Quả dại tầm bóp giá 700.000 đồng/kg dân Việt xôn xao trồng thế nào?

Sở hữu “ngoại hình” bắt mắt, lại ghi điểm thêm vì có giá trị dinh dưỡng cao nên quả dại tầm bóp đang được bán tại Nhật với giá 700.000 đồng/kg không chỉ dùng để làm cảnh mà nó còn được sử dụng thay thế cà chua bởi giá trị dinh dưỡng mang lại. Vậy trồng loại quả dại này thế nào? Có gì đặc biệt không?

Dù là cây dại nhưng quả tầm bóp rất ngon, vị chua ngọt giống cà chua và rất bổ dưỡng. Đặc biệt, ít người biết rằng không chỉ quả mà lá và ngọn của cây tầm bóp cũng được dùng như rau, có thể chế biến thành nhiều món ăn quen thuộc. Cây tầm bóp trong ngôn ngữ dân gian Việt Nam có tên là lồng đèn, ngoài ra còn nhiều tên gọi lạ tai khác, tuỳ từng địa phương như: thù lù cạnh, thù lù, bùm bụp, bôm bốp…

Thời xa xưa, tầm bóp được dùng làm cây cứu đói bởi loại rau này mọc hoang và tràn lan ở những vùng đất hoặc bờ ruộng. Còn ngày nay, khi mọi người đã chán những loại rau thông dụng do lo ngại chứa nhiều dư lượng chất bảo vệ thực vật thì những loại cây dại như tầm bóp (lồng đèn) lại trở thành món ăn đặc sản được nhiều người ưa thích. Tầm bóp rất quen thuộc tại các vùng quê, nó có tác dụng dụng thanh nhiệt, tiêu đờm. Trước đây, tầm bóp không được sử dụng phổ biến làm thuốc dù nó khá ngon và có nhiều dược tính. Thậm chí tầm bóp còn được coi như một vị thuốc nam chữa được nhiều bệnh khá hiệu quả.

Tầm bóp là cây ra hoa kết quả quanh năm. Vì là họ hàng của cây cà chua nên tầm bóp cũng rất dễ trồng và có khả năng kháng sâu bệnh cao. Xin giới thiệu cách trồng cây tầm bóp từ hạt:

1. Xử lý hạt giống

Hạt giống tầm bóp có thể được mua từ các cửa hàng uy tín hiện đang được bày bán trên thị trường.

Trước khi trồng, bạn có thể đem ngâm nước ấm 2-4h cho hút nước. Sau đó, đem gieo hạt tầm bóp trong giá thể, tưới ẩm và che kín để tránh hơi ẩm bị thoát ra ngoài. Hạt sẽ nảy mầm sau 7-14 ngày.

2. Chuyển nhà cho cây

Khi xuất hiện những chiếc lá mọc ra đầu tiên, bạn nên chuyển ra chậu nhỏ và đặt ở nơi có ánh sáng và không gian thoáng đãng, tránh cây gầy gò do thiếu sáng.

Tưới nước nhẹ nhàng, đủ ẩm cho cây. Khi cây đủ lớn có thể trồng ra vườn hoặc chậu lớn. Khoảng cách hợp lý giữa các cây là 50-70cm. Lưu ý, tầm bóp là cây ra quả quanh năm nên cần chăm sóc để cho trái nhiều và chất lượng hơn. Đặc biệt, tưới nước thường xuyên sẽ giúp cây tầm bóp rất sai quả.

3. Thu hoạch thành quả

Sau 80 ngày có thể thu hoạch quả. Khi quả chín, phần vỏ bao ngoài sẽ chuyển sang màu nâu nhạt và quả rơi xuống đất). Quả có thể giữ được 3-4 tuần ở trong vỏ lá. Quả tầm bóp mọng tròn, nhẵn, lúc non màu xanh, khi chín màu đỏ.

Quả tầm bóp dài 3-4 cm, rộng 2 cm, bao trùm bên ngoài như cái túi, bên trong chứa nhiều hạt.

Ruột quả có nhiều không gian rỗng, khi bóp quả vỡ phát ra tiếng “bộp”. Có lẽ tên gọi lồng đèn , bôm bốp, bùm bụp… xuất phát từ đặc điểm này. Quả chứa nhiều hạt nhỏ, ăn có vị chua, ngọt.

Nguồn: Dân Việt được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng cây tầm bóp ngon- đẹp- lạ và chữa bệnh cực hiệu quả

Thuộc loài cây mọc dại nên kỹ thuật trồng cây tầm bóp tại nhà cực kỳ đơn giản Trong khi công dụng của cây tầm bóp thì không phải cây nào cũng có.

Cây tầm bóp có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, sau trở thành liên nhiệt đới. Tại Việt Nam, loại cây này mọc hoang khắp nơi, ở trên các bờ ruộng, bãi cỏ, đất hoang hay ven đường làng quê. Trong ngôn ngữ dân gian Việt Nam cây tầm bóp còn có nhiều tên gọi lạ khác, tuỳ từng địa phương như: thù lù cạnh, thù lù, bùm bụp, bôm bốp…

Dù là cây dại nhưng quả tầm bóp rất ngon, vị chua ngọt giống cà chua và rất bổ dưỡng. Đặc biệt, ít người biết rằng không chỉ quả mà lá và ngọn của nó cũng được dùng như rau, có thể chế biến thành nhiều món ăn quen thuộc.

Không dừng lại ở việc có thể làm rau mà cây tầm bóp còn có rất nhiều giá trị về mặt Đông y có thể chữa được nhiều bệnh khác nhau. Chính bởi vây mà hiện nay cây tầm bóp được rất nhiều người trồng tại nhà với nhiều lợi ích khác nhau.

Kỹ thuật trồng cây tầm bóp chắc chắn cực kỳ đơn giản bởi nó có khả năng thích nghi với nhiều điều kiện thời tiết, nhiệt độ khác nhau mà không cần chăm sóc.

Cây tầm bóp ngoài tác dụng làm rau ăn còn làm thuốc chữa bệnh.

Giống cây tầm bóp

Cây tầm bóp có nhiều loại nhưng có 3 loại chính đó là, tầm bóp làm cảnh có quả màu vàng rất đẹp, tầm bóp cạnh dùng làm thuốc và tầm bóp quả nhỏ. Cả 3 loại đều có dược tính giống nhau nhưng người ta chủ yếu dùng bù lù cạnh để làm thuốc.

Đây là loại cây thân thảo, cao khoảng nửa mét, thân có góc cạnh, phân thành nhiều nhánh, rũ xuống. Lá hình bầu dục, mặt lá hơi nhám. Hoa mọc đơn, màu vàng nhạt, bên trong có đốm tím. Quả nhỏ bên ngoài bao phủ một lớp da căng phồng lên tạo thành một khối nhiều khía, khi bóp sẽ nổ ra nên người ta mới gọi là cây tầm bóp.

Điều kiện trồng cây tầm bóp

Cây tầm bóp mọc hoang dại khắp nơi chính bởi sự hấp ánh nắng Mặt trời cực tốt và khí hậu ấm áp, cây cũng chịu được nhiệt độ nóng. Một số loài nhạy cảm với sương giá nhưng một số loài chịu được nhiệt độ lạnh như tầm bóp Nam Mỹ đỏ Trung Quốc.

Kỹ thuật trồng cây tầm nóp

Kỹ thuật trồng cây tầm bóp bằng phương pháp gieo hạt. Bạn có thể lựa chọn cách trồng trong giá thể, chậu, hay trực tiếp xuống đất đều được. Trước khi đem gieo cũng cần xử lý hạt bằng cách ngâm trong nước ấm khoảng 2 tiếng rồi mới đem gieo. Lưu ý, khi tiến hành gieo cần tưới ẩm nước và che kín để tránh hơi ẩm bị thoát ra ngoài. Hạt nảy mầm sau khoảng 7-14 ngày ủ.

Trong giai đoạn đầu cần tưới nước nhẹ nhàng, đủ ẩm bề mặt đất. Khi cây đủ lớn, có thể trồng ra vườn hoặc chậu lớn để giúp chúng phát triển một cách tự nhiên.

Thời gian sau đó nên tưới nước thường xuyên sẽ giúp cho cây luôn xanh tốt và cho sai quả. Không chỉ vậy mà còn kháng được nhiều sâu bệnh hại cây trồng.

Kỹ thuật trồng cây tầm bóp cực kỳ đơn giản bởi thuộc loài cây dại có thể thích ứng ở nhiều điều kiện.

Thu hoạch cây tầm bóp

Từ lúc trồng cho tới thu hoạch chỉ sau khoảng hơn 2 tháng. Khi quả chín phần vỏ bao ngoài sẽ chuyển sang màu nâu nhạt và quả rơi xuống đất). Quả có thể giữ được 3-4 tuần ở trong vỏ lá. Vì cây ra quả quanh năm nên cần chăm sóc để cho trái nhiều và chất lượng hơn.

Thời xưa, loại cây này được dùng làm cây cứu đói, là thứ quả ăn vặt của nhiều đứa trẻ thôn quê, vậy mà ở thời điểm hiện nay, tầm bóp lại trở thành “đặc sản” được nhiều người yêu thích.

Đã có thời điểm quả tầm bóp gây sốt với người Việt vì được đóng gói bán ở Nhật Bản với giá lên tới 700.000 đồng/kg, đắt đỏ hơn giá của nhiều loại hoa quả nhập khẩu về Việt Nam như cherry Mỹ, hồng California, mận Mỹ,….

Quả tầm bóp “gây sốt” với người Việt vì được đóng gói bán ở Nhật Bản với giá lên tới 700.000 đồng/kg, đắt đỏ hơn giá của nhiều loại hoa quả nhập khẩu về Việt Nam như cherry Mỹ, hồng California, mận Mỹ,….

Tác dụng của cây tầm bóp

Theo Đông y, tuy là một loại cây dại, nhưng tầm bóp lại khá bổ dưỡng, tương đương với giá trị dinh dưỡng của cây cà chua. Toàn cây có vị hơi đắng, tính mát, không độc, quả tầm bóp có vị chua ngọt giống cà chua.

Ngoài được sử dụng để chế biến thành món ăn, cây tầm bóp còn trị được một số bệnh nhờ thành phần có tác dụng thanh nhiệt, có tính mát. Người ta thường dùng tầm bóp trị cảm sốt, yết hầu sưng đau, ho nhiều đờm, phiền nhiệt nôn nấc, hoặc giải nhiệt, trị mụn nhọt. Nhiều bài thuốc dân gian cho thấy, toàn cây được sử dụng làm thuốc lợi tiểu, lá được dùng trị các rối loạn của dạ dày, rễ tươi nấu với tim lợn dùng ăn chữa được chứng đái đường.

Quả dùng trị bệnh ho có đờm. Vì trong quả bù lù có chứa nhiều vitamin C , B1, A rất tốt cho những người đi biển. Cũng do tính mát nên rất tốt cho đường tiết niệu, dùng cho những người bị sỏi thận, bí đái, đào thải axit uric ra ngoài , tốt cho bệnh gout.

Một số bài thuốc đơn giản từ cây tầm bóp

Rễ có tác dụng trị tiểu đường. Dùng 30g rễ tươi nấu với tim heo và 1g chu sa ăn cách nhau 1 ngày.

Ngoài ra nó còn có tác dụng trong việc trị ung thư tử cung, họng, phổi. Bài thuốc trị bệnh gồm có : 30g lá khô, 20g bạch truật, 10g cát cánh, 10g mạch môn, 10g huyền sâm, 10g hoàng cầm, 4 g cam thảo sắc lấy nước uống.

Lưu ý : trong 1 ngày không dùng quá 150g sẽ gây đau bụng, nôn , hôn mê.

Nguồn: Baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Phương thức trồng và mật độ trồng tre trúc

Phương thức trồng và mật độ trồng tre trúc có thể chia thành 2 loại: trồng thuần loài tre hoặc trúc và trồng hỗn loài xen lẫn với các loài cây gỗ lá rộng khác.

Giống như các loại cây trồng khác, tre trúc có thể trồng thuần loài hoặc hỗn loài. Rừng hỗn loài có rất nhiều ưu điểm, đặc biệt với tre trúc lại càng rõ nét. Thực tiễn ở trong nước và ngoài nước đều cho thấy rừng tre trúc hỗn loài với cây gỗ lá rộng thì tre trúc sinh trưởng tốt. Ở đây có thể lí giải là cây gỗ lá rộng có tác dụng cải tạo đất, làm tăng độ ẩm không khí và độ ẩm đất lại có tác dụng hạn chế ảnh hưởng của gió bão, bảo vệ măng khỏi bị gãy ngọn. Mặt khác còn hạn chế sâu hại lan nhanh, nhất là bọ nẹt hại lá tre. Trước đây ở một số vùng Thanh Hoá nhân dân thường trồng thưa để búi luồng có đủ đất phát triển, cây luồng có giá trị cao, giữa các khoảng đất trong rừng thường có các loài cây gỗ lá rộng ưa sáng, mọc nhanh tái sinh tự nhiên như giẻ, xoan, gội, v.v. hình thành hỗn loài giữa luồng và cây gỗ lá rộng.

Tuy vậy không có nghĩa là ở đâu cũng cần trồng rừng hỗn loài, mà tuỳ theo mục đích và điều kiện từng nơi mà cần và có thể trồng rừng tre trúc thuần loài, thí dụ các rừng chuyên canh thì cần thiết trồng thuần loài, có cùng biện pháp xử lí như rừng chuyên lấy măng, chuyên lấy nguyên liệu giấy và rừng trồng tre ven đê thì nên trồng thuần loài, về điều kiện địa hình thì những nơi tương đối bằng phẳng (<15°) thì có thể trồng thuần loài. Những nơi dốc 15° thì nên trồng hỗn loài với cây lá rộng.

Rừng tre thuần loài

Đặc tính của loài tre trúc có thân mọc cụm thì không có khả năng bò lan trong đất, mặt khác do mầm măng mọc từ các mắt ở gốc ra nên lâu dần có hiện tượng nâng búi, tức là gốc búi tre ngày càng nổi lên cao, nhất là tre gai thì rất rõ. Về mặt lợi dụng đất mà nói thì không bằng loại có thân mọc phân tán. Loại mọc cụm nếu trồng thành rừng thuần loại, lại ở nơi đất dốc mạnh thì sau này rất khó xử lí, không có đất để bồi đắp vào gốc, việc bỏ gốc già cũng sẽ gặp nhiều khó khăn vì thế nơi đất dốc thì nên trồng hỗn loài với cây lá rộng.

Mật độ trồng với loài mọc cụm như luồng, diễn nếu đất bằng, trồng thuần loài thì có thể trồng với cự ly 4m x4m hoặc 4m x 5m (mật độ trồng 500-670 cây/ha) sau này mọc thành 500-670 bụi; nếu trồng hỗn loài thì chỉ nên 200-400 cây/ha (cự ly 5 x 10m, hoặc 4 x 6m).

Với loại có thân mọc tản thì có thể trồng thưa hơn loại mọc cụm. Bởi vì thân ngầm có thể bò lan trong đất. Các loài trúc, vầu có thể trồng với mật độ 200 cây/ha (5 x 10m). Giữa các hàng trúc, vầu lúc đầu có thể thực hiện nông lâm kết hợp như trồng đỗ, lạc, sắn, ngô. Làm nông lâm kết hợp qua việc xới xáo đất khiến đất tơi xốp càng có tác dụng dẫn dụ thân ngầm lan nhanh. Loại này (trúc, vầu) không nhất thiết trồng dày (kín) ngay lúc đầu vì đào gốc và thân ngầm khó khăn hơn loại mọc cụm. Mặt khác nếu trồng dày sau này thân ngầm sẽ bò chằng chịt trong đất, tốn công xử lí hơn.

Nguồn: Caytrongvatnuoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật cho tre ra nhiều măng vào mùa khô

Muốn cho tre đẻ măng trong mùa khô thì sau khi kết thúc mùa mưa, bà con để vườn khô tự nhiên trong khoảng nửa tháng không tưới…

Theo ông Nguyễn văn Loan, một nông dân có nhiều kinh nghiệm trồng tre lấy măng trong nhiều năm qua ở thôn Bắc Lĩnh, xã Hương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh: bình thường các loài tre chỉ cho măng vào các tháng mùa mưa, trong đó nhiều nhất là từ tháng 7 đến tháng 9 hàng năm trùng với mùa bão lũ nên giá bán không cao, hiệu quả thu nhập thấp.

Trong những năm gần đây, nhiều giống măng tre nhập nội như Mạnh Tông, Điềm Trúc, Lục Trúc… được Khuyến nông các tỉnh khuyến cáo bà con trồng vừa để “phủ xanh đất trống đồi núi trọc” nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, vừa để lấy măng làm thực phẩm như một loại rau sạch cao cấp. Các loại măng tre này đều có chất lượng tốt: ít xơ, ăn ngọt, giòn được nhiều người ưa chuộng nên bán rất được giá, cho thu nhập cao. Tuy nhiên, vào các tháng mùa khô do ít mưa nên cây tre hầu như không đẻ măng. Sau một thời gian tự mày mò học hỏi, tự rút kinh nghiệm từ 20 gốc tre Điềm Trúc trồng trong vườn đồi của gia đình, ông Loan đã làm chủ được kỹ thuật chăm sóc cho cây tre đẻ nhiều măng, kể cả các tháng mùa khô.

Theo ông Loan, muốn cho tre đẻ măng trong mùa khô thì sau khi kết thúc mùa mưa, bà con để vườn khô tự nhiên trong khoảng nửa tháng không tưới. Tiến hành chăm sóc theo các bước sau: Chỉ giữ lại khoảng 3-4 cây khỏe mạnh phân đều về các phía làm cây mẹ nhằm cung cấp dinh dưỡng cho khóm đẻ măng còn lại chặt bỏ hết những thân cây già, cây còi cọc trong khóm. Dùng kéo cắt tỉa hết các cành lá trên thân cây từ mặt đất đến khoảng 1m chiều cao. Dùng cuốc hoặc mai xới đất xung quanh gốc tre rồi bón thúc cho mỗi khóm tre 10 kg phân chuồng hoặc phân hữu cơ đã được ủ hoai mục + 2kg phân urê + 1kg supe lân + 1kg kali clorua rồi lấp đất, tủ kỹ, tủ dày một lớp 20-30cm bằng lá cây, rơm rạ, cỏ rác và tưới thật đẫm nước.

Kinh nghiệm của ông Loan là sau khi thu hoạch chuối, ông chặt thân cây chuối thành từng đoạn 50-60cm đem bổ đôi rồi xếp kín cả khóm tre vừa có tác dụng cung cấp thên nguồn nước cho gốc tre, giúp cho các vi sinh vật có ích hoạt động cải tạo đất làm cho đất tơi xốp đồng thời sau khi phân hủy, những thân cây chuối này sẽ cung cấp thêm nguồn hữu cơ rất tốt cho đất. Cứ cách 7-10 ngày tưới 1 lần, sau 3 lần tưới thì măng bắt đầu mọc, sau nửa tháng là có thể thu hoạch được. Ngoài ra, nếu muốn cho tre nhanh ra măng hơn nữa, bà con dùng xà beng bằng sắt hoặc các dùi gỗ nhọn có đường kính 3-4cm xuyên chéo sâu vào gốc tre khoảng 50-60cm vừa có tác dụng làm đứt bớt rễ gây ức chế cho tre mọc măng đồng thời tạo lỗ để tưới nước phân trực tiếp. Pha 2kg phân đạm urê + 1kg lân supe + 0,5kg phâ kali trong 30 lít nước, tưới đầy vào các lỗ đã đục với lượng khoảng 10 lít/khóm.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cân nhắc khi trồng tre lấy măng

Nhờ trồng tre lấy măng, không ít nhà vườn vượt khó, có hộ giàu to, nhưng không ít nhà nông trồng đến ba bốn bụi vẫn không có đủ măng ăn cho một mái bếp dăm khẩu; lại có nhà phải mướn xe xúc móc nguyên cụm, quẳng tre ra khỏi vườn…

Thị trường “loạn” giống tre

Những giống tre lấy măng nhập vào nước ta những năm qua bao gồm tre bát độ, điền trúc (có người gọi là lục trúc do mo măng có màu xanh). Thế nhưng những người bán giống lại chào bán đủ thứ: tre Tàu (tiếng lóng chỉ giống mang về từ Trung Quốc), tre mao trúc, tre lục trúc và tre điền trúc (hai giống thực chất chỉ là một), tre trải (một giống trúc nhỏ – nhưng nói là giâm mắt tre lục trúc). Không thấy ai bán giống tre bát độ (cho dù thực tế có nhập), vì giống này cho ít măng, nhưng lại thấy bán giống tre mạnh tông (giống bản địa chuyên măng ở ĐBSCL).

Trong khi thị trường giống tre gặp “loạn” thì một số nhà vườn lại có “cửa” làm ăn. Họ chọn chân đất thích hợp, chăm sóc đúng cách, biết cách khai thác cây giống từ mấu thân tre nên ngoài cho măng, một cây tre cho dăm bảy cây giống. Họ là những người đi trước và nắm vững yêu cầu kỹ thuật khâu làm giống và quan trọng hơn là việc các chủ vườn giống tre ra nghề đúng lúc.

Trồng tre điền trúc lấy măng

Tre điền trúc là giống tre “siêu măng”, còn là cây đa dụng. Nếu trồng trên đất “an toàn” và bón phân đúng cách, măng điền trúc được coi là sản phẩm rau “sạch” vì không sử dụng thuốc trừ sâu. Măng rất dễ ăn, thường cho vào lẩu ăn tái giòn. Măng đưa vào các món xào, nấu từ ngọt đến chua, nhiều món ngon nhớ đời. Ngoài ra trồng măng vẫn thu hoạch cây, cành, gốc tre, làm ra các sản phẩm gia dụng…

Trồng măng tre cần đất riêng để không ảnh hưởng cây trồng khác như che bóng, rễ hút dinh dưỡng. Đất trồng tre cần có độ dày canh tác trên 50 cm, đất tơi xốp, giàu mùn, chủ động nước tưới, có thể ngập 1 – 2 ngày nhưng đất lại ráo. Áp dụng các chỉ tiêu kỹ thuật khuyến cáo trong chuẩn bị đất gồm đào hố, bón lót. Trồng đúng kỹ thuật để cây bén rễ càng sớm càng tốt. Bón phân định kỳ bao gồm phân chuồng và phân “bao” đúng liều lượng và tăng giảm phân theo màu và độ rộng của phiến lá. Tưới nước thường xuyên kết hợp với bón phân hữu cơ và mùn làm cho đất xốp. Đốn tỉa một cách hợp lý cũng như chừa lại 2 – 3 cây măng/bụi làm cây mẹ hàng năm. Bứng gốc các cây tre trên 3 tuổi – hết khả năng ra măng. Phát cành, có thể kết hợp bó bầu nhân giống giúp bụi tre thông thoáng trong tầm cao 2,5 m. Thu hoạch măng đúng cách để có măng ngon, nhiều và không tạo cơ hội nhiễm bệnh cho bụi tre. Vun gốc tủ mùn là việc làm cần thiết nhưng hết sức thận trọng để tránh cho mụt măng nhỏ khỏi bị thối do nhiễm nấm và “ngạt”. Chỉ nên tủ đất và mùn tơi xốp dày từ 5 – 8 cm trước khi bụi tre đồng loạt ra măng để măng có màu trắng, non, ngọt hơn. Sau khi thu hoạch hết măng, cào đất ra, tạo rãnh bón phân để “kéo” măng đi xuống giúp tăng sản lượng và chất lượng măng kỳ thu hoạch sau.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây tre lấy măng

Ngoài việc được chế biến thành nhiều món ăn ngon thì măng tre còn có tác dụng thúc đẩy sức khỏe tim mạch, chống ung thư, giúp giảm cân, kiểm soát cholesterol, tăng cường hệ miễn dịch…

Cây măng tre giống.

1. Thời vụ và đất trồng

Tre phải được trồng trên đất cao ráo, không bị ngập úng. Đất thấp có thể làm thối măng tre. Hố trồng cần được chuẩn bị trước khi đặt cây con từ nửa tháng đến một tháng. Hố có kích thước mỗi cạnh 60cm và sâu 60cm. Để giúp cây nhanh bén rễ và phát triển tốt sau nầy cần cung cấp khoảng 10 – 15 kg phân hữu cơ đã hoai mục (như phân chuồng, phân rơm rạ, …) cộng với 0,5-1 kg phân lân trộn đều với đất mặt và lấp đầy hố.

Tùy loại đất mà tre được trồng với nhiều mật độ khác nhau như: 3 x 3m, 4 x 4m, 4,5 x 4,5m và 5 x 5m.

Nếu có đủ nước tưới có thể trồng bất cứ tháng nào trong năm. Riêng vùng đất chân núi, đất giồng thiếu nước thì nên trồng vào đầu mùa mưa.

Măng tre

2. Chọn giống và trồng tre

Hiện nay, trên thị trường có những giống tre trồng lấy măng phổ biến như tre tàu, tre mạnh tông, tre bát độ, tre lục trúc…

Đối với các loài tre nói chung có nhiều cách nhân giống từ thân ngầm, hom gốc, thân khí sinh (hom thân), hom cành hay trồng bằng hạt. Khi nhân giống nên chọn những bụi (khóm) tre phát triển tốt, không sâu bệnh, chưa ra hoa. Lựa những cây không quá non hoặc quá già (bánh tẻ), khoảng 7 – 8 tháng tuổi để làm giống.

Hom gốc: Nhân giống tre bằng hom gốc phải có một phần thân tre khoảng 7 – 8 tháng tuổi, có 3 lóng dài từ 80 – 100cm, có đường kính từ 7cm trở lên. Đem một thân ngầm, có chồi mầm không dập nát, không bị thối, đem ươm ở vườn ươm thời gian từ 3 – 4 tháng rồi đem trồng.

Hom thân: Chọn cây tre 7 – 8 tháng tuổi cưa ở gốc, phần tiếp giáp với thân ngầm, đem về đục lỗ trên các lóng theo hướng thẳng góc với cành. Sau đó đem đặt ở các luống tại vườn ươm, lấp đất vừa đủ kín thân cây tre (đất vườn ươm đã được cày bừa và bón phân hữu cơ đầy đủ). Kế tiếp đổ nước vào các lóng tre cho đầy rồi đậy lại để giữ ẩm, vườn ươm có làm giàn che mát 70 -80%, tưới ẩm thường xuyên. Sau 1 tháng dỡ bỏ giàn che, nuôi cây trong vườn khoảng 3 tháng, khi cây ra cành mới và rễ thứ cấp thì bứng lên, cưa từng đoạn đem trồng.

Để tiết kiệm thời gian và công sức, bạn có thể tìm mua cây giống ở các vựa nông sản.

Sau khi chuẩn bị đất trồng và giống xong đặt cây giống xuống hố nghiêng khoảng 45 độ (nếu là hom gốc),dùng đất nhỏ mịn lấp đầy hố và nén chặt. Trường hợp trồng bằng hom thân, hom cành thì khi đặt hom vào giữa hố theo chiều thẳng đứng, phần gốc chồi nằm dưới miệng hố không quá 10cm rồi lấp đất và nén chặt.

Trồng xong nên tưới nước thật đẫm, đảm bảo rễ cây tiếp xúc tốt với đất, dùng rơm rạ tủ chung quanh gốc cây một lớp dày 10 x 20cm để chống cỏ dại vào mùa mưa, giữ ẩm vào mùa khô.

Tre măng mới thu hoạch

3. Chăm sóc

Mỗi năm bón thúc hai lần vào thời điểm trước khi ra măng 1 tháng và sau khi thu hoạch măng nhằm giúp cây phục hồi sức nhanh. Dùng 15 – 20kg phân chuồng hoai (hoặc 10kg phân hữu cơ vi sinh) và khoảng 1 kg phân NPK bón cho mỗi bụi tre trong thời kỳ kinh doanh. Đối với tre phân chuồng là nguồn dinh dưỡng tốt nhất để tạo ra rau sạch. Đào rãnh nhỏ xung quanh bụi tre cách gốc tre khoảng 0,5m rồi rải phân lấp kín đất lại.

Thường xuyên làm cỏ, vun xới, tấp cỏ rác mục vào gốc cây để cho măng to và nhiều hơn.

Măng tre bóc vỏ

4. Thu hoạch

Nếu chăm sóc tốt, cây tre sẽ cho thu hoạch măng sau khoảng 2 năm trồng. Sau khi khai thác tre nhất thiết phải đào bỏ thân ngầm già (gốc tre), nhằm giúp đất thông thoáng để măng mọc ra từ thân ngầm khác có điều kiện phát triển tốt hơn, đối với tre mọc tản cũng làm tương tự.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Phát hiện “mỏ” nấm ở Quảng Trị

Mấy ngày qua, người dân đi rừng phát hiện nấm mối mọc khắp nơi, thế là mọi người gác lại tất cả mọi công việc để vào rừng nhổ nấm mang ra chợ bán.

Biết được nấm mối là loại thuốc quý nên các đầu mối từ các tỉnh lân cận đổ về Quảng Trị thu gom một lúc vài trăm cân nấm…

Nấm mối tại Quảng Trị

Vào mùa “săn” nấm mối, các nhà hàng trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị thêm các món đặc sản chế biến từ nấm mối, vì thế nên giá nấm mối không ngừng tăng cao. Những ngày qua, giá nấm giao động khoảng 120.000/kg.

Theo chị Lê Thị Hoa, ở xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, mấy ngày qua, người dân đi rừng phát hiện nấm mối mọc dày đặc khắp nơi, thế là mọi người gác lại tất cả mọi công việc để vào rừng nhổ nấm mang ra chợ bán. Chị Hoa cho biết: “Gia đình tôi 5 người nhổ một ngày cũng được 100 kg nấm, bán cho thương lái tại chỗ 60 nghìn đồng/kg”.

Theo nhiều người dân có kinh nghiệm trong nghề săn nấm mối, từ 5 năm trở lại đây chưa bao giờ nấm mọc nhiều như thế này. Người dân quan ngại sau mỗi lần nấm mọc nhiều thì xảy ra tình trạng rét nặng kéo dài. Tên gọi nấm mối vì nấm chỉ xuất hiện ở nơi có nhiều tổ mối đất sinh sống. Mối đất làm tổ to như trái dừa khô, hình dáng từng hốc đất, ổ mối đất màu trắng hoặc hơi ngả vàng.

Nấm mối xuất hiện vào đầu mùa mưa, ở nơi đất cao vì mối không thể làm ổ ở nơi đất quá ẩm ướt. Nấm mối được hình thành từ meo đặc biệt của một loại mối chuyên sinh ra nấm. Một gò nấm có vài chục tổ như vậy. Các tổ liên kết nhau bởi những con đường hầm nhỏ. Mối chúa ở tổ trung tâm nơi sâu nhất, chuyên việc sinh sản. Nó to cỡ đầu đũa, dài hơn 3 cm, thân mềm, màu trắng đục, các chân thoái hóa, di chuyển chậm chạp.

Vào mùa nấm mọc, mối thợ lăng xăng tạo meo quanh tổ, chờ ngày nấm rẽ đất mọc lên. Khởi đầu meo phát triển trong tổ thành nhiều mầm nấm trông như những mũi tên trắng xóa, rất đẹp. Những mầm nấm này hút chất dinh dưỡng trong tổ nấm để lớn dần và rẽ đất mọc lên.

Cụ Hồ Nung, ở xã Tà Rụt, huyện Đakrông cho biết: “Cuộc đời cây nấm cũng trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Giai đoạn nấm mới mọc nhú gọi là “nấm nứt đất” chưa thu hái được vì cái nấm còn rất bé. Vài ngày sau, nấm phát triển thành nấm búp có hình như cây dù chưa mở. Sau đó, tán nấm xòe ngang ra nở trọn vẹn gọi là nấm tán dù. Ngày sau, nấm héo úa, hư hoại dần, gọi là nấm tàn, bán chỉ 20.000/kg mà chẳng ai mua”.

Sau lời hứa chắc chắn chỉ đi theo để thu thập thông tin chứ không hái nấm, đặc biệt không tiết lộ thông tin khu vực hái nấm cho người khác, những người hái nấm cho chúng tôi theo chân vào một đêm khuya giá lạnh. Đoàn người lặng lẽ nhằm hướng rừng sâu thẳng tiến, không nói chuyện, không bật đèn để giữ bí mật.

Ông Núi, một người ngoại lục tuần có vẻ là trưởng nhóm thỉnh thoảng dừng lại dùng mũi đánh hơi nấm mối. Sau này một người cho tôi biết, không phải ai cũng tìm ra nơi nấm mối mọc. Ai “nặng vía” không thể nào tìm được nấm mối, nếu có đi ngang chỉ có giẫm lên mà thôi, còn người “nhẹ vía” có thể tìm được rất nhiều. Người dùng mũi đánh hơi nấm mọc như ông Núi chỉ đếm trên đầu ngón tay nhưng họ lại không ăn được nấm.

Đi khoảng gần một giờ đồng hồ, đến một đám cây rừng rậm rạp, ông Núi lệnh cho cả đoàn ngừng lại nghỉ ngơi, rồi rút trong túi một cây đèn pin nhỏ bịt kín chóa đèn, chỉ chừa một luồng ánh sáng nhỏ bằng ngón tay út tiến vào đám cây rừng. Một lúc sau trở ra, ông Núi nói khẽ, thấy nấm rồi, nhưng hôm nay triển khai lên phía tây.

Ở phía nam nấm mới nứt đất, 8 giờ sáng mai mới hái được. Mọi người đồng loạt rút đèn pin đều bịt kín như ông Núi rồi cầm gậy phòng thân tán ra phía tây. Tôi đi theo một thanh niên, anh cầm gậy phang vài cái vào một đám cây để đuổi rắn rết rồi thụp xuống soi đèn. Trước mắt chúng tôi không biết cơ man nào là nấm mối. Chúng mọc dày đúng nghĩa như câu nói: mọc như nấm. Anh này nói với tôi dẫm lên dấu chân người đi trước kẻo dẫm phải nấm là mang tội, rồi cẩn thận nhổ từng tai nấm nguyên vẹn cho vào bao tải sau lưng.

Tôi lóng ngóng nhổ thử vài cây nấm, thấy chúng dập nát trong lòng bàn tay. Thì ra tìm nấm và hái nấm là cả một nghệ thuật mà những người nôn nóng không làm được. Đặc biệt, nhổ nấm không được dùng dao hay bất cứ thứ gì bằng kim loại, vì người dân cho rằng, nấm nghe hơi sắt mùa sau sẽ lặn mất, không mọc nữa, nên những chỗ đất cứng dùng que tre, que gỗ để bới gốc nhổ nấm.

Khoảng 2 giờ đồng hồ sau, mọi người tập trung đầy đủ ở vị trí tập kết với các bao tải gai đầy nấm, ông Núi kiểm tra quân số rồi ra về. Ước chừng một bao nấm mọi người hái được khoảng 30 kg. Ở khu vực này, nấm đang giai đoạn cây búp nên rất quý. Loại này bán giá cao hơn rất nhiều so với nấm tán dù hay nấm tàn. Nếu bán với giá 60 nghìn đồng/kg thì mỗi người kiếm được gần 2 triệu đồng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Sâu bệnh và biện pháp phòng trừ ở hoa lay ơn

I. Bệnh sâu hại trên hoa lay ơn

1. Bệnh Bọ trĩ trên hoa lay ơn (Frankliniella occidentalis)

1.1. Đặc điểm hình thái

Hoa lay ơn

– Trứng màu trắng đục, hình bầu dục và dài khoảng 0,34mm, đường kính 0,2mm.

– Ấu trùng ban đầu màu vàng, sau chuyển sang màu nâu đen.

– Trưởng thành có kích thước 1,5mm và rất mảnh, cánh trên màu nâu nhưng cánh dưới có màu sáng hơn. Con đực nhỏ hơn và có màu sáng hơn con cái.

– Vòng đời của bọ trĩ phụ thuộc vào nhiệt độ và thời tiết, trong 1 năm có rất nhiều thế hệ bọ trĩ vì vậy có thể dễ dàng xảy ra dịch khi không quản lý chặt chẽ.

1.2. Đặc tính sinh sống và gây hại hoa lay ơn

– Bọ trĩ là một lọai dịch hại khá nghiêm trọng đối với hoa Lay ơn, nó có thể tàn phá toàn bộ mùa màng. Bọ trĩ gây hại cả hoa và lá Lay ơn.

– Triệu chứng gây hại ban đầu thường không rõ ràng, cây bị nhiễm bọ trĩ nặng thường xuất hiện những đốm nâu và có sọc màu bạc giữa bìa lá, có thể làm cây khô héo. Nếu chồi hoa bị tàn phá nghiêm trọng, hoa không nở được và toàn bộ cây sẽ trở nên còi cọc.

1.3. Biện pháp phòng trừ bệnh bọ trĩ trên hoa lay ơn

– Vệ sinh đồng ruộng trước khi trồng để trừ  bọ trĩ tồn tại trong tàn dư  thực vật.

– Chăm sóc cho cây sinh trưởng tốt để hạn chế tác hại của bọ trĩ.

– Sử dụng thuốc Chlorfluazuron + Emamectin benzoate (Director 70EC) để phòng trừ.

2. Bệnh Sâu xám trên hoa lay ơn (Agrotis ypsilon)

2.1. Đặc điểm hình thái

– Trưởng thành có kích thước trung bình, thân dài 20-25mm, sải cánh rộng 43-47mm. Cánh trước màu xám đen, gần phía gốc mép ngoài có 3 vệt đen nhỏ hình tam giác. Cánh sau màu trắng, phía mép ngoài màu nâu xám nhạt. Cơ thể có nhiều lông màu xám.

– Trứng hình cầu hơi dẹt, đường kính 0,5-0,6mm. Mới đẻ màu trắng sữa, sau chuyển sang màu hồng, lúc sắp nở màu tím thẫm.

– Sâu non màu xám đen, trên lưng mỗi đốt có 4 chấm đen hình thang, đẫy sức dài 40-50mm. Nhộng dài 18-24mm màu nâu cánh gián.

2.2. Tập tính sinh sống và gây hại

– Sâu xám phá hại ở thời kỳ cây non (từ khi mầm vươn ra khỏi mặt đất cho đến giai đoạn đuôi cá). Sâu mới nở gặm biểu bì lá, sâu tuổi lớn cắn đứt gốc cây con. Sâu thường xuất hiện nhiều ở vụ Xuân, các ruộng cây trồng trước là rau màu, khi gặp điều kiện thời tiết ấm, ẩm sâu xám sẽ phát triển rất mạnh hơn.

-Trưởng thành ban ngày ẩn dưới lá, lùm cỏ, ban đêm hoạt động giao phối và đẻ trứng, thích mùi vị chua ngọt. Trứng được đẻ rời rạc từng quả dưới các lá khô ở gốc cây hoặc trên mặt đất, một con có thể đẻ 800-1.000 trứng. Sâu hóa nhộng trong đất hoặc bờ ruộng.

– Vòng đời trung bình 50-60 ngày, trong đó thời gian phát dục của trứng là 6-10 ngày, sâu non 30-35 ngày, nhộng 7-10 ngày, bướm đẻ trứng 3-5 ngày.

2.3. Biện pháp phòng trừ sâu xám trên hoa lay ơn

– Cày ải phơi ruộng, làm đất kỹ và nhặt sạch cỏ dại, tàn dư vụ trước trước khi trồng mới.

– Luân canh với cây trồng khác họ, tốt nhất là luân canh với lúa nước.

– Bắt bằng tay rất có hiệu quả (khoảng từ 18 giờ thì sâu xám bắt đầu bò lên cắn đứt ngang thân cây con), hoặc làm bẫy bả chua ngọt để diệt trưởng thành.

– Biện pháp hóa học: Hiện chưa có thuốc đăng ký phòng trừ trong danh mục, có thể tham khảo sử dụng một số loại thuốc có các hoạt chất: Abamectin; Emamectin benzoat; Cypermethrin.

II. Bệnh hại trên hoa lay ơn

1. Bệnh đốm nâu trên hoa lay ơn (Pleospora herbarum)

1.1. Triệu chứng

Vết bệnh hình tròn, hình bầu dục hoặc hình bất định màu nâu đen, xung quanh có viền nâu đậm, thường nằm rải rác ở mép lá hoặc trong phiến lá. Gặp thời tiết ẩm ướt vết bệnh lan rộng rất lớn. Trên mô bệnh thường có một lớp nấm mốc màu đen.

1.2. Nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh, phát triển

– Do nấm Pleospora herbarum gây ra.

– Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện vườn hoa bón thừa đạm, nhiệt độ 18-300C và trời mưa ẩm ướt.

1.3. Biện pháp phòng trừ bệnh đốm nâu trên hoa lay ơn

– Bón phân cân đối và hợp l‎ý, hạn chế bón thừa đạm.

– Thu gom, tiêu hủy tàn dư cây bệnh tránh lây lan.

– Biện pháp hóa học: Hiện chưa có thuốc đăng ký phòng trừ trong danh mục,  có thể tham khảo sử dụng một trong các loại thuốc có các hoạt chất: Azoxystrobin+ Difenoconazole, Chlorothalonil;Cytosinpeptidemycin; Difenoconazole ; Iminoctadine;

2. Bệnh mốc xám trên hoa lay ơn(Botrytissp.)

2.1. Triệu chứng bệnh mốc xám hại hoa lay ơn

Bệnh gây hại trên lá, vết bệnh ban đầu là những đốm nâu nhỏ sau đó phát triển thành những vùng lớn và cuối cùng có thể hình thành các lớp mốc xám.

2.2. Nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh, phát triển bệnh

– Do nấm Botrytis sp. gây ra.

– Bệnh phát triển thích hợp ở điều kiện ngày ấm, đêm lạnh và có ẩm độ không khí cao. Đặc biệt khi trồng quá dày.

2.3. Biện pháp phòng trừ bệnh mốc xám hoa lay ơn

– Luân canh với các cây họ hòa thảo hoặc với các cây trồng cạn, trong điều kiện có thể luân canh với lúa nước hoặc có thể luân canh giữa cây hoa trồng bằng củ với cây trồng bằng hạt hoặc bằng cách giâm cành.

– Bón phân NPK cân đối, hợp lý kết hợp với phân chuồng hoai mục. Mật độ trồng hợp lý.

– Thường xuyên theo dõi tình hình các bệnh hại phát sinh, tỉa bỏ lá già, lá bệnh, cây bệnh đem  tiêu hủy.

– Chú ý làm sạch cỏ, phòng trừ côn trùng môi giới truyền bệnh, xới xáo kịp thời, đặc biệt cần chú ý không tạo các vết thương xây xát trong quá trình chăm sóc để tránh tạo điều kiện cho các loại vi sinh vật gây bệnh xâm nhiễm phá hại.

– Sau khi thu hoạch sản phẩm cần kịp thời thu dọn tàn dư thân, lá, hoa bị bệnh ở vườn ươm và vườn sản xuất đem đốt hoặc vùi sâu trong đất để tránh nguồn bệnh tồn tại sang vụ sau.

– Trong trường hợp cần thiết có thể xử lý đất vườn ươm hoặc cày sâu để phơi ải, kết hợp bón vôi…

– Biện pháp hóa học: do chưa có thuốc đăng ký trong danh mục để phòng trừ, có thể tham khảo sử dụng một số loại thuốc có hoạt chất như với bệnh đốm lá.

3. Bệnh gỉ sắt trên hoa lay ơn(Uromyces transversalis)

3.1. Triệu chứng bệnh gỉ sắt trên hoa lay ơn

Vết bệnh dạng ổ nổi màu da cam hoặc màu nâu sắt gỉ sau chuyển sang màu nâu đỏ, hình thái bất định, thường xuất hiện trên lá. Bệnh nặng làm cháy lá. 3.2. Nguyên nhân gây bệnh gỉ sắt trên hoa lay ơn: – Do nấm Uromyces transversalis,gây ra – Nấm phát triển trong điều kiện thời tiết có ẩm độ không khí cao. 3.3. Biện pháp phòng trừ bệnh gỉ sắt trên hoa lay ơn. – Vệ sinh vườn sạch sẽ. – Thu gom và tiêu hủy tàn dư cây bệnh đem tiêu hủy, tránh lây lan.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cách phòng trừ sâu bệnh hại trên cây Vú Sữa

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao

I. Các loại sâu hại chính

1. Sâu đục trái (Alophia sp.- pyralidae):

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao.

Phòng trị: Sau thu hoạch, tỉa bỏ cành sâu bệnh, cành gãy…giúp vườn cây thông thoáng. Thu gom và tiêu hủy trái bị hại để sâu non không hóa nhộng và gây hại ở lứa tiếp theo. Phun thuốc khi thấy có sâu non xuất hiện bằng các loại thuốc như: Basudin 50ND, Sumi Alpha 5EC, Karate 2,5EC, Cypermap 10EC… liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

2. Sâu ăn bông (Eutalodes anithivora – Gelechiidae):

Gây hại từ khi bông bắt đầu nhú ra đến khi hoa trỗ nhụy, sâu non đục vào bên trong làm bông bị hư.

Phòng trị: khi phát hiện có sâu hại, phun các loại thuốc có tác dụng lưu dẫn như: Cyber Alpha 50ND, liều lượng theo hướng dẫn trên chai thuốc.

3. Sâu đục cành (Pachyteria equestris – Coleoptera):

Gây hại quanh năm. Con trưởng thành đẻ trứng lên đọt non, sâu non nở ra ăn lòn vào trong cắn phá cành, làm chết cành.

Phòng trị: Thường xuyên thăm vườn, nếu thấy có mọt đổ từ các cành thì dùng que xoi vào lỗ đục và bắt bằng tay hoặc bơm thuốc trừ sâu có tính lưu dẫnvào các lỗ đục, sau đó trám lỗ đục lại bằng đất sét hoặc sáp.

4. Rệp sáp (Pseudococcus sp.):

Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên vú sữa. Rệp chích hút lên lá, lên trái…. rệp tấn công từ khi trái còn nhỏ đến khi thu hoạch làm cho trái không phát triển. Ngoài ra, rệp tiết ra mật ngọt, tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, làm mất phẩm chất trái.

Phòng trị: tỉa bỏ những lá, trái bị nhiễm nặng, dùng máy bơm phun nước lên những chỗ có rệp sáp để rửa trôi rệp. Phun thuốc khi mật số rệp cao. Có thể bổ sung dầu khoáng DC- Tronplus 0.5% để tăng hiệu lực của thuốc.

II. Các loại bệnh hại chính

1. Bệnh thối trái (Do nấm Colletotrichum sp.):

Nấm bệnh tấn công trái từ khi trái còn non đến khi thu hoạch. Ban đầu trên trái có những đốm nhỏ hình tròn màu nâu hoặc nâu đen, sau đó vết bệnh lan rộng ra và các vết bệnh nối tiếp nhau bao phủ cả trái. Trái bệnh thường bị chai sượng và rụng.

Ngoài ra, nấm Lasiodiplodia theobromae cũng làm cho trái bị thối khi thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ. Với vết bệnh ban đầu nơi gần cuống trái do thu hoạch không chừa cuống hoặc vỏ trái bị trầy xướt, sau đó vết bệnh lan dần làm hư thối cả trái.

Phòng trị: Vệ sinh vườn, tỉa bỏ và thu gom những trái bị bệnh lại để tiêu hủy. Không nên trồng quá dày, tỉa bỏ cành vô hiệu để giúp vườn thông thoáng, hạn chế nấm bệnh phát triển.

Khi thu hoạch tránh gây bầm giập, trầy xướt trái, không làm rụng cuống trái để giúp vườn thông thoáng, hạn chế sự xâm nhập của nấm bệnh. Cần theo dõi thường xuyên nếu thấy bệnh phát triển nhiều thì phun các loại thuốc như Antracol 70WP, Benlate 50WP, Manzate 80WP, Daconil 75WP, Carben 50SC, Thio – M 70WP…Ngoài ra, xử lý trái bằng nước nóng ở 52o C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.

2. Bệnh bồ hóng (Do nấm Capnodium sp.):

Nấm bệnh tạo thành từng mảng đen như bồ hóng bám trên mặt lá, trên trái làm giảm quang hợp của lá, làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Bồ hóng bám trên trái làm mã trái xấu bán không được giá. Nấm bệnh phát triển trên các vườn vú sữa có rầy mềm, rệp sáp, rệp dính…vì chất thải của rầy, rệp giúp nấm phát triển. Bệnh thường phát triển mạnh trong mùa nắng.

Phòng trị: Không trồng quá dày. Tỉa cành tạo tán hợp lý để vườn cây thông thoáng. Mùa nắng, chú ý phòng trị rệp sáp, rầy mềm, rệp dính, bằng các loại thuốc như Supracide 40EC, Trebon 10EC, Actara…Khi thấy có nấm bồ hóng: phun các loại thuốc có gốc đồng như Coc 85, Copper Zine, Copper B…

III. Quản lý dịch hại tổng hợp trên vườn cây vú sữa

Gốc cây vú sữa phục hồi sau thời gian điều trị nấm.

1. Mục tiêu:

– Nhằm hạn chế hoặc ngăn chặn sự phát sinh – phát triển dịch hại và sự gây hại của chúng đến cây trồng

– Nhằm giảm thiểu việc sử dụng thuốc hoá BVTV trong vụ mùa

– Tạo sự an toàn về môi sinh và cân bằng sinh thái

– Nâng cao an toàn chất lượng sản phẩm và an toàn trong sản xuất

– Nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất nông nghiệp

2. Quản lý dịch hại tổng hợp sau khi thu hoạch: (từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch)

– Thu gom trái rơi rụng và những trái bị hư hại bởi sâu đục trái trên cây cho vào túi nylon cột chặt và đào hố chôn hoặc đốt tiêu hủy. Cắt tỉa cành sau thu hoạch, tiêu hủy tàn dư thực vật. Tưới bằng vòi phun áp lực cao, rửa trôi dịch hại trên cây.

– Sau thu hoạch làm đất (xới nhẹ), bón vôi, sử dụng bánh neem (sản phẩm của cây xoan) có trộn phân hữu cơ (2 – 3 kg/gốc) bón vào gốc (1/3 đường kính tán cây tính từ gốc) hoặc có thể xử lý Basudin 10 H (10 g/gốc) quanh gốc và tưới ẩm. Quét vôi thân cây.

– Phân bón đúng liều lượng tăng cường phân hữu cơ cho cây (có thể trộn sản phẩm Trichoderma với phân hữu cơ, bón 2 lần/năm vào mùa mưa)

– Xử lý ra đọt non đồng loạt, sử dụng thuốc BVTV có nguồn gốc vi khuẩn Bacillus thuringiensis kết hợp với thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc như cây xoan, cúc tổng hợp trị liệu các loài sâu hại tấn công giai đoạn lá non và hoa.

3. Quản lý dịch hại tổng hợp giai đoạn trái non:

– Tưới bằng vòi phun áp lực cao, rửa trôi dịch hại tấn công trái và các bộ phận khác.

– Thăm vườn thường xuyên phát hiện, thu gom và tiêu huỷ những trái có bị hại.

– Biện pháp bao trái: Nhằm ngăn chặn sự tấn công dịch hại, tránh sự va chạm xây xát và ngoài ra không thấy xuất hiện triệu chứng da ếch. Trái thu hoạch không có tì vết, màu sắc bóng đẹp và chất lượng cao. Sử dụng túi bao khi trái có đường kính khoảng 3-4 cm (khoảng 4 – 4.5 tháng sau khi ra hoa). 1-2 ngày trước khi bao trái xử lý bằng thuốc BVTV gốc cúc (Pyrethroids) hoặc gốc lân tổng hợp có thể kết hợp với thuốc trừ nấm bệnh như Ridomyl gold, Benomyl… Sau đó, nhà vườn bao từng trái, cho trái vào túi bao (không có lá, không bao những trái đã bị sâu hại tấn công hoặc có vết sẹo hay di dạng) và gút lại bằng nút gút cao su trên đầu túi bao.

Chú ý: Để quan sát theo dõi sinh trưởng trái, nên bao đồng loạt dạng kích thước trái, đánh dấu túi bao bằng màu sắc khác nhau, ghi lại thời gian bao trái, thời gian đậu trái, để tiện cho quản lý và thu hoạch. Đến thời điểm thu hoạch, cắt trái xuống bằng dụng cụ thu hoạch, lột túi bao, rửa sạch, phơi 2 – 3 nắng, túi bao có thể sử dụng lại một lần cho vụ sau.

– Biện pháp sử dụng thuốc BVTV: Do vú sữa là cây đa niên, tán rộng, có số lượng trái trên cây khá lớn, khó mà bao hết trái trên cây. Cần có biện pháp quản lý dịch hại bằng thuốc BVTV để ngăn chặn sự tấn công của sâu đục trái. Nên thăm vườn thường xuyên, quan sát triệu chứng gây hại và xử lý kịp thời. Kết hợp thuốc vi khuẩn B. thuringiensis với các thuốc có nguồn gốc thảo mộc như cây xoan (neem), hoặc gốc cúc tổng hợp hoặc gốc lân tổng hợp phun khi trái có đường kính 1,5- 2 cm và tỷ lệ trái bị hại (nhiễm) là 1 %. Nếu vườn có sự hiện diện rệp sáp sử dụng thuốc BVTV gốc cúc (Pyrethroids) hoặc gốc lân tổng hợp kết hợp với dung dịch nước rửa chén Mỹ Hảo (5-7ml/10 lít nước). Có thể kết hợp với thuốc trừ nấm bệnh như Ridomyl gold, Benomyl…trong trị liệu bệnh hại trên trái.

4. Phòng trừ dựa vào tập tính của ruồi đục trái:

– Sử dụng Methyl eugenol làm bẫy (giết ruồi đực): dùng hộp nhựa có kích cở: 10 x 20 cm, cắt 2 lổ cánh cửa bên hộp, có giữ lại mái (hạn chế mưa tạt vào). Hộp nhựa có thể sơn màu vàng. Bên trong nắp hộp có dây treo, gard y tế (bông gòn) tẩm thuốc (1 ml Vizubon), gắn vào dây treo ở bên trong nắp hộp. Treo hộp nhựa ở chiều cao 1,5 – 2m, dưới tán cây thoáng mát, tránh ánh nắng chiếu thẳng vào làm phân hủy nhanh chất dẫn dụ, đặt 20 bẫy/ha, treo theo những điểm quanh vành đai của vườn, tránh cho sự tấn công của kiến vào bẫy (dùng mỡ bò bôi trơn dây treo). Thời gian đặt bẫy và thay bẫy: 1,5 – 2 tháng trước thu hoạch, trái sắp chín (nếu thu hoạch tháng 11,12 treo bẫy tháng 9, 10 hoặc thu hoạch tháng 3 treo bẫy tháng 1). Từ 1,5 đến 2 tuần thay bẫy một lần, bằng cách bơm thuốc mới vào gard y tế hay bông gòn trong hộp nhựa.

– Phun SOFRI protein để diệt ruồi đục trái (giết con cái): Pha 1 lít nước với 50 ml của SOFRI protein và 3 ml Regent 5 SC. Phun hỗn hợp đã pha thành điểm 50 ml/cây, vào lúc 8 – 10 giờ sáng. Phun khi 90 ngày sau khi đậu trái. Phun định kỳ 7 – 10 ngày/lần.

– Thiên địch sâu đục trái: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy Kiến Hôi Dolichodorus thoracius có khả năng khống chế mật số của sâu đục trái Alophia sp. một cách hữu hiệu.

IV. Một số lưu ý khi sử dụng thuốc trừ sâu bệnh

1. Cách sử dụng thuốc trừ sâu đúng đắn:

– Xác định những giai đoạn mẫn cảm trong chu kỳ sống của sâu hại và áp dụng trực tiếp thuốc trừ sâu vào giai đoạn đó.

– Thuốc trừ sâu được phun trừ dịch hại dựa trên cơ sở điều tra và khảo sát sâu hại trên vườn.

– Các loại thuốc trừ sâu được phép sử dụng ở nhiều hoạt chất khác nhau, để làm tránh hoặc làm chậm tính kháng của sâu hại.

– Sử dụng vòi phun mịn để phun thuốc trừ sâu.

– Sử dụng thuốc trừ sâu có hiệu quả nhất ở giai đoạn quyết định của cây trồng và khi mật số sâu hại đạt ở mức độ cao.

2. Cách sử dụng thuốc trừ nấm bệnh đúng đắn:

– Sử dụng thuốc trừ nấm bệnh cần chú ý vào giai đoạn cây trồng dễ mẫn cảm bệnh và điều kiện môi trường thích hợp cho sự phát triển bệnh này (vườn dầy, ẩm độ cao).

– Thuốc trừ nấm tiếp xúc được sử dụng khi giai đoạn của hoa hoặc lá ít mẫn cảm với nấm bệnh (trước khi nấm bệnh xâm nhiễm). Sau khi cây đã bị nhiễm, thuốc lưu dẫn cần sử dụng liên tục định kỳ để trị liệu bệnh

– Thuốc trừ nấm tiếp xúc và lưu dẫn cần sử dụng xen kẽ tránh sự kháng thuốc của nấm bệnh.

– Thuốc trừ nấm sử dụng trên vườn cần dựa trên vụ mùa trước và điều kiện thời tiết. Điều này quan trọng hơn là phun định kỳ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tây Ninh: Trồng Gừng trong bao 100m², thu nhập trên 100 triệu đồng

Trồng Gừng trong bao, một công việc không phải là mới với nhiều người ở hầu khắp các địa phương trên cả nước nhưng trồng Gừng trong bao xi măng, bao tải dứa, bao nilon… thực sự là mô hình khá mới mẻ với nhiều người nhưng lại đang tỏ ra là một mô hình hiệu quả, đem lại thu nhập cao trong nhiều năm trở lại đây. Bài viết dưới đây về một người nông dân bình thường cũng là ví dụ điển hình.

Sau nhiều năm bôn ba với nghề thợ hồ, năm 2006, ông Trần Văn Công (56 tuổi) ở ấp Bình Phong, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, Tây Ninh quyết định về nhà trồng gừng. “Tôi lớn tuổi rồi, ra ngoài làm mướn không bằng tụi trẻ” – ông Công tâm sự.

Trồng gừng trong bao xi măng – mô hình khá mới mẻ

Ông chọn miếng đất bên hông nhà khoảng 100m², làm đất kỹ lưỡng và lên liếp trồng gừng. Do chưa có kinh nghiệm, cộng với đất ở đây thường ẩm ướt, nên gừng hay bị thối củ, năng suất không cao. Những lần ông đốt rác, rồi cho vào trong bao bỏ trong góc vườn. Thấy đất tốt, ông trồng thử vài gốc gừng, thu hoạch, gừng cho năng suất cao hơn trồng trên liếp. Ông nảy ra sáng kiến trồng gừng trong bao.

Từ phân rác, ông chế công thức pha trộn đất để trồng gừng. Năm 2007, ông san bằng mặt liếp, đến các công trường xin bao xi măng về may thành các túi nhỏ, cho đất trồng 1.000 gốc gừng. Sau 6 tháng, ông thu được trên 2.000kg gừng củ, với giá gừng 40.000 đồng/kg, trừ chi phí ông lãi gần 80 triệu đồng. Ông cho biết, 2 năm ông trồng 3 vụ gừng, trừ chi phí, mỗi năm ông bỏ túi trên 100 triệu đồng.

Theo ông Công, ưu điểm của trồng gừng trong bao là đất không ẩm ướt, nên củ gừng không bị thối, không bị rễ các cây khác chèn vào, vì vậy năng suất mỗi gốc từ 2-3kg củ, trong khi trồng trên liếp, mỗi gốc cho khoảng 1,5kg củ. Mặt khác, trồng gừng trong bao dễ chăm sóc, di dời và dễ thu hoạch.

Gừng dễ dàng được chăm sóc khi trồng trong bao xi măng

Thành công với cây gừng, năm 2010, ông thử nghiệm trồng 17 gốc khoai môn củ trong bao. Kết quả, khoai môn trồng trong bao củ to hơn, năng suất mỗi bao từ 2,7- 3kg củ, còn trồng trên liếp mỗi gốc chỉ cho 1,5-2kg củ. Năm 2011, ông quyết định trồng thêm 100 gốc khoai môn trong bao.

Ông Công dự định, cuối năm, ông mở rộng thêm diện tích trồng gừng, khoai môn và mua lưới để che vườn gừng. Ông chia sẻ, theo khuyến cáo của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, nếu cây gừng được che mưa, che nắng, năng suất sẽ cao hơn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.