảo sát nào về tỏi voi Nhật Bản khi trồng trên đất đảo Lý Sơn nên vẫn chưa thể nhận định được sản phẩm tạo ra có đạt tiêu chuẩn không”. Theo T.S Võ Thị Việt Dung, ngay cả tỏi Lý Sơn khi đem về trồng ở Khánh Hòa cũng không đạt tiêu chuẩn như tỏi trồng trên đất Lý Sơn. Nhật Bản cũng có đảo, biển nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ đạt năng suất, chất lượng, chất dinh dưỡng tương đương khi trồng tại đảo Lý Sơn.

Vì vậy, trước khi thực hiện trồng tỏi voi Nhật Bản, chính quyền, các nhà nghiên cứu cần phải có những khảo sát, đánh giá, thử nghiệm trồng trên 1-2 hộ dân, từ đó có những nghiên cứu hàm lượng dinh dưỡng, năng suất… rồi đưa về Trung tâm Khuyến nông, chứ không nên trồng ngay.

Đồng thời, khí hậu, thổ nhưỡng đảo Lý Sơn có nét riêng biệt: “Đất cát ở Lý Sơn là sự hình thành, kiến tạo qua hàng ngàn năm từ dung nham các miệng núi lửa phun trào từ lòng biển lên. Hằng năm, người dân đảo đem đất, cát này về trồng, nên trong đó sẽ có lẫn vỏ sò, ốc, san hô vỡ, cùng với kỹ thuật trồng lâu đời, người dân Lý Sơn tạo ra hương vị tỏi đặc trưng”-  T.S Võ Thị Việt Dung khẳng định.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Khởi nghiệp từ nuôi chồn hương đến làm cà phê chồn,

Khởi nghiệp với đủ thứ nghề như bỏ mối hải sản, nuôi rắn, môi giới thị trường chứng khoán, cuối cùng anh Nguyễn Văn Cừ (37 tuổi) ở thôn Tân Phú, xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú (Bình Phước) đã tìm cho mình được hướng đi mới.

Năm 2014, anh Cừ bắt đầu nuôi dưỡng, phát triển đàn chồn hương và cho ra “lò” một loại thương phẩm, dân gian quen gọi là cà phê Chồn.

Từ chồn thương phẩm

Chúng tôi tìm đến nhà anh Nguyễn Bá Cừ vào một buổi trưa tháng Mười. Nắng ngoài trời đang lên giữa đỉnh đầu. Anh Cừ đang nhanh tay đảo đều các phên cà phê phơi ngay trước thềm, cười bảo: “Tranh thủ những ngày nắng đẹp, mình hong cà phê. Nắng đẹp thế này, chất lượng cà sẽ rất tốt, hương thơm, vị đậm đà hơn.”

Chồn hương giúp anh Cừ có thu nhập ổn định kinh tế hộ

Anh Cừ bắt đầu câu chuyện về trại chồn và hương và hướng đi của mình bằng một ly cà phê đặc biệt mời khách. Ly cà phê này được anh lấy máy xay và pha trực tiếp tại bàn. Bột cà phê có màu nâu cánh dán mịn màng, tỏa ra một mùi thơm dịu nhẹ. Khi nhấp chút cà phê vô miệng, nghe vị chát nơi đầu lưỡi. Một chút sau vị hậu ngọt kéo dài, đậm đà tới tận trong cuống họng. Anh Cừ cho biết, cà phê Robota khi được thải ra từ chồn sẽ có vị chát mạnh. Sau đó, vị hậu ngọt sẽ kéo dài rất dễ chịu. Đây chính là một trong những giá trị làm lên thương hiệu cà phê Chồn từ trước đến nay.

Để nuôi chồn hương thành công, anh Cừ đã phải quan sát rất kỹ, hiểu được tập quán, tính cách của từng con. Nhất là mùa sinh sản, chồn cái rất chảnh. Khi không chấp nhận chồn đực, anh Cừ phải đổi bạn tình cho chúng. Cừ quan tâm bầy chồn hương như chính con mọn của mình. Với 30 con chồn sinh trưởng hiện tại, mỗi năm trại chồn của anh có có ít nhất 50 lứa chồn non. Mỗi lần chồn cái đẻ được 2-4 chồn con. Giá chồn con khoảng 6 triệu động/cặp. Chồn thương phẩm từ 1,5 đến 1,8 triệu đồng/kg. Mỗi năm từ chồn con và chồn thương phẩm gia đình anh thu lời ít nhất 100 triệu đồng.

Thức ăn của chồn rất đa dạng. Chồn là thứ ăn tạp, vừa chay vừa thịt. Ngoài các loại trái cây như chuối, mít, chôm chôm…chồn còn ăn thịt heo luộc, cháo thịt bằm. Chính vì vậy, việc nuôi chồn được anh Cừ ví như nuôi con mọn. Đặc biệt chồn rất khoái ăn cà phê. Khứu giác lại đặc biệt thính nên nếu cà phê hay trái cây có thuốc, nó sẽ không ăn. Để bảo vệ sức khỏe đàn chồn, anh Cừ đã tiêm thuốc phòng trừ các dịch cúm, vi rút cho chúng. Nhờ vậy đàn chồn của anh Cừ luôn phát triển khỏe mạnh, giúp anh tạo nên một thương hiệu của riêng mình.

Đến cà phê Chồn

Trước đây, anh Cừ từng nuôi rắn ráo trâu. Một đêm, khi đang đi kiếm nhái làm mồi cho rắn, anh Cừ thấy một con chồn chạy trong lô cao su. Trong đầu anh khởi lên ý định sẽ nuôi chồn, kinh doanh chồn thay cho rắn. Thế rồi, anh tìm mua một cặp chồn giống. Chẳng bao lâu, anh đã có bầy chồn hương với 30 chuồng. Bầy chồn này cho anh 100kg cà phê thành phẩm. Số lượng còn hạn chế, nhưng đó là sự khởi đầu đầy hân hoan với anh Cừ và gia đình.

Sản phẩm chê Chồn được hong phơi trong nắng

Hiện đang vào đầu mùa cà phê, anh Cừ liên hệ với các nông dân ở các vùng lân cận để tìm nguồn cà phê sạch làm thức ăn cho bầy chồn. Chồn rất thích ăn trái cà phê, đặc biệt là những trái chín mọng, thơm ngon. Sau khi tiêu hóa xong phần cùi, chồn sẽ thải ra những hạt cà phê còn lại. Người nuôi lấy những hạt này đem phơi nắng. Nếu được nắng đẹp, cà phê có vị rất đặc trưng, ít vị đắng, vị hậu ngọt khéo dài. Hiện tại anh Cừ đã tìm được một số nguồn mua cà phê nguyên liệu. Điều ấp ủ nhất của anh lúc này là tạo ra được thương hiệu của chính mình.

Chia sẻ về bước đi sắp tới, anh Cừ cho biết mình sẽ xây dựng thương hiệu, đăng ký bản quyền thương hiệu. Từ đây, anh Cừ hy vọng cà phê chồn Bình Phước sẽ có hướng đi mới, trở thành món quà kỷ niệm của quê hương Bình Phước cho du khách tới công tác, du lịch.

Mô hình nuôi chồn hương và sản xuất cà phê chồn của anh Cừ đã đem lại thu nhập gần cho gia đình với trên 500 triệu đồng mỗi năm.

Ông Hoàng Phú Quốc, Phó chủ tịch Hội nông dân xã Thuận Phú nhận xét: Mô hình nuôi chồn hương, sản xuất cà phê Chồn của anh Cừ là là một trong những điển hình sản xuất ít đất mà hiệu quả kinh tế cao nhất ở xã Thuận Phú hiện nay.

Anh Cừ tự tay xay, chế và giời thiệu về loại đặc biệt của gia đình mình

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tác dụng của cây Lá đắng (lá mật gấu)

Hiện phong trào sử dụng lá cây “Mật gấu” làm thuốc rất phổ biến. Thực chất đây là cây Lá đắng (khi nhai lá có cảm giác đắng nhưng sau đó lại có vị ngọt trong miệng) ở dạng ăn như rau hoặc nấu nước uống.

Cây lá đắng (bitter leaf) có tên khoa học là: Vernonia amygdalina Del. hoặc Gymnanthemum amygdalinum thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây này được sử dụng từ rất lâu trong y học dân gian ở một số nước Châu Phi (Nigeria, Cameroon, Zimbawe) và Châu Á trong đó hiện phổ biến ở các Nước Đông Nam Á.

Tại Tp. HCM, người dân quen gọi cây Lá đắng với các tên: cây Mật gấu, cây Cơm kìa, cây Kim thất tai. Nhưng thực tế, 3 cây kể trên là tên của ba loại cây rất khác nhau về thực vật, thành phần hoá học cũng như tác dụng trị bệnh.

Trong bài viết này chỉ giới thiệu cây Lá đắng (vì hiện được trồng phổ biến và nhiều người sử dụng) về kết quả của các nghiên cứu từ nước ngoài về thành phần hoá học, tác dụng, cách dùng trong trị bệnh cũng như những lưu ý khi sử dụng trong hỗ trợ chữa trị một số bệnh thường gặp.

1. Thành phần hoá học:

Vị đắng của lá do những chất alkaloids, saponin, tannin, glycoside. Cây chứa các hợp chất có tác dụng sinh học khác như: terpene, steroid, coumarin, flavonoid, acid phenolic, lignan, xanthone, anthraquinone, edotide and sesquiterpene (có tác dụng kháng ung thư). Ngoài ra lá còn chứa các chất khoáng: magnesium, chromium, manganese, selenium, sắt, đồng, kẽm, Vitamin A, E, C, B1,B2. protein thô, chất xơ, chất béo, tro, carbohydrate, các acid amin quan trọng: Leucine, Isoleucine, Lysine, Methionine, Phenyl alanine, Threonine, Valine, Histidine, Tyrosine.

2. Tác dụng dược học:

Những hợp chất trong Lá đắng có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh do quá trình viêm mạn tính, lão hoá, bệnh nhiễm giun sán, động vật nguyên sinh (protozoan) và vi khuẩn.
Theo công bố trên Quyển Y – Sinh học thực nghiệm tháng 2 năm 2004 (Experimental Biology and Medicine of February 2004 Edition) cho thấy lá Đắng có tác dụng hạ thấp tỉ lệ nguy cơ bị ung thư vú.

Lá Đắng dùng nấu dạng canh rau hay xay nhuyễn lấy nước uống như dạng nước bổ dưỡng trong nhiều dạng bệnh lý khác nhau. Nhiều thầy thuốc ở Châu Phi khuyên người dân dùng trị bệnh đường tiêu hoá, đái tháo đường, chán ăn, kiết lỵ và các chứng rối loạn tiêu hoá.

Các Polyphenol có tính kháng viêm và anti – oxidant, thải độc, bảo vệ thận, gan, hỗ trợ điều trị một số bệnh ngoài da. Giảm đường huyết, bao vệ tim mạch do giúp ổn định lipid máu.

3. Độc tính:

Sau 6 tuần cho động vật uống dịch chiết lá Đắng với nước, cho thấy không có sự khác biệt giữa động vật được uống và không uống nước lá Đắng về:

Mô học của tim, gan, thận và ruột khi sinh thiết,

Trọng lượng cơ thể,

Số lượng tế bào máu: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu.

Kết quả này cho thấy dịch chiết lá cây Lá Đắng chưa ghi nhận độc tính trên thực nghiệm, ngay cả khi uống kéo dài.

4. Cây lá đắng dùng trị bệnh gì?

4.1. Dựa trên tác dụng dược học và kinh nghiệm sử dụng trong y học dân gian của các nước. Cây Lá đắng hiện được sử dụng như một chất chống oxy hoá, hỗ trợ điều trị một số loại mạn tính như sau:

Đái tháo đường type 2,

Rối loạn lipid máu,

Tăng huyết áp,

Một số bệnh đường tiêu hoá: viêm đại tràng, rối loạn tiêu hoá…

4.2. Các nhà nghiên cứu cho biết y học dân gian ở nhiều quốc gia đã dùng cây Lá đắng chữa bệnh:

Ấn Độ: dùng lá chữa tiểu đường, dùng cành, rễ hỗ trợ điều trị HIV, hạ sốt, giảm ho, phát ban, cảm cúm, viêm vú.

Congo: dùng lá và vỏ rễ chữa kiết lỵ, viêm dạ dày, ruột, sốt rét, viêm gan, nhiễm giun.

Nam Phi: dùng rễ chữa sán máng (huyết hấp trùng), hiếm muộn, rối loạn kinh nguyệt.

Ở khu vực Tây Phi: dùng lá làm trà lợi tiểu, chữa táo bón, nhiễm trùng da, đái đường, bệnh chuyển hóa liên quan đến gan…

5. Lời khuyên:

Qua quan sát bước đầu ghi nhận nhiều người bệnh bị Tăng huyết áp, Đái tháo đường, rối loạn tiêu hoá,…có sử dụng kèm nấu nước Lá Đắng nhận thấy ổn định đường huyết lúc đói (kết hợp ăn kiêng, sử dụng thuốc hạ đường liều thấp), ổn định chỉ số đo huyết áp, đặc biệt ổn định tình trạng rối loạn đại tiện (tiêu phân nát, đại tiện nhiều lần trong ngày), tăng cảm giác ngon miệng…

Phản ứng ngoại ý: chưa ghi nhận những phản ứng ngoại đáng kể. Tuy nhiên khi sử dụng liều cao (trên 15g) vài người bị táo bón, huyết áp giảm, cảm giác ngọt ở miệng kéo dài.
Mặc dù theo các tài liệu nước ngoài cho thấy Lá Đắng an toàn khi uống. Tuy nhiên, hiện trong nước chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng như lâm sàng được công bố. Nên rất cần được theo dõi và đánh giá thêm.

Trong quá trình sử dụng cần tuân thủ sự kiểm tra của thầy thuốc cũng như nên định kỳ thực hiện các xét nghiệm đánh giá tình trạng bệnh cũng như chức năng gan, thận…
Sử dụng bắt đầu liều thấp, không ngưng đột ngột các thuốc đang điều trị đặc hiệu (thuốc hạ áp, hạ đường…) và theo dõi các biểu hiện bất thường của cơ thể. Liều khuyên dùng khoảng 10g lá tươi (khoảng 3 – 5 lá) và 5 – 8g lá dạng khô.

Nguồn: Bs Trần Văn Năm – Nguyên Phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

8 Kỹ thuật cách trồng cây mật gấu đơn giản nhất

Cách trồng cây mật gấu đơn giản nhất là cách giâm cành. Nhiều bạn thí điểm biện pháp này trên cây mật gấu đã thu được các hiệu quả cao.

Chính từ các thời gian làm việc của những người đi trước chỉ cho, các bạn biết đâu là biện pháp lợi nhuận khổng lồ đưa loại cây thảo dược quý này từ những vùng núi cao về với cuộc sống đời thường, giúp ích cho nhiều người đang cần tới sự hỗ trợ của chính nó.

Theo y khoa gia truyền, cây mật gấu có khả năng rất tốt trong trợ giúp chữa trị bệnh về dạ dày, bệnh đường ruột, chứng bệnh đau nhức xương khớp, rối loạn tiêu hoá, tê thấp.


Cây mật gấu còn giúp mát gan, phòng chữa sỏi Mật, thấp khớp, đỡ đau sống lưng, giúp tăng sức khoẻ…Ngoài ra là dòng thảo dược làm tiêu mỡ, trị VĐT, giã rượu, trị bệnh bụ bẫm, bệnh Gút.

Cách trồng cây mật gấu

Chuẩn bị hom giống: thứ nhất chọn lựa những cây mật gấu khỏe mạnh , không mắc sâu bệnh, cắt thành các hom giống.

Sẵn sàng vườn ươm giâm hom: cần khu đất đạt ĐK về độ ẩm ướt tốt nhất, do cây mật gấu là loại cây ưa ẩm. tuy vậy cũng nên bảo đảm khu đất có công dụng thoát úng tốt vì cây mật gấu có thể không sống xót trong môi trường thiên nhiên ngập nước. Quanh vùng ươm giâm hom phải là chỗ mát mẻ.

Nếu chú ý sẽ thấy cây mật gấu chỉ phát triển ở những vùng núi với điều kiện khí hậu lạnh. Đất ở vườn ươm giâm hom nên có tính gần tương đồng so với đất nơi cây mật gấu phát hiện. Nếu tính đất khác biệt quá, thì cây giống có mạnh khỏe cũng không trong lúc này thích nghi với những thay đổi đột ngột môi trường sống.

Cắt và cắm hom: cắt cành giống vào những ngày râm mát, có mưa nhẹ hay buổi sáng, chiều mát. lúc cắt chấm dứt, nên phun nước lã, đặt đứng vô những xô chậu có nước cao 5cm, tiếp đến che đậy lại. mang lại vườm ươm, cắt thành các hom dài khoảng 5 tới 7cm, có từ 2 tới 4 lá. Cắt hom ngừng rồi đem giâm ngay. Hiện tại, các hom xử lý bằng 1 trong những các chất kích thích ra rễ như IBA, NAA tiếp đến đem đi cắm.

Cắm hom vào luống: Từ lúc căm hom vô luống đến khi hom ra rễ nên luôn luôn bảo đảm duy trì độ ẩm ướt tốt trong vườn ươm.

Nên trồng cây mật gấu ở đâu

Cây mật gấu là loại cây thảo dược liệu quý, có tương đối nhiều tác dụng tốt trong giúp sức khám chữa những bệnh liên quan đến đường tiêu hóa – không ổn định đường hệ tiêu hóa, bệnh đường ruột; có tác dụng mát gan, trị những bệnh về xương khớp ( đau sống lưng, nhức mỏi tay chân,…), trị bệnh Gut, phòng bệnh béo tốt, giúp tăng tốc sức đề kháng cho cơ thể.

Cây mật gấu khác với các loại cây cam thảo dược liệu có môi trường thiên nhiên sống trải rộng, địa phận sinh trưởng & phát triển bỗng nhiên của chính nó chỉ bó hẹp trong địa phận núi cao của một số tỉnh thuộc khoanh vùng miền núi phía Bắc. những Khu Vực này thường là những Quanh Vùng núi cao, có địa hình khá hiểm trở, để có thể đi lại và di chuyển thu hái và đem cây về bên dưới vùng thấp cũng phải mất đến một trong những ngày đường. Chính điểm đó khiến người ta nghĩ đến việc nhân giống cây mật gấu tại các vùng trung du và các vùng có giao thông dễ dãi.

Vậy, để nhân giống thành công cây mật gấu thì phải đưa cây mật gấu trồng nơi nào là hài hòa và hợp lý và cho hiệu quả tối ưu nhất sẽ là vấn đề được gây được sự chú ý nhiều nhất.

Đầu tiên để định vị được cây mật gấu trồng ở đâu thì là hợp lý & lợi nhuận cao thì cần phải tìm hiểu kỹ lưỡng điều kiện khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và thủy văn nơi cây mọc tự nhiên; kế tiếp đối chiếu xem khu vực nào ở dưới vùng thấp có điều kiện bỗng nhiên tương đương cao nhất với nơi đó. bất kể loại thực vật nào cũng có các nhu cầu nhất định về giới hạn sinh thái, vượt quá giới hạn này cây sẽ không còn lưu hành chứ chưa nói đến vấn đề sinh trưởng và phát triển tốt.

Hướng đến kỹ lưỡng về điều kiện tự nhiên của nơi làm ra cây mật gấu sẽ giúp đỡ cho tất cả những người đang ấp ủ nguyện vọng nhân giống và phát triển thành công cây mật gấu sớm đạt được điều mà mình mong muốn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nhân giống chè bằng giâm cành

Sau khi chọn được giống tốt hoặc những cây đầu dòng ưu tú, cần phải tiến hành nhân giống với số lượng lớn để phục vụ sản xuất. Hiện nay trong sản xuất áp dụng phương nhân giống chè vô tính (giâm cành).

1. Đặc điểm phương pháp nhân giống chè bằng cành.

Giâm cành là biện pháp nhân giống vô tính, từ một đoạn cành chè bao gồm 1 – 2 lá cùng với chồi nách đem giâm trên một nền vật liệu (đất, cát) để tạo thành cây mới.

Phương pháp giâm cành có ưu và nhược điểm sau:

1.1. Ưu điểm:

– Quần thể đồng đều, giữ nguyên đặc tính cây mẹ.

– Năng suất cao, chất lượng và tính chống chịu ổn định.

– Hệ số nhân giống cao hơn nhân giống bằng hạt từ 15 – 20 lần.

1.2. Nhược điểm:

– Đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật công phu.

– Giá thành cao hơn nhân giống bằng hạt (thông thường chi phí trồng cành gấp 6 – 8 lần so với trồng bằng hạt).

2. Kỹ thuật giâm cành

2.1. Chọn địa điểm làm vườn giâm.

– Chọn nơi đất bằng hoặc hơi thoải dưới 5 độ, thoáng, gần nguồn nước tưới.

– Mực nước ngầm nhỏ hơn 1 mét, tiện lợi giao thông đi lại.

– Gần khu vực trồng chè.

2.2. Chọn thời vụ giâm

* Ở phía Bắc có 2 thời vụ giâm cành tốt nhất là vụ đông xuân và vụ hè thu.

– Vụ đông xuân có thể giâm cành từ 15 tháng 11 năm trước đến trung tuần tháng 2 năm sau.

– Vụ hè thu có thể giâm từ trung tuần tháng 6 đến trung tuần tháng 8. Vụ hè thu tỷ lệ sống thấp hơn vụ đông xuân do nhiệt độ không khí cao, mưa nhiều rất khó điều chỉnh ánh sáng và độ ẩm hợp lý. Nếu không thiếu giống nghiêm trọng thì miền Bắc chỉ nên giâm cành vào vụ đông xuân để vừa có hiệu quả trong sản xuất cây giống, vừa để vườn giống gốc có thời gian phục hồi sức sống.

* Ở miền Nam (vùng Tây Nguyên và Bảo Lộc): Thời vụ giâm từ tháng 4 đến tháng 8.

2.3. Thiết kế luống, chọn đất và đóng bầu

Sau khi chọn địa điểm tiến hành san bằng, đóng cọc căng dây phân luống. Những nơi sản xuất nhiều cần phân nhỏ thành từng vườn, mỗi vườn khoảng 500m2, vườn nọ cách vườn kia 2 m để cho thông thoáng.

Trong vườn cần xác định vị trí để đào giếng lấy nước tưới. Luống chè là nơi đặt các bầu chè giâm.

Luống có chiều dài 15 – 20 m, chiều rộng 1,0 – 1,2 m, giữa 2 luống chừa lại 1 rãnh rộng 40 – 50 cm để đi lại chăm sóc.

Xung quanh vườn đào hệ thống rãnh tiêu nước để đảm bảo vườn không bị úng khi mưa nhiều. Để đóng bầu cần chọn đất tơi xốp, đất có thành phần cơ giới trung bình.

Ở miền Bắc đất thường có màu đỏ nâu, ở miền Nam (Bảo Lộc) đất có màu xám.Trước khi lấy đất cần gạt tầng đất mặt từ 10 – 20 cm. Đất được đập nhỏ qua sàng (đường kính viên đất nhỏ hơn 0,5 cm), nếu có điều kiện đất có thể được phơi khô trước khi cho vào bầu càng tốt.

Túi đóng bầu là túi PE thường có kích thước 10 cm (nửa chu vi) x 16 cm (chiều cao) hàn đáy và đục 6 lỗ ở phần 1/3 đáy, đường kính lỗ đục 0,8 -1,0cm (nên dùng túi có màu tối, có độ dai, bền).

Khi đưa đất vào túi bầu phải nhồi chặt, xếp bầu vào luống thật đứng và sít vào nhau, dùng che nứa nẹp xung quanh luống, giữ bầu đứng không nghiêng, không đổ.

2.4. Làm giàn che

* Tác dụng của giàn che:

– Giàn che có tác dụng che nắng, che mưa, gió.

– Giữ độ ẩm không khí và nhiệt độ thích hợp cho vườn. * Nguyên liệu làm giàn che bao gồm:

– Khung giàn thường làm bằng tre, những nơi có kế hoạch sản xuất bầu chè lâu dài, cột giàn có thể đổ bằng bê tông.

– Cọc giàn không được chôn vào rãnh luống sẽ rất khó khăn khi đi lại chăm sóc, khoảng cách 2,5 – 3m có 1 cọc.

– Mái và che xung quanh che nhiều lớp bằng lưới nilon màu đen (có thể che bằng phên nứa, cỏ tế, lá mía), nhưng tốt nhất là phên nứa, vì thuận lợi điều chỉnh ánh sáng và ẩm độ, nhiệt độ tốt hơn cho cây.

– Độ cao che giàn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng để đảm bảo cho đi lại chăm sóc tiện lợi dễ dàng ở Việt Nam nên làm cao từ 1,7m – 1,8m.

– Kiểu giàn che hiện nay rất phong phú tuỳ theo từng nơi.

Ví dụ:

– Ở Gruzia làm giàn vòm phủ kín bằng vải trắng để có ánh sáng yếu nhưng giữ ẩm tốt, bên trong có vòi tưới phun tự động.

– Srilan ka làm giàn thấp sát đất đỡ tốn vật liệu nhưng đi lại chăm sóc khó khăn.

– Trước đây Việt Nam làm nhiều kiểu giàn khác nhau, ở Tây Nguyên có kiểu giàn bể giâm cành, xây bằng gạch nửa chìm trên dậy nylon để giữ ẩm, loại giàn này thích hợp với vùng khô Tây Nguyên.

– Ở Bảo Lộc làm giàn che cao 1,8 – 1,9 m, trên che bằng lưới thưa màu đen.

Vườn giâm cành chè

2.5. Chọn cành, cắt hom và cắm hom

* Chọn cành:

– Chọn cành khỏe không sâu bệnh, cành bánh tẻ, độ dài và đường kính hom tùy theo giống.

– Đường kính hom từ 4 – 6mm, chiều dài hom từ 4 – 6cm (giống PH1), đường kính hom từ 2 – 3,5 mm, dài hom từ 3 – 5cm (các giống chè LDP1, LDP2).

– Màu sắc hom tùy theo giống, giống PH1 yêu cầu màu xanh. Giống TRI777 và các giống LDP1, LDP2 có màu nâu sáng.

– Cành chè khi cắt cần nguyên vẹn, tránh giập lá, gãy cành.

* Cắt hom:

– Khi cắt cành về cần cắt ra hom ngay, dụng cụ cắt hom bằng kéo sắc, vết cắt yêu cầu gọn, nhẵn không được dập xước.

– Mỗi hom có một mầm nách còn nguyên vẹn. Cắt mỗi hom 1 lá nguyên (giống lá nhỏ), cắt bớt 1/3 lá để giảm thoát hơi nước (giống lá to). Vết cắt trên và dưới theo mặt chiếu bên của hom có dạng hình thang cân. Tiêu chuẩn hom như bảng sau:

Tiêu chuẩn hom Tiêu chuẩn hom Tiêu chuẩn hom
Hom loại 1 Hom loại 1 Hom loại 1
Hom loại 2 Hom loại 2 Hom loại 2
Chiều dài hom (cm) Chiều dài hom (cm) Chiều dài hom (cm)
3,5 – 5,0 3,5 – 5,0 3,5 – 5,0
3,5 – 4,5 3,5 – 4,5 3,5 – 4,5

Cắt hom chè

* Cắm hom:

– Trước khi cắm hom, bầu đất cần được tưới ẩm 80 – 85% bằng ô doa, hom chè được cắm thẳng đứng, lá xuôi theo chiều gió, cuống lá gần sát đất.

– Không cắm sâu quá mầm dễ bị thối, sau khi cắm xong phải tưới ẩm ngay, tốt nhất là tưới dưới dạng sương mù.

Cắm hom chè

2.6. Bảo quản, vận chuyển hom

– Trường hợp cần vận chuyển hom đi xa thì nhất thiết phải bảo quản hom

trong túi PE dày 0,5 mm, kích thước túi 100 x 80 cm, đựng 300 – 4000 hom/túi, buộc kín phun ẩm, bảo quản được 5 – 7 ngày.

– Khi vận chuyển hom bằng ô tô cần phải làm giá đỡ nhiều tầng, để mỗi tầng chỉ xếp một lượt túi, tránh chống lên nhau làm cho hom giập nát. Xe vận chuyển phải có mui bạt che phủ.

– Trước khi cắm hom chè có thể xử lý bằng sunfat đồng (CuSO4) 0,1% để xử lý nấm bệnh.

2.7. Quản lý chăm sóc vườn giâm cành

Chăm sóc vườn ươm là khâu rất quan trọng quyết định trực tiếp đến tỷ lệ xuất vườn, chất lượng cây giống của vườn ươm.

2.7.1. Tưới giữ ẩm

Vườn ươm phải luôn luôn được duy trì độ ẩm thích hợp tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của hom chè mà yêu cầu tưới nước khác nhau.

– Giai đoạn 1:

Từ khi cắm cành đến 15 – 20 ngày đầu, hom chè vừa tách khỏi cây mẹ sống tự lập, chưa ổn định, lá từ trạng thái tươi đến héo rũ, cần tưới đủ ẩm, giảm bớt sự thoát hơi nước qua mặt lá. Yêu cầu độ ẩm không khí 80 – 90%, độ ẩm đất 80%, vườn ươm cần che kín cả xung quanh. Thông thường nếu trời không mưa mỗi tưới 1 – 2 lần, lượng nước 1 – 2 lít cho 1 m2, tốt nhất dùng bình bơm tay để tưới.

– Giai đoạn 2:

Giai đoạn từ 15 – 30 ngày lúc này vết cắt của hom liền, hom chè hút nước mạnh, mặt lá có sức căng lớn, mô sẹo bắt đầu hình thành. Lượng nước tưới lúc này vừa phải 2 ngày tưới 1 lần, mỗi lần 1,5 lít nước cho 1 m2. Độ ẩm đất yêu cầu 70 – 80% (dùng bơm tay, ô doa hoặc vòi phun mưa).

– Giai đoạn 3:

Giai đoạn từ 30 – 60 ngày. Rễ bắt đầu hình thành và phát triển, lượng nước cần phải tưới thường xuyên, 2 – 3 ngày tưới 1 lần, mỗ i lần tưới 1,5 lít nước cho 1 m2 bầu, độ ẩm đất yêu cầu 75 – 80% (dùng ô doa hoặc vòi phun mưa).

– Giai đoạn 4:

Giai đoạn từ 60 – 90 ngày. Bộ rễ hom giâm phát triển mạnh, đặc biệt là rễ hút, cây bắt đầu sử dụng dinh dưỡng trực tiếp từ bầu đất. Giai đoạn này kết hợp với việc bón phân cần duy trì lượng nước thường xuyên đầy đủ để cây phát triển tốt, 3 ngày tưới 1 lần, mỗi lần từ 1,5 – 2 lít nước cho 1 m2 bầu, độ ẩm đất yêu cầu 75-80% (dùng ô doa tưới hoặc vòi phun mưa).

– Giai đoạn 5:

Giai đoạn từ 90 – 120 ngày đây là giai đoạn sinh trưởng của mầm chè, do vậy nhu cầu nước tưới tăng, độ ẩm đất yêu cầu 70 – 80%, 5 – 6 ngày tưới một lần, lượng nước tưới 2 lít cho 1 m2 bầu, nếu quá khô tăng số lần tưới.

– Giai đoạn 6:

Giai đoạn từ 120 – 180 ngày sau giâm. Bộ rễ lúc này bắt đầu phát triển mạnh, chiều cao cây đạt khoảng 20 – 30cm, rễ phát triển dài 10 – 20cm, cây con đã hoàn chỉnh và nhiều cây đã đủ tiêu chuẩn xuất vườn. Độ ẩm đất yêu cầu thấp hơn 70 – 75% vì vậy số lần tưới có thể thưa hơn khoảng 5 – 6 ngày tưới 1 lần, lượng nước 3 lít cho 1 m2 bầu (tưới bằng ô doa hoặc vòi phun).

Tưới nước

2.7.2. Điều chỉnh ánh sáng

Hom chè giâm mỗ i giai đoạn cần có lượng ánh sáng khác nhau, đòi hỏi điều chỉnh ánh sáng phù hợp.

– Vụ Đông Xuân:

Trong thời gian 60 ngày sau cắm chỉ để 15 – 20 % ánh sáng trực xạ, vì vậy lúc này cần che kín cả trên mái và xung quanh chỉ mở xung quanh khi trời râm mát.

Từ 60 – 90 ngày mở xung quanh để tăng lượng ánh sáng vì lúc này là thời gian mầm bắt đầu phát triển và mở phần rãnh khi trời râm mát (nếu che bằng lưới thì mở bớt lớp).

Từ 90 – 120 ngày mở giàn che mái 30% (phên ở rãnh), để tăng cường độ ánh sáng cho cây chè có thể quang hợp tốt.

Từ 150 – 180 ngày mở giàn che 50%. Sau 180 ngày mở toàn bộ giàn che và xung quanh để cây thích nghi với điều kiện tự nhiên.

– Vụ Hè Thu:

Sau khi cắm hom 1 – 30 ngày che xung quanh từ 7 giờ sáng đến 15 giờ chiều. Từ 60 ngày che xung quanh từ 8 giờ sáng đến 16 giờ chiều.

Từ 60 ngày – 90 ngày che xung quanh từ 10 giờ đến 13 giờ chiều. Sau 120 – 150 ngày mở phên che giãnh để đảm bảo cho cây chè có thể quang hợp (mở 50%) những ngày nắng to nhiệt độ cao phải che lại.

Từ 150 ngày trở đi có thể mở dần toàn bộ giàn che, để cây thích nghi với điều kiện ánh sáng tự nhiên.

2.7.3. Bón phân thúc cho vườn ươm

Hom chè sau khi giâm trong vòng 2 tháng đầu tuyệt đối không được bón bất kỳ loại phân gì, vì lúc này là giai đoạn hình thành mô sẹo và rễ. Trong suốt giai đoạn vườn ươm cần được cung cấp phân đạm, lân, kali ngày một tăng, theo bảng sau:

Thời gian cắm hom Đạm Sun phát Đạm Ure Supe lân Kali Sunphat hoặc Kali Clorua
Sau 2 tháng 9 5 4 10
Sau 4 tháng 13 7 6 10
Sau 6 tháng 17 9 8 11
Sau 8 tháng 21 10 12 19

Cách bón:

Hoà tan phân vào ô doa tưới rải đều trên mặt luống (nồng độ 1%), sau đó tưới rửa lại bằng nước lã, khi mầm chè mọc cao đã có 2 – 3 lá hoàn chỉnh có thể tiến hành phun ure 2% (1 lít phun cho 5 m2 bầu) kết hợp với phun thuốc bảo vệ thực vật.

Có thể tăng lượng phân bón lên 1,5 – 2 lần so với lượng trên nhưng phải thêm 2 – 4 lần bón nữa (tăng số lần và lượng bón, không được tăng nồng độ mỗi lần bón, rút ngắn khoảng cách giữa hai lần bón) trong thời gian từ 2 – 8 tháng sẽ làm tăng tỷ lệ xuất vườn của vườn ươm.

Bón phân thúc

2.7.4. Dặm cây, phá váng, vê nụ và bấm ngọn.

Bầu chè phải thường xuyên được xăm xỉa bằng dụng cụ chuyên dùng có đầu nhọn để tạo sự thông thoáng cho cây chè sinh trưởng, phát triển. Thường khi quan sát thấy bề mặt bầu đất bị váng chặt là chúng ta cần xăm xỉa ngay. Cần chú ý trước lúc tưới phân 1 – 2 tuần bầu chè được xăm xỉa cho đất trong bầu thông thoáng.

Thường xuyên tiến hành kiểm tra vườn ươm và tiến hành giặm ngay những hom chết, hom bị sâu bệnh (cắm dự phòng 10% số hom để dặm).

Ngắt hết nụ và hoa trên hom chè để tập trung dinh dưỡng vào cho hom giâm phát triển rễ và mầm, một tháng trước khi đem trồng tiến hành bấm ngọn những cây cao khống chế cây ở độ cao 25 – 30 cm.

Xới phá vàng, dặm cây

2.7.5. Phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại

Sau khi cắm hom 7 ngày ta nên phun kép 2 lần cách nhau 10 ngày các thuốc sau: Comite 73EC 10ml +Manage 5WP 10 gam + Atonik 3ml cho 1 bình 10 lít phun cho 3 vạn bầu. Mục đích phun Comite để trừ nhện đỏ còn lại trên lá chè từ vườn giống gốc, thuốc manage 5WP có tác dụng làm cho nấm không xâm nhập vào các vết cắt và diệt các nấm ký sinh còn trong đất, Atonik là thuốc kích thích sinh trưởng khi phun lên đất có tác dụng làm hom chè nhanh hình thành mô sẹo và ra rễ.

Sau hai tháng hom chè đã bắt đầu nảy mầm đồng thời cũng là thời kỳ phát sinh của rầy xanh nên dùng thuốc Actara 25WG pha 1 gói 1 gam cho 10 lít nước phun cho 3 vạn bầu hoặc dùng Admire 50EC pha 10 ml cho bình 10 lít nước; Butyl 10WP pha 25 gam cho bình 10 lít nước; Padan 20 gam cho bình 10 lít nước.

Sau 5 – 7 tháng trong vườn ươm xuất hiện bọ cánh tơ ta dùng thuốc Confidoe 100 SL pha 10ml cho bình 10 lít nước. Đồng thời trong thời gian này thường có bọ xít muỗi gây h ại có thể dùng các loại thuốc sau: Bulldok 25 EC pha 15 ml cho 1 bình 10 lít nước hoặc Bestox 5EC.

Trong vườn ươm thường có nhện trắng hại lá và búp non cần phát hiện sớm phun Comite 73EC hoặc Nissorun 5EC, chú ý khi phun thuốc phải ngửa vòi phun cho ướt đều mặt dưới của lá, búp non hoặc thuốc Dandy 15EC pha 20 ml cho bình 10 lít.

Ngoài ra, trong vườn ươm còn xuất hiện một số bệnh đốm nâu, đốm xám, thối búp, rụng lá… cần vệ sinh vườn ươm thường xuyên, khi thấy bệnh xu ất hiện từng chòm nhỏ nên phun thuốc ngay, tốt nhất là dùng Manage 15WP một gói 10 gam pha cho 10 lít nước đồng thời có thể kết hợp 3-5 ml Atonik để cây chè phát triển nhanh và tăng cường sức đề kháng. Ngoài ra có thể dùng Daconil 500 SC, Til-supe và Boocđô để trừ các bệnh này.

Thường xuyên vệ sinh vườn ươm, nhặt những hom chết, que, cọc, lá rụng và nh ổ cỏ xung quanh vườn và trong bầu đất để tránh tranh chấp dinh dưỡng và giảm tác hại của sâu bệnh.

2.7.6. Luyện cây, phân loại

Luyện cây là một biện pháp kỹ thuật tổng hợp bao gồm các khâu: Điều chỉnh ánh sáng, độ ẩm đất cho cây thích nghi dần với điều kiện tự nhiên, điều chỉnh lượng phân bón để tạo điều kiện cho cây phát triển cân đối. Luyện cây tiến hành theo các nguyên tắc sau:

– Điều chỉnh ánh sáng: Khi cây đã đủ chiều cao cần cho ánh sáng trực xạ chiếu vào 100%, có thể đưa ra cạnh luống hoặc đưa hẳn ra ngoài vườn (không để tấm che) thời gian này trước khi trồng 1-2 tháng.

– Điều chỉnh độ ẩm: Trước khi đưa trồng 1 – 2 tháng không nên tưới quá ẩm mà chỉ tưới giữ ẩm 70%.

– Phân bón: Trước khi xuất bầu trồng 2 tháng không được bón phân và phun thuốc kích thích.

– Đảo bầu cây: Cây cần được nhấc ra khỏi vị trí để làm đứt những rễ bám sâu vào đất trước khi trồng 1 – 2 tháng, (có thể kết hợp tiến hành phân loại bầu).

Khi vườn ươm có 60% số cây cao > 20cm thì phân loại những cây cao chuyển sang một bên, những cây nhỏ để riêng một bên tiếp tục được chăm sóc theo chế độ riêng.

2.8. Tiêu chuẩn cây xuất vườn và vận chuyển bầu

Cây quá non khi trồng dễ bị chết, còn cây quá già thì bộ rễ thường đâm sâu xuống đất khi nhấc lên dễ bị chột. Cây con khi đem trồng yêu cầu về:

– Cao cây: ≥ 22 cm, có 6 lá trở lên, lá cứng cáp, dày, xanh hơi vàng.

– Đường kính gốc: ≥ 3mm tùy giống

– Thân hoá nâu ≥ 1/2(nửa thân phần gốc đã chuyển mầu nâu)

– Cây không còn nụ, hoa.

– Sạch sâu bệnh

– Bầu túi nilon còn nguyên vẹn

– Những cây cao > 30cm, bấm ngọn.

– Bầu đất còn nguyên vẹn

– Khi vận chuyển bầu có thể bằng xe thô sơ (khoảng cách gần), xe ô tô (nếu ở xa)

Chú ý:

Khi xếp bầu không được xếp quá nhiều lớp, khi xếp không được làm vỡ bầu, rơi đất hoặc làm dập nát thân cây.

Cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn

Nguồn: Giáo trình nghề trồng cây chè – Bộ NN&PT NT được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Quy trình kỹ thuật trồng, thâm canh Chè an toàn

Chè là đối tượng nông nghiệp có giá trị xuất khẩu cao và được nhiều người ưa chuộng. Kỹ thuật trồng chè cũng khá đơn giản, bà con có thể tham khảo bài viết mà Fman giới thiệu dưới đây:

1.Điều kiện sinh thái.

1.1.Khí hậu:

– Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 18 – 23oc.

– Độ ẩm không khí trung bình hàng năm: >80%

– Lượng mưa hàng năm trên 1200 mm.

1.2. Đất đai:

– Đất có tầng dày canh tác 50 cm trở lên, kết cấu tơi xốp.

– Mạch nước ngầm ở sâu dưới mặt đất từ 100 cm trở lên.

– Độ PHKCL từ 4,0 – 6,0, tỷ lệ mùn tổng số 2,0% trở lên.

– Độ dốc bình quân đồi không quá 25 o .

2. Thiết kế đồi nương.

2.1. Thiết kế đồi, hàng chè.

– Thiết kế từng đồi phải nằm trong thiết kế tổng thể chung toàn vùng.

– Thiết kế đồng bộ ngay từ đầu hệ thống đường, các công trình phụ trợ cây phân xanh, che bóng, chắn gió. Những nơi thuận lợi cần làm đập, hồ chứa nước chân đồi, bể chứa nước hệ thống tưới nước, hố ủ phân trên đồi.

– Thiết kế hàng: Nơi đồi có độ dốc bình quân 6 o trở xuống ( cục bộ có thể tới 8o0): Thiết kế hàng chè thẳng theo hàng dài nhất, song song với đường bình độ chính, hàng cụt xếp ở bìa lô.

2.2. Thiết kế đường :

Loại đường Vị trí Bề rộng

Mặt

đường

(m)

Độ dốc

mặt đường

(độ)

Độ nghiêng

vào trong

đồi(độ)

Các yêu cầu khác Loại đường
             
1- đường

trục chính

Xuyên giữa khu chè 5 – 6 5 Hai mép trồng cây. Có hệ thống rãnh thoát nước 2 bên. 1- đường

trục chính

2- Đường

liên đồi

Nối đường trục với các đồi hoặc các đồi với nhau 4 – 5 6 6 Mép ngoài trồng cây.

 

2- Đường

liên đồi

3- Đường

lên đồi

Nối đường liên đồi với đỉnh vàđường vành đồi 3 – 4 8  – 10 5 Có rãnh thoát nước phía trong. Có vòng quay xe ở ngã ba.

Mép ngoài trồng cây thưa.

3- Đường

lên đồi

4- Đường

vành  đồi

Đường vành chân đồi và cách 30 – 50 m theo sườn đồi có một đường. 3 – 4 1 – 2 6 – 7 Mép ngoài trồng cây thưa. 4- Đường

vành  đồi

5- Đường lô Cắt ngang (đồi phẳng) hay cắt chéo

hàng chè (đồi dốc), cách nhau 150 – 200 m.

3 –  4 10 – 12 Sửa theo mặt đất tự nhiên, không có rãnh thoát nước. 5- Đường lô
6- Đường

chăm sóc

Trong lô chè , cách nhau 57-70 m, cắt ngang hay chéo hàng chè . 1,2 – 1,3 10 – 12 Sửa theo mặt đất tự nhiên, không có rãnh thoát nước. 6- Đường

chăm sóc

2.3.Thiết kế hạng mục phụ trợ:

– Cứ 5 – 10 ha có một lán trú mưa, nắng. Cứ 3 – 5 ha có một bể chìm chứa 3 – 5m3 nước dùng cho phun thuốc, bình quân 1m3 nước/ ha dùng cho phun thuốc. Cứ 2- 3 ha có một hố ủ phân hữu cơ tại chỗ, dung tích chứa 8 – 10m3/đợt ủ.

3. Kỹ thuật gieo trồng:

3.1. Làm đất:

Việc làm đất trồng chè phải đạt yêu cầu sâu sạch ải , vùi lớp đất mặt có nhiều hạt cỏ xuống dưới, san ủi những điểm dốc cục bộ.

a) Làm đất theo cách cày sâu toàn bộ bề mặt sâu 30 – 35 cm, bừa san. Trường hợp không cày toàn bộ bề mặt cũng phải đào rãnh trồng. Đào rãnh hàng trồng chè sâu 40 – 45 cm, rộng 50 – 60 cm. lấp đất mặt xuống dưới , lấp đất cái lên trên cách mặt đất 5 – 10 cm.

b) thời vụ làm đất: Làm đất vào thời gian ít mưa (dưới 150mm/tháng) tránh xói mòn.

– Tháng 9 – 11 đối với loại đất mới, nhiều mùn, khai hoang xong trồng ngay.

– Tháng 11 – 3 đối với đất phục hoang, đất xấu, trồng một vụ cây phân xanh cải tạo đất.

3.2.Giống chè:

3.2.1. Trồng các giống chè đã được khảo nghiệm thích hợp vùng:

– Vùng thấp (độ cao dưới 100m): Nhõn trồng cỏc giống chố chọn tạo trong nước như giống LDP1, LDP2, PH8, PH9, Các giống nhập nội từ Trung Quốc và giong Trung du chọn lọc.

– Vùng giữa: Phân vùng có độ cao 100 – 500m trồng các giống LDP1, LDP2 và Shan chọn lọc giâm cành. Phân vùng có độ cao 500 – 1000m trồng giống Shan chọn lọc, TRI777 giâm cành.

– Vùng cao (hơn 1000m): Trồng giống Shan chọn lọc tại chỗ.

3.2.2 Trồng chè bầu cây đảm bảo đúng tiêu chuẩn:

Chè giâm cành: Cây sinh trưởng trong vườn ươm từ 8 – 10 tháng tuổi. Mầm cây cao từ 20cm trở lên, có 6 – 8 lá thật, đường kính mầm sát gốc từ 4 – 5 mm trở lên, vỏ phía gốc màu đỏ nâu, phía ngọn xanh thẫm. Lá chè to, dày, xanh đậm, bóng láng, không có nụ hoa.

3.3.Thời vụ trồng:

Thời vụ giâm cành: Phía Bắc tháng 1- 2 và tháng 7- 8; phía Nam tháng 2- 3 và tháng 5 – 7.

Thời vụ trồng bầu cây: Phía Bắc ttháng 1 – 3 và tháng 8 – 9; phía Nam tháng 2- 4 và tháng 6 -7 khi đất đủ ẩm.

3.4. Trồng cây chè

Đất trồng chè phải được cày vùi phân xanh trước khi trồng ít nhất 1 tháng. Khi trồng thì bổ hố hay cày rạch sâu 20 – 25 cm theo rãnh hàng đã được đào để trồng bầu cây.

3.4.1. Khoảng cách trồng:

– Nơi dốc < 15o : Hàng cách hàng 1,4 – 1,5m, cây cách cây 0,4 – 0,5m.

– Nơi dốc > 15o : Hàng cách hàng 1,2 – 1,3m, cây cách cây 0,3 – 0,4m.

3.4.2. Trồng cây sau khi đã bỏ túi bầu. Đặt bầu vào hố hay rạch, lấp đất, nén đất đều xung quanh bầu, lấp phủ lớp đất tơi trên vết cắt hom 1 – 2 cm, đặt mầm cây theo một hướng xuôi chiều gió chính.

Trồng xong tủ cỏ, rác 2 bên hàng chè hay hốc trồngdày 8 – 10 cm, rộng 20 – 30 cm mỗi bên. Loại cỏ, rác dùng để tủ là phần không có khả năng tái sinh.

3.4.3. Trồng cây phân xanh, cây che bóng:

Cây phân xanh là các loại cây có khả năng cải tạo đất, làm phân bón tăng chất dinh dưỡng cho cây chè, tốt nhất là các cây họ đậu.

Thời vụ gieo: Từ tháng 1 – 4 hàng năm, ngay sau khi làm đất, trồng chè .

Cách gieo: Cây hàng năm gieo giữa hàng, mật độ tuỳ theo loại cây, cách gốc chè ít nhất 40 cm về mỗi bên. Cây phân xanh lưu niên 2- 4 năm (các loại muồng, cốt khí) kiêm che bóng tạm được gieo theo cụm một đường giữa 2 hàng chè, khoảng cách tâm cụm 30 – 40 cm, mỗi cụm đường kính 3-5cm.

Cây bóng mát bộ đậu, thân gỗ, tán thưa, rộng, không tranh chấp nước với cây chè về mùa đông, được trồng cùng hàng hay giữa hai hàng chè, mật độ từ 150 – 250 cây/ha, trồng bằng cây ươm bầu, đảm bảo che bóng 30 – 50% ánh sáng mặt trời.

4.Kỹ thuật chăm sóc:

4.1. Giặm cây con:

– Nương chè phải được trồng giặm cây con ngay từ năm đầu sau trồng vào những chỗ mất khoảng. Bầu cây con đem giặm có cùng tuổi cây trồng trên nương, đã được dự phòng 10%.

Bón thêm mỗi cây 1,0 kg phân chuồng tốt trước khi trồng giặm. Trồng giặm vào ngày dâm mát, mưa nhỏ hoặc sau mưa to. Giặm chè cần được tiến hành liên tục trong thời kỳ nương chè kiến thiết cơ bản (2 – 3 năm), đảm bảo nương chè đông đặc, đồng đều

Thời vụ trồng giặm tốt nhất vào vụ xuân sớm (tháng 1-2) mưa nhỏ, đất vừa ẩm.

– Đối với nương chè tuổi lớn mất khoảng tiến hành trồng giặm cây con 14- 16 tháng tuổi, chiều cao 35 –40 cm sau khi bấm ngọn. Kích thước bầu lớn 25 x 12 cm, bầu đất được đóng với tỷ lệ 3 phần đất + 1 phần phân hữu cơ hoai mục đã được ủ với phân lân.

Thời vụ trồng giặm chè lớn tuổi vào tháng 8 –10 (phía Bắc), tháng 9 – 11 (phía Nam) vào cuối mùa mưa khi đất đủ ẩm.

4.2.Bón phân

4.2.1. Bón lót trước khi trồng: Sau khi đào rãnh hàng xong bón lót phân hữu cơ 20 – 30 tấn/ha và 100 – 150 kg P2O5/ha, trộn phân vào đất trồng.

4.2.2.Bón phân cho mỗi ha chè KTCB (2-3 năm sau trồng) theo bảng sau:

Loại chè Loại phân Lượng phân    (Kg) Số lần bón Thời gian bón

(vào tháng)

Phương pháp bón
       1        2         3       4            5              6
Chè tuổi 1       N

P205

K20

       40

30

30

      2

1

1

   2-3 và 6-7

2-3

2-3

Trộn đều, bón sâu 6-8 cm; cách gốc 25-30 cm, lấp kín.
Chè tuổi 2

 

 

Đốn tạo

hình lần 1 (tuổi 2)

      N

P205

K20

      60

30

40

      2

1

1

 2-3 và 6-7

2-3

2-3

Trộn đều, bón sâu 6-8 cm; cách gốc 25-30 cm, lấp kín.
     Hữu cơ

 

P205

   15.000 –

20.000

100

      1

 

1

      11-12

 

11-12

Trộn đều bón rạch sâu 15 –20 cm, cách gốc 30-40 cm, lấp kín
Chè tuổi 3

 

      N

P205

K20

      80

40

60

      2

1

2

2-3  và  6-7

2-3

2-3 và 6-7

Trộn đều, bón sâu 6-8 cm; cách gốc 30-40 cm, lấp kín.

4.2.3.Bón phân cho mỗi ha chè kinh doanh.

– Cuốc lật tòan bộ diện tích; đào rạch giữa hai hàng chè sâu 20 đến 25 cm, rộng 25 đến 30 cm trước khi đốn chè, ép xanh cành lá chè đốn hoặc chất xanh khác kết hợp bón phân hữu cơ 30 -35tấn/ha. .

– Kỹ thuật bón phân thúc: Hàng năm bón NPK theo tỷ lệ 3:1:1 với lượng phân 35N cho 1 tấn sản phẩm + 75kg MgSO4/ha.

Số lần bón: 4 lần trong năm.

Lần 1: Bón 30% NPK + 60% MgSO4 (Tháng 2)

Lần 2: Bón 30% NPK + 40% MgSO4 (Tháng 5)

Lần 3: Bón 25% NPK (Tháng 7)

Lần 4: Bón 15% NPK (Tháng 9)

4.3.Phòng trừ cỏ dại:

4.3.1. Đối với chè kiến thiết cơ bản:

Xới cỏ đảm bảo cỏ sạch quanh năm trên hàng chè .

riêng chè 1 tuổi cần nhổ tay ở gốc chè để bảo vệ được cây chè . Giữa hàng trồng xen cây phân xanh, đậu đỗ hoặc bừa xới sạch cỏ.

Vụ xuân (tháng 1- 2) và vụ thu (tháng 8-9) xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ

Trong năm sới gốc 2 – 3 lần, rộng 30 – 40 cm về 2 bên hàng chè.

4.3.2. Đối với chè kinh doanh:

– Vụ đông xuân: Xới sạch cỏ dại, cày giữa hàng hoặc phay sâu10 cm, lấp phân hữu cơ và cành lá già sau khi đốn, nếu hạn không cày được thì xới sạch toàn bộ.

– Vụ hè thu: đào gốc cây dại, phát luổng hoặc xới cỏ gốc giữa hàng, bừa 3 – 4 lần hoặc phay sâu 5 cm.

Đồi chè được tủ cỏ, rác kín đất trong vụ đông xuân thì bớt các khâu làm cỏ trong vụ hè thu.

4.4.Phòng trừ sâu bệnh:

Phòng trừ sâu, bệnh hại chè bằng biện pháp tổng hợp đảm bảo hợp lý về kinh tế và bền vững dựa trên sự phối hợp biện pháp trồng trọt, sinh học, di truyền chọn giống và hoá học, nhằm đạt sản lượng cao nhất với tác hại ít nhất trong môi trường.

Phải kiểm tra thường xuyên, phát hiện sớm để tập trung phòng trừ. Các biện pháp phòng trừ cụ thể:

– Biện pháp canh tác: Cày bừa diệt cỏ, vệ sinh nương đồi, lấp đất diệt nhộng, diệt mầm bệnh, bón phân hợp lý, thay đổi thời kỳ đốn, hái chạy non để loại bỏ trứng sâu, mầm bệnh.

– Biện pháp sinh học sinh thái: Trồng cây bóng mát với loại thích hợp và có mật độ đảm bảo độ ẩm trên nương chè. Hạn chế đến mức thấp nhất thuốc hoá học để đảm bảo duy trì tập đoàn thiên địch có ích, cân bằng sinh thái nương chè.

– Biện pháp hoá học: Không phun thuốc theo định kỳ.

Phun thuốc theo dự tính, dự báo khi có sâu non hoặc khi chè mới bị bệnh.

Dùng thuốc đúng chỉ dẫn về loại, liều lượng dùng đối với các đối tượng sâu, bệnh hại. Thời gian cách ly đảm bảo ít nhất 10 – 15 ngày mới được thu hái đọt chè.

4.5.Đốn chè:

4.5.1. Đốn tạo hình:

Lần 1: Khi chè 2 tuổi, đốn thân chính cách mặt đất 12 – 15 cm, đốn cành cách mặt đất 30 – 35 cm.

Lần 2: Khi chè 3 tuổi đốn cành chính cách mặt đất 30 –35 cm, đốn cành tán cách mặt đất 40 –45 cm.

4.5.2. Đốn phớt:

Hai năm đầu mỗi năm đốn trên vết đốn cũ 5 cm. Sau đó mỗi năm đốn cao thêm 3 cm, khi vết đốn dưới cùng cao 70cm so với mặt đất thì hàng năm chỉ đốn cao thêm 1cm so với vết đốn cũ.

Tuyệt đối không cắt tỉa cành la, đảm bảo độ che phủ, khép tán trên nương.

Đối với nương chè sinh trưởng yếu, tán lá thưa mỏng, có thể áp dụng chu kỳ đốn cách năm: Một năm đốn phớt như trên, một năm đốn sửa bằng tán chỉ cắt phần cành xanh.

4.5.3. Đốn lửng:

Những đồi chè đã được đốn phớt nhiều năm, vết đốn cao quá 90cm so với mặt đất, nhiều cành tăm hương, u bướu, búp nhỏ, năng suất giảm thì đốn lửng cách mặt đất 60 -65cm; hoặc chè năng suất khá nhưng cây cao quá cũng đốn lửng cách mặt đất 70 – 75 cm.

4.5.4. Đốn đau:

Những đồi chè được đốn lửng nhiều năm, cành nhiều mấu, cây sinh trưởng kém năng suất giảm rõ rệt thì đốn đau cách mặt đất 40 – 45cm.

4.5.5. Đốn trẻ lại:

Những nương chè già, cằn cỗi đã được đốn đau nhiều lần, năng suất giảm nghiêm trọng thì đốn trẻ lại cách mặt đất 10 – 25 cm.

4.5.6. Thời vụ đốn: Từ giữa tháng 12 đến hết tháng 1.

– Nơi thường bị sương muối đốn muộn hơn, đốn sau đợt sương muối nặng.

– Đốn đau trước, đốn phớt sau.

– Đốn tạo hình, chè con trước, đốn chè trưởng thành sau.

Đối với vùng đảm bảo độ ẩm, hoặc có điều kiện chủ động tưới chè có thể đốn một phần diện tích vào tháng 4-5 sau đợt chè xuân góp phần rải vụ thu hoạch chè.

4.5.7. Cách đốn và dụng cụ đốn:

– Đốn tạo tán có mặt bằng nghiêng theo sườn dốc, không làm dập cành,xây sát vỏ.

– Đốn đau, đốn lửng, đốn tạo hình lần đầu thì dùng dao. Đốn phớt, đốn tạo hình lần 2 thì dùng kéo hoặc dao. Đốn trẻ lại, sửa cành lớn chè giống thì dùng cưa.

– Đối với các giống chè có phân cành nhiều, mật độ cành lớn sinh trưởng đỉnh đều thì có thể áp dụng máy đốn để nâng cao năng suất lao động.

4.6. Tưới chè:

Nơi có điều kiện về nguồn nước, khả năng đầu tư thì có thể tiến hành tưới cho chè khi độ ẩm đất dưới 60% sức chứa ẩm đồng ruộng (vào các tháng hạn, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau và các thời điểm hạn dài chính vụ quá 15 ngày).

Tưới theo phương pháp phun mưa bề mặt với vòi tưới di động hoặc cố định cho hiệu quả cao.

5.Thu hoạch và bảo quản:

5.1.Thu hoạch:

5.1.1.Hái tạo hình chè KTCB:

– Đối với chè tuổi 1: Từ tháng 10, hái bấm ngọn những cây chè cao 60 cm trở lên.

– Đối với chè 2 tuổi: Hái đọt trên những cây to khoẻ và cách mặt đất 50 cm trở lên.

5.1.2. Hái tạo hình sau khi đốn:

– Đối với chè đốn lần 1: Đợt hái đầu cách mặt đất 40 – 45 cm tạo thành mặt phẳng nghiêng theo sườn dốc. Đợt 2 hái đọt chừa 2 lá và lá cá..

– Đối với chè đốn lần 2: Đợt hái đầu cao hơn đốn lần 1 từ 25 – 30 cm, các đợt hái sau chừa bình thường như ở chè đốn lần 1.

5.1.3.Hái chè kinh doanh:

a) Hái đọt và 2 – 3 lá non ( Xác định theo tiêu chuẩn Nhà nước TCVN 1053 -71-1054-71)

b) Thời vụ:

Vụ xuân (tháng 3-4): Hái chừa 2 lá và lá cá, tạo tán bằng. Những đọt vượt cao hơn mặt tán thì hái sát lá cá.

Vụ hè thu (tháng 5-10) : Hái chừa 1 lá và lá cá, tạo tán bằng. Những đọt cao hơn mặt tán thì hái sát lá cá.

Vụ thu đông (tháng 11-12): tháng 11 hái chừa lá cá, tháng 12 hái cả lá cá.

5.1.4.Hái chè trên nương đốn trẻ lại, đốn đau thì tiến hành như đối với chè kiến thiết cơ bản.

5.2 Bảo quản:

Chè bup tươi thu xong phải để nơi râm mát, bỏ trong sọt không nén chặt, không đựng trong bao kín, không để héo, lẫn bẩn với vật lạ, tạp chất va đưa đến nơi chế biến không quá 10 tiếng.

Nguồn: Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.