Kính nể lão nông ‘nghiệp dư’ nuôi Cá lồng kết hợp Trai lấy ngọc, thành công bất ngờ

Ông Hạnh kết hợp với Cty TNHH Thảo Vân triển khai thêm mô hình nuôi trai nước ngọt lấy ngọc. Những con trai đã cấy nhân để tạo ngọc được treo bên cạnh lồng cá sẽ giúp thanh lọc nguồn nước tại chỗ. Ông đầu tư hơn 400 triệu để nuôi 50.000 con trai lấy ngọc…

Dù có hoàn cảnh kinh tế khá giả, lại đã được nghỉ hưu nhưng ông Lưu Văn Hạnh (xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, Thái Nguyên) lại chọn cho mình một công việc mới vô cùng vất vả và nhiều bất trắc.

Quyết định táo bạo

Đầu năm 2016, khi nghe Thạc sỹ thủy sản Trần Viết Vinh (Đại học Nông lâm Thái Nguyên) nói về triển vọng, hiệu quả của việc nuôi cá lồng, ông Hạnh đã bị mê hoặc về ý tưởng đó.

Ông Lưu Văn Hạnh chăm sóc cá lồng

Cất công về thành phố tìm gặp thạc sỹ Vinh, ông trình bày ý tưởng để được hướng dẫn. Về nhà, ông viết dự án để trình Phòng NN-PTNT huyện Đại Từ phê duyệt. Tháng 4/2016, ông thành lập Cty TNHH Việt Nhật để thực hiện dự án, đầu tư ghép 30 lồng cá quy chuẩn trên hồ Gò Miếu (thuộc xã Ký Phú, huyện Đại Từ).

Người thân lo lắng phân trần, đã 60 tuổi, Nhà nước cho nghỉ lại còn lao đầu vào núi. Các con ông đều đã trưởng thành cả cũng lựa lời, điều kiện kinh tế có thiếu thốn gì mà bố lại một thân, một mình lên non.

Khi công nhân tiến hành ghép các lồng bè trên mặt hồ thì chính người dân bản địa cũng lo sợ vì nước hồ nơi này thiêng lắm. Người dân Ký Phú từ người già đến con trẻ đều lưu truyền và biết về sự tích thần hồ Gò Miếu.

Hồ Vai Miếu (người địa phương gọi là Gò Miếu) được xây dựng ở thượng nguồn nên nước đổ vào hồ là nước tinh khiết, trong xanh, sạch sẽ và mát rượi, vì thế hồ còn là địa chỉ du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh. Đi thuyền trên mặt hồ, du khách sẽ đến một vùng đá lô nhô ngâm mình trong dòng nước trong vắt. Sắc xanh của Tam Đảo, của cây rừng ven hồ soi bóng xuống đáy nước, tạo ra một cảnh sắc huyền diệu. Ông Hạnh nuôi cá lồng trên hồ liệu có làm thần núi, thần nước quở báng mà vật chết?

Quyết định đã được đưa ra và không có đường lùi. Ông Hạnh ngày đêm ở hẳn trên mặt hồ để chỉ đạo thi công. Sau gần 1 tháng xây dựng, tháng 5/2016, ông đầu tư mua cá giống về nuôi.

Thành quả bất ngờ

Dáng người nhỏ thó, nhanh nhẹn hoạt bát, gần 2 năm sống trên mặt nước hồ nên ông Hạnh có nước da cháy sạm. Ông lái thuyền máy đưa chúng tôi lượn một vòng quanh hồ. Sinh ra và lớn lên ngay dưới chân hồ nên từng khe suối, từng lối mòn của đồng bào đi lấy măng, lấy củi ông đều đã nằm lòng.

Cấy ghép ngọc trai tại lồng bè của Cty TNHH Việt Nhật

Một đòi hỏi quan trọng của việc nuôi cá lồng là nguồn nước phải sạch và lưu thông. Chính từ yêu cầu đó mà ông Hạnh đã nghĩ đến hồ Gò Miếu và được chấp thuận ngay. Ông cho nuôi 10 loại cá như lăng đen, lăng chấm, chiên, trắm đen, nheo, điêu hồng, chép… Cá lớn rất nhanh lại không bị bệnh gì.

Ông Hạnh lý giải, nhờ thiên nhiên Tam Đảo ban phát, nguồn nước sạch vô biên thượng nguồn đã giúp cho cá khỏe mạnh, chóng lớn. Ông đã về tận Nam Sách (Hải Dương) để học kỹ thuật thì thấy người chăn nuôi tốn rất nhiều tiền mua thuốc men để phòng và trị bệnh cho cá. Nhưng vì cá ở đây được nuôi sống trong nguồn nước trong sạch nên mỗi lứa ông chỉ mất 2 triệu tiền mua tỏi về để cho cá ăn. Tỏi được nghiền trộn cùng thức ăn sẽ giúp cá tăng sức đề kháng, phòng một số bệnh.

Thức ăn của cá ngoài cám, ông còn cho thu mua cá vụn, cá tép dầu được người dân bán lại. Chỉ sau 3 tháng, có vài loại cá đã được thu hoạch như cá điêu hồng, rô phi. Thống kê sau một năm nuôi thành công, Cty TNHH Việt Nhật của Giám đốc Lưu Văn Hạnh đã xuất bán được xấp xỉ 100 tấn cá.

Ông Hạnh cho biết, hiện trong 30 lồng cá đang nuôi của ông có khoảng 90 tấn cá. Gồm 30 tấn cá lăng đen, 30 tấn điêu hồng, 2 tấn cá chiên, 10 tấn chép…

Tháng 5/2017, ông Hạnh kết hợp với Cty TNHH Thảo Vân triển khai thêm mô hình nuôi trai nước ngọt lấy ngọc. Những con trai đã cấy nhân để tạo ngọc được treo bên cạnh lồng cá sẽ giúp thanh lọc nguồn nước tại chỗ. Ông đầu tư hơn 400 triệu để nuôi 50.000 con trai lấy ngọc.

Bà Cao Thị Thanh Dần (chuyên gia kỹ thuật của Cty TNHH Hồng Ngọc Pearl, Ninh Bình – đơn vị chuyển giao kỹ thuật nuôi trai nước ngọt lấy ngọc) nhận xét, mô hình chăn nuôi thủy sản kết hợp của Cty TNHH Việt Nhật được đầu tư bài bản và quy chuẩn. Điều kiện sinh thái tại hồ Gò Miếu đặc biệt thuận lợi và tiềm năng vẫn còn rất nhiều.

Mô hình nuôi cá lồng kết hợp nuôi trai lấy ngọc của Việt Nhật đã tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 5 lao động. Chị Nguyễn Thị Hằng (xóm Chuối, xã Ký Phú) cho biết, sau khi được tuyển dụng vào làm công nhân của công ty, người lao động được cho đi học tập kỹ thuật nuôi cá lồng, cấy ghép nhân và nuôi trai lấy ngọc. Triển vọng lớn của công ty mang lại niềm vui, sự yên tâm cống hiến của công nhân.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Công nghệ sản xuất giống cá Chép V1

Cá chép V1 là kết quả của chương trình chọn giống cá chép và lưu giữ nguồn gen thuỷ sản, do Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Mai Thiên nguyên Viện trưởng chủ trì và tập thể cán bộ công chức Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I thực hiện.

Cá chép V1 đã tập hợp được những đặc điểm di truyền quý : Chất lượng thịt thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt của cá chép Việt Nam. Thân ngắn và cao cùng tốc độ tăng trọng nhanh của cá chép Hungary, đẻ sớm và trứng ít dính của cá chép Inđônêxia.

Nuôi vỗ cá bố mẹ

Cá đưa vào nuôi vỗ có ngoại hình đẹp, khoẻ mạnh không có biểu hiện mắc bệnh. Cá đực từ 0,8 kg/cá thể trở lên, cá cái từ 1,0 kg/cá thể trở lên. Cá đực và cá cái được nuôi riêng ở các ao khác nhau với mật độ 1 kg/4 – 5m2.

Thời gian nuôi vỗ:

Cá được nuôi vỗ từ cuối tháng 9 năm trước, đến tháng 2 năm sau cá có thể bắt đầu sinh sản.

Chăm sóc:

Liều lượng thức ăn chiếm 3 – 5% trọng lượng quần đàn. Nuôi vỗ tích cực hàm lượng thức ăn được giảm dần từ 5 – 3% tuỳ thuộc vào thể trạng cá qua kiểm tra định kỳ (1 tháng một lần). Nuôi vỗ thành thục thường trước khi cho cá đẻ từ 30 – 45 ngày đối với chính vụ và 10 – 15 ngày với cá đẻ tái phát. Trong thời gian nuôi vỗ thành thục cần cho cá ăn thêm mầm thóc.

Chọn cá cho đẻ

Chọn cá cái có bụng mềm, phần phụ sinh dục màu hồng. Hạt trứng rời nhau, căng đều, màu sáng trắng. Cá đực được chọn là những cá thể khi vuốt nhẹ bụng gần phần phụ sinh dục thấy có sẹ màu trắng sữa.

Kích dục tố

Kích dục tố thường dùng là LRH-A kết hợp với DOM. Cá cái được tiêm kích dục tố 2 lần. Lần 1 tiêm 1/4 – 1/5 lượng thuốc cần tiêm, sau khoảng 6 đến 8 giờ tiêm hết số thuốc còn lại. Cá đực chỉ tiêm 1 lần, trước khi tiêm lần 2 cho cá cái khoảng 2 giờ.

Thu trứng và sẹ

Trứng cá được vuốt vào bát men hoặc nhựa có đường kính khoảng 18 – 22 cm, lòng bát phải trơn bóng. Sau khi đã thu được trứng cần nhanh chóng vuốt sẹ vào bát trứng để thụ tinh cho trứng. Trứng của mỗi cá cái cần được thụ tinh tối thiểu bởi tinh của 3 cá đực.

Thụ tinh cho trứng

Sử dụng lông vũ khô của gia cầm khuấy nhẹ nhàng, đảo đều trứng với sẹ trước khi cho 5 – 10 ml nước sạch vào bát trứng. Sau khi cho nước sạch vào tiếp tục khuấy thêm 1 – 3 phút.

Khử dính cho trứng

Trứng được khử dính bằng dung dịch nước dứa (DDKD). Lượng DDKD thường gấp 5 – 7 lần khối lượng trứng cần được khử dính.
Ðổ khoảng 1/3 – 1/4 lượng DDKD vào bát trứng đã được thụ tinh khuấy đều cho trứng tách rời nhau. Sau đó bổ sung số lượng DDKD còn lại, nhẹ nhàng khuấy đều từ 20 – 25 phút tuỳ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm khuấy trứng. Sau 20 – 25 phút kiểm tra độ dính của trứng, nếu trứng không dính lại với nhau là được.

Ấp trứng

Trứng đã khử dính, rửa sạch được ấp trong bình vây có thể tích 300 lít với mật độ tối đa 40.000 trứng/lít.
Lượng nước qua bình khoảng 4 lít/giây. Trong quá trình ấp trứng cần vệ sinh mạng tràn thường xuyên, nhất là khi trứng nở.

Ương nuôi cá bột lên cá hương

Cá bột được ương nuôi trong ao với mật độ 100 – 150 cá thể/m2. Dùng bột đậu tương nghiền mịn trong 7 ngày đầu, 7 ngày tiếp theo sử dụng thức ăn dạng bột mịn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Phòng, trừ bệnh xuất huyết cho cá chép

Bệnh xuất huyết trên cá chép là một trong những bệnh gây thiệt hại nặng nề nhất. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xuất huyết ở cá chép. Để phòng và trị bệnh, ta cần tìm hiểu rõ nguyên nhân để đưa ra cách chưa trị phù hợp và nhanh chóng.

Triệu chứng bệnh: Dưới lớp vảy cá ở phần bụng, phần đuôi và vây cá bị xung huyết chuyển sang màu hồng. Cá mắc bệnh nổi lên gần tầng nước lạnh hoặc mặt nước, tụ thành bầy đàn, tốc độ bơi giảm dần và chết. Bệnh xuất huyết ở cá chép có một số dạng:

Bệnh bại huyết: Cá bệnh bề ngoài trông bình thường hoặc phía dưới lớp vảy ở vùng bụng bị xung huyết chuyển thành màu hồng, khi giải phẫu cá mắc bệnh thấy bên trong ứa ra máu loãng, các nội tạng có những đốm tụ huyết. Loại bệnh này do vi khuẩn Aeromonas gây nên.

Bệnh xuất huyết mang cá: Các tơ ở mang cá bị sưng lên, toàn bộ tơ mang cá xuất hiện nhọt động mạch, màu sắc tơ mang cá bị nhạt đi, khi bệnh đã nặng dịch huyết có màu như màu cà phê, ngay cả khi nồng độ ô-xy hòa tan trong ao nuôi cá đầy đủ vẫn thấy xuất hiện hiện tượng cá nổi đầu lên mặt nước.

Bệnh xuất huyết tính lặn: Khi cá mắc bệnh mới nổi lên mặt nước thì màu sắc vẫn bình thường, chất nhầy trên cơ thể rất ít, sau khi bắt nuôi trong hồ lưới từ 2-3 giờ, cơ thể cá xuất hiện hiện tượng xung huyết, trong đó một bộ phận nhỏ hàm trên của cá chuyển sang màu hồng, khoảng 7 tiếng sau thì cá chết. Giải phẫu cá bệnh thấy trong gan cá có mỡ, gan to. Nguyên nhân gây ra loại bệnh này là do cho cá ăn thức ăn có hàm lượng protein cao trong một thời gian dài.

Bệnh xuất huyết tính trội: Cá mắc bệnh bị xung huyết ở dưới vảy bụng, phần đuôi cá và mang cá; vây đuôi, vây lưng có màu hồng như máu. Khi giải phẫu cá bệnh thấy gan cá và túi mật sưng to, sắc nhạt. Nguyên nhân gây bệnh giống nguyên nhân gây bệnh xuất huyết tính lặn.

Cách phòng và điều trị bệnh:

– Cải thiện môi trường nước: Ngăn bờ và thay nước, định kỳ rắc bột vôi sống để tẩy trùng.

– Rắc muối: 5 phút trước mỗi lần cho ăn, rắc khoanh vùng nơi cá ăn khoảng 3-4 kg muối ăn, mỗi ngày 1-2 lần.

– Tiêu độc cho cá: Lúc thả cá giống, tốt nhất nên dùng muối ăn và thuốc muối bột nở (Bicarbonate) tỷ lệ 3:2 hòa tan trong nước rồi ngâm cá giống trong dung dịch đó từ 5-10 phút.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá Chép Giòn

Bí quyết để nuôi cá chép giòn rất đơn giản. Cá chép loại thường trước khi thu hoạch khoảng 3 – 5 tháng cho ăn một loại thức ăn đặc biệt đó là hạt đậu tằm (còn gọi là đậu ván đỏ, đậu răng ngựa), cá sẽ trở thành cá chép giòn. Da thịt cá trở nên săn chắc và khi ăn có độ giòn và hương vị đặc biệt.

Dưới đây là các bước quy trình kỹ thuật nuôi cá chép giòn mang lại hiệu quả cao nhất.

Chuẩn bị ao, lồng nuôi

Ao, lồng nuôi nên bố trí, thiết kế ở những nơi có nguồn nước trong sạch, không có nguồn nước thải công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt chảy vào.

– Đối với ao: Ao nuôi có diện tích từ 2.000 – 5.000 m2. Đáy ao được cải tạo, san bằng, nghiêng về cống thoát nước. Độ sâu của ao lớn hơn 2 m, độ sâu của mực nước từ 1,5 – 2 m. Nuôi cá chép giòn trong ao yêu cầu có thiết bị phụ trợ tạo dòng chảy, có thể dùng máy bơm hoặc bố trí quạt nước. Đây là yêu cầu quan trọng kích thích cá thường xuyên bơi lội, hoạt động để cho thịt cá nhanh giòn hơn.

Trước khi đưa cá vào nuôi cần tháo cạn nước, nạo vét bùn. Sau đó dùng vôi để cải tạo đáy ao và diệt tạp; liều lượng dùng từ 7 – 10 kg/100 m2, phơi nắng 3 – 5 ngày. Ao sau khi cải tạo, cấp đủ lượng nước trong ao từ 1,5 – 1,8 m, nước cấp vào ao phải đảm bảo trong sạch, không bị nhiễm bẩn, hạn chế nước cấp bị vẩn đục.

Khi nuôi cá chép giòn nguồn nước phải đảm bảo sạch, không bị nhiễm bẩn, hạn chế nước cấp bị vẩn đục.

– Đối với lồng: Nếu lồng cá có diện tích lớn thì phải chọn những nơi có độ sâu 3,5 – 4 m. Lồng được đặt nổi và neo cố định tại một vị trí thuận lợi trên sông, có dòng nước chảy liên tục, mực nước sông tương đối điều hoà và phải cao hơn chiều cao ngập nước của lồng từ 0,3 – 0,5 m.

Phương pháp và mật độ thả

Trước khi tiến hành các thao tác như vận chuyển đến ao, lồng nuôi mới hoặc san thưa, cần tiến hành ép cá bằng phương pháp cho cá nhịn ăn khoảng 1 ngày. Chuyển cá vào lúc trời mát, sáng sớm hoặc chiều tối.

Cá đưa vào nuôi vây vẩy hoàn chỉnh, không xây xát, không mất nhớt, cỡ cá đồng đều. Trạng thái hoạt động linh hoạt, bơi lội nhanh nhẹn, bơi chìm trong nước theo đàn; không có dấu hiệu bệnh.

Cá chép giòn có thể nuôi được 1 – 2 vụ/năm, thời gian 3 – 5 tháng/vụ; Cá được chọn nuôi có kích thước lớn từ 1,2 – 1,8 kg. Mật độ nuôi trong ao 0,5 – 1 con/m2, mật độ nuôi lồng 5 – 7 con/m3, tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc.

Cá chép nuôi khoảng 9 tháng khi đạt trên 1 kg, lúc này người nuôi mới vỗ béo bằng đậu tằm để quyết định độ giòn của thịt cá.
Biện pháp cho cá ăn đậu tằm

– Cách chế biến thức ăn: Trước khi tiến hành cho cá ăn, người nuôi phải ngâm hạt đậu tằm với nước từ 12-24 giờ (tùy theo nhiệt độ không khí), những hạt to phải cắt ra làm đôi. Sau đó đãi thật sạch và trộn với 1-2% muối, để trong thời gian 10 -15 phút rồi mới bắt đầu cho ăn. Đây là cách chế biến thức ăn khá phổ biến trong kỹ thuật nuôi cá chép. Cho ăn sau 3 tiếng thì quan sát xem cá có ăn hết hay không. Nhờ đó dễ dàng cân đối, điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp.

– Cách cho ăn: Nên luyện cho cá chép ăn đậu tằm bằng cách bỏ đói, không cho cá ăn gì trong vòng 5 ngày, sau đó bắt đầu cho cá ăn đậu tằm. Trong 5 ngày tiếp theo, cho cá ăn đậu tằm với khẩu phần 0,03% khối lượng thân vào lúc 16h chiều, vì đây là thời gian thích hợp để cá hấp thu thức ăn. Sau đó tăng dần khẩu phần ăn lên 1,5-3,0 % khối lượng cá trong ao.

Khi cho ăn, hạt đậu rất dễ bị chìm nên thả đậu cho cá ăn từng ít một. Lượng thức ăn hàng ngày của cá được tính theo 2 – 3% tổng trọng lượng cá nuôi trong ao. Dùng nhá để điều chỉnh lượng thức ăn, nhá được làm từ khung sắt có đường kính 80cm, rộng từ 3 – 4m2, chiều cao đáy 25 – 30cm. Một ngày cho cá ăn 1 lần, nhá được đặt ở đáy ao . Nhá được vây xung quanh 1 lớp lưới để giữ cho đậu không bị trôi ra ngoài. Trong suốt quá trình dùng nhá, phải đình kỳ kiểm tra, vệ sinh tối thiểu 4 lần/tháng để phòng bệnh cho cá.

Các loại đậu có thể cho cá ăn nhằm tăng độ giòn.

Thức ăn cho cá phải được kiểm tra sát sao hàng ngày thông qua sàng cho ăn.

Kỹ thuật nuôi

Trong thời gian đầu không được cho cá ăn gì khác ngoài đậu tằm, và sau khi cho cá ăn đậu khoảng 3 tiếng thì kiểm tra xem cá có ăn hết hay không, hoặc ăn nhiều, ít để có kịp thời điều chỉnh lượng thức ăn sao cho phù hợp.

Hạt đậu tằm sẽ có xu hướng chìm nhanh, vì vậy khi cho cá ăn chỉ cần rải từng ít một để tránh lãng phí thức ăn, và cho cá ăn tùy vào nhu cầu ăn của cá hàng ngày.

Cách nuôi cá chép đúng là cho cá ăn 2 lần/ngày vào lúc 8 – 10h và 16 – 18h, thức ăn cho vào máng đặt ở đáy ao, lồng nuôi (máng làm bằng khung sắt có đường kính 6 cm, diện tích máng 4 – 5 m2, chiều cao máng 25 – 30 cm). Xung quanh máng được vây 2 lớp, 1 lớp lưới thép, 1 lớp lưới cước để ngăn đậu trôi ra ngoài.

Trong quá trình sử dụng máng cần định kỳ vệ sinh máng ít nhất 2 lần/tháng để đảm bảo phòng bệnh cho cá nuôi được tốt hơn.

Phòng bệnh

Định kỳ 1 tháng/lần bổ sung thêm Tiên Đắc I trộn vào thức ăn cho cá với liều lượng 100 g thuốc/500 kg cá/ngày, cho ăn liên tục 3 ngày. Hoặc sử dụng tỏi xay nhuyễn với lượng 3 – 5 g/kg thức ăn. Ngoài ra có thể dùng Vitamin C, vitamin tổng hợp với liều lượng 30 mg/kg thức ăn.

Kiểm tra cá trong ao, lồng nếu thịt cá đạt độ giòn nhất định thì tiến hành thu hoạch. Trước khi thu hoạch 1 ngày cho cá nhịn ăn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật cho cá Chép đẻ tự nhiên trong ao

Cá chép thuần chủng có thể tự sinh sản được trong ao. Tuy vậy, ở nhiều nơi, do cá trong ao bị lai tạp và thoái hoá, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cá nuôi. Trong bài này sẽ giới thiệu cách cho cá chép đẻ tự nhiên theo phương pháp đơn giản để các hộ gia đình có thể chủ động sản xuất được con giống chất lượng cao, đúng thời vụ.

1. Mùa vụ cho đẻ:

Mùa đẻ chính của cá chép là mùa xuân và mùa thu. Trong thời gian này, vào những ngày mưa rào, có thể nhìn thấy từng đàn cá chép vật đẻ. Theo từng nhóm, cứ 2 – 3 con đực kèm sát 1 con cái, bơi lội ven bờ sông hoặc đầm ao, nơi có nhiều cây cỏ, rong, bèo để làm chỗ dựa vật đẻ. Các con đực tranh nhau đến cọ thân mình vào con cái. Cá cái được kích thích sinh dục uốn mình vật vã làm cho trứng phọt ra ngoài. Vỏ trứng cá chép có chất dính nên bám vào cỏ cây, rong, bèo. Ðồng thời lúc đó, cá đực phun ngay tinh dịch, tinh trùng bơi trong nước gặp trứng làm cho trứng thụ tinh. Dựa vào tập tính sinh đẻ của cá chép trong tự nhiên, người ta đã nghiên cứu cho cá chép đẻ theo ý muốn bằng cách tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi tương tự.

Yêu cầu của phương pháp cho cá chép đẻ tự nhiên: Vào đầu mùa xuân phải tuyển chọn trong ao nuôi vỗ cá chép bố mẹ những cá đạt tiêu chuẩn sau:

– Cá bố mẹ phải béo khoẻ, toàn thân trơn bóng, không rách vây, không trớt vảy, không bệnh. Có đủ cá đực và cá cái.

– Trứng cá phải căng tròn và rời. Sẹ cá phải trắng và đặc (vuốt xuôi hai bên bụng cá, thấy sẹ
trắng chảy ra như sữa).

Thời vụ cho cá chép đẻ tốt nhất vào mùa xuân. Trứng cá vụ xuân thường nhiều và tốt, nên nhân dân thường cho cá chép đẻ vào vụ xuân là chính (vụ thu chỉ tranh thủ cho đẻ những cá tái phát dục).

Những trạm trại cá giống thường ít quan tâm đến kế hoạch sản xuất cá chép giống, vì sản xuất vài chục triệu cá bột mè, trôi, trắm không khó, nhưng để sản xuất vài triệu cá chép bột trong một vụ lại không dễ, vì số lượng trứng của cá chép ít, phải nuôi vỗ một lượng khá lớn cá bố mẹ, gây tốn kém và mất nhiều diện tích ao. Vì thế, các hộ gia đình nuôi cá ở địa phương nên nắm vững kỹ thuật cho cá chép đẻ tự nhiên để chủ động sản xuất giống cá nuôi.

2. Cho cá đẻ tự nhiên:

* Chọn thời tiết thích hợp:

Nhiệt độ cho cá chép đẻ thích hợp nhất từ 18- 25oC. Trời lạnh dưới 18oC cá chép không đẻ. Trước khi cho cá đẻ, phải nghe dự báo thời tiết để tránh những đợt có gió mùa đông bắc sắp tràn về. Tốt nhất là những ngày đầu xuân, hôm nào trời ấm áp, đêm nằm chỉ đắp chăn đơn, bên ngoài ếch nhái kêu inh ỏi là hôm ấy cho cá chép đẻ tốt.

* Tuyển chọn cá cho đẻ:

Trước khi cho cá đẻ phải kiểm tra cá bố mẹ. Nếu thấy cá có hiện tượng nhô vây, hở đuôi, hay lượn sát ven bờ là trứng, sẹ của cá đã già, cá đã muốn đẻ. Ta bắt vài con lên để kiểm tra cho chính xác. Cách kiểm tra như sau:

Con cái: Khi sắp đẻ, bụng to kềnh, lật ngửa cá lên thấy giữa bụng có một ngấn hằn lõm vào kéo dài từ vây ngực đến tận hậu môn (dọc theo giữa hai buồng trứng). Sờ bụng thấy mềm nhũn, da bụng mỏng, nhất là phía cuối. Lỗ sinh dục đỏ thẫm và hơi lồi. Nếu vuốt nhẹ vào thành bụng, trứng sẽ chảy ra, màu vàng sẫm, trong suốt và rời thành từng cái là trứng đã già. Những cá này có thể cho đẻ ngay đợt đầu.

Kinh nghiệm ở một số cơ sở cho cá chép đẻ cho biết: Những con cá cái bụng to quá mức bình thường, bành ra như bụng cóc, sờ vào thấy mềm nhão thường rất khó đẻ (cá đã thoái hoá). Ngược lại, những con cá cái khi vuốt thấy trứng màu vàng đục hoặc vàng xanh dính vào nhau từng chùm là trứng còn non.

Cá đực: Lúc sắp phóng tinh trùng, nếu vuốt nhẹ hoặc cầm mạnh cá, tinh dịch cũng chảy ra, có màu trắng như nước vo gạo và đặc sền sệt như sữa hộp. Trường hợp tinh dịch còn loãng, tuy vẫn có màu trắng nhưng không đặc quánh là sẹ còn non.

3. Chọn nơi cho cá đẻ:

* Chọn ao cho cá đẻ: Diện tích ao rộng hay hẹp tuỳ theo số lượng cá cho đẻ nhiều hay ít. Chọn ao có đáy trơ, tốt nhất là cát pha sét. Nguồn nước đưa vào ao phải sạch, không chua mặn, không ô nhiễm. Ao được tẩy dọn kỹ, có mức nước sâu khoảng 1m. Có thể dùng bể đẻ cá mè, trôi, trắm, bể ấp hoặc bể chứa nước để cho cá chép đẻ.

* Chọn ruộng cho cá chép đẻ: Nhiều nơi ở miền núi phía Bắc đã có tập quán cho cá chép đẻ tự nhiên ngoài ruộng. Ruộng cho cá chép đẻ thường có diện tích 150- 200m2, đáy đất pha cát, có thể lấy nước vào dễ dàng và luôn giữ được nước. Ruộng cho cá chép đẻ phải được cày bừa san phẳng và phơi nắng mấy ngày cho se cứng đáy (không được nứt nẻ). Bờ ruộng đắp cao hơn mức nước, cao nhất khoảng 50 – 60cm, có máng dẫn nước và cống tiêu nước thuận tiện. Cửa cống dẫn nước phải chắn phên để ngăn cá tạp theo vào ruộng. Trước khi cho cá đẻ, tháo nước vào ruộng sâu khoảng 40 – 50cm. Nếu ruộng đó còn dùng để ương trứng, nên đào sẵn ở góc ruộng một cái hố khoảng 4m2, sâu 0,6m và có xẻ mương sâu 0,2m làm đường cho cá đi lại lên xuống kiếm ăn. Mặt hố có che lá cọ hoặc làm giàn trồng mướp, bầu, bí để che nắng cho cá.

4. Chuẩn bị ổ đẻ:

Thường chọn các loại xơ mềm có nhiều lông tơ nhỏ để làm ổ cho cá chép đẻ trứng cá dễ bám, như: bèo tây, xơ dừa, sợi nilông. Phổ biến nhất là dùng bèo tây, nếu dùng bèo phải chọn loại rễ bánh tẻ. Bỏ hết rễ bèo thối, rửa sạch đất, cặn bám ở rễ và sát trùng bằng nước muối 5% (0,5kg muối ăn pha trong 10 lít nước) hoặc xanh malachit nồng độ 3mg/lít ngâm 15 phút rồi vớt ra thả vào ổ đẻ. Dùng cây nứa quây bèo thành khung hình chữ nhật, để khi cá vật đẻ không làm bèo tản mát. Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I cho thấy: Số lượng trứng của mỗi cá mẹ tỷ lệ thuận với khối lượng cá. Cá nặng 1kg thường đẻ 120.000 – 140.000 trứng; cá nặng 1,5kg đẻ 180.000 – 210.000 trứng. Tỷ lệ trứng nở thành cá bột thường đạt 30- 40% (100 trứng nở được 30 – 40 con cá bột). Một khung bèo rộng 1m2 thường có khoảng 180 cây bèo. Mỗi cây bèo thường có 700 trứng bám, vậy cứ 1 con cá cái cỡ 1kg cho đẻ cần 1m2 khung bèo. Bèo thả kín vào khung, khung đặt cách bờ ít nhất 1m ở chỗ nước sâu để khi cá vật đẻ không làm nước bị đục.

5. Thành lập nhóm cá đẻ:

Sau khi kiểm tra cá thấy trứng, sẹ đạt yêu cầu cho đẻ, chuẩn bị xong ao và ổ cho cá đẻ, nếu thời tiết thuận lợi thì bắt cá cho vào nơi vật đẻ. Trước khi cho cá đẻ, cần xác định tỷ lệ đực cái thích hợp, để lượng tinh dịch đủ đảm bảo cho số trứng đẻ ra được thụ tinh hoàn toàn. Cá chép thụ tinh ngoài, tinh dịch của cá đực phóng vào nước bị pha loãng, nếu ít tinh dịch sẽ không đảm bảo cho tinh trùng gặp được trứng để thụ tinh. Trong điều kiện nuôi vỗ tốt có thể ghép 1 cá cái + 2 cá đực, cũng có nơi ghép 2 cá cái + 3 cá đực, tỷ lệ trứng thụ tinh vẫn cao. Khi ghép cá đực vào nhóm đẻ nên xen kẽ giữa con to và con nhỏ để tăng cường kích thích khi cá vật đẻ, tỷ lệ trứng rơi vãi ít hơn vì bèo không đảo lộn và nước không bị xoáy nhiều như khi dùng toàn bộ cá đực to.

Cho cá chép đẻ tự nhiên cần lưu ý:

– Trước khi cho cá đẻ, phải kiểm tra lại ao, ruộng – nơi cho cá đẻ, xem nguồn nước chảy vào có sạch không, mức nước đủ chưa. Nếu đạt yêu cầu sẽ thả ổ bèo xuống. Theo dõi thời tiết để thả cá bố mẹ đúng lúc. Nếu gặp gió mùa đông bắc, trời rét đột ngột nên tạm ngừng việc thả cá. Thời tiết ấm áp, nhiệt độ nước đạt 18 – 250C mới tiếp tục cho cá đẻ. Khi thả, nên thả cá cái vào buổi sáng, thả cá đực vào buổi chiều cùng ngày. Nếu thời tiết thuận lợi, cá có thể đẻ từ 3 – 4 giờ tới 7 – 8 giờ sáng.

– Nếu 5 giờ sáng chưa thấy cá vật đẻ phải bơm nước vào ao hay ruộng (nếu dùng vòi phun làm mưa nhân tạo càng tốt). Thời gian bơm nước 1 – 2 giờ. Có nước mới, cá được kích thích và đẻ. Cá có thể đẻ 2 đêm liên tục. Khi trứng bám vừa phải thì thay ổ mới. Nếu để 2 đêm liền cá vẫn không đẻ, phải bắt cá trở lại ao nuôi vỗ tiếp, khoảng 20 – 30 ngày sau lại cho đẻ.

– Thời gian từ khi cá đẻ đến khi kết thúc thường kéo dài 2 ngày liền và thường đẻ mạnh vào ngày đầu.

Có thể tính số trứng cá đẻ tự nhiên một cách tương đối bằng công thức sau:

Số trứng đẻ được = (P- P’ x 60.000).

Trong đó: P là khối lượng tổng số cá cái trước khi đẻ

P là khối lượng tổng số cá cái sau khi đẻ.

Có thể ước tính số cá bột thu được bằng 30- 40% số trứng, để quyết định diện tích trứng ương thành cá bột.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá Chép thương phẩm mau lớn thu lợi nhuận ‘khủng’

Kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm để nhanh lớn thì khâu quan trọng nhất là phải lựa chọn ao nuôi cá theo đúng tiêu chuẩn.

Cá chép là một loại cá sống thành bầy, có thể sống được trong nhiều điều kiện khác nhau, nhưng chủ yếu thích môi trường nước rộng với dòng nước chảy chậm cũng như có nhiều trầm tích thực vật mềm (rong, rêu). Tuy nhiên để nuôi cá thương phẩm trong thời gian ngắn nhất mà vẫn đảm bảo được độ thơm ngon, chắc thịt của cá là nỗi băn khoăn của không ít người.

Kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi

Tu sửa bờ ao, kiểm tra đăng cống, phát quang bờ. Tát hoặc tháo cạn ao, dọn sạch bèo, cỏ, vét bùn (nếu lượng bùn quá nhiều), san phẳng đáy, lấp hết hang hốc ven bờ ao.Tẩy vôi khắp đáy ao, để diẹt cá tạp và mầm bệnh, bầng cách rải đề từ 8-10kg vôi bột cho 100m2 đáy ao.

Nếu trong ao nuôi vụ trước, cá tôm bị bệnh hoặc ao bị chua thì lượng vôi tẩy ao tăng gấp 2 lần (từ 15-20kg/100m2).Phơi ao khoảng 3 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao 30-40kg phân chuồng đã ủ kỹ và 40-50kg lá xanh (lá thân mềm để làm phân xanh) cho 100m2. Lá xanh được băm nhỏ rải đều khắp đáy ao. Dùng trâu bừa đáy ao 1-2 lượt cho phân xanh và lá lẫn vào bùn đồng thời lấp phẳng đáy ao.

Lọc nước vào ao khoảng 0,5m, ngâm ao từ 5-7 ngàynước ao sẽ có màu xanh nõn chuối (màu của phù du sinh vật), lọc nươc’ tiếp vào aođạt mức sâu 1m trước khi thả cá. Càn lọc nước bằng đăng hoặc lưới đề phòng cá dữ, cá tạp tràn vào ao nuôi cá.

Kĩ thuật chăm sóc cá và thức ăn cho cá:

Tùy vào cơ cấu, mật độ cũng như tỉ lệ đàn cá nuôi trong ao mà bạn nên cho tỉ lệ thức ăn cho cá chép sao cho phù hợp nhất, tránh dư thừa hoặc thiếu hụt. Những loại thức ăn bổ sung bạn có thể áp dụng cho cá gồm: Thức ăn tinh bột: cám gạo, tinh bột ngô, tinh bột đậu tương, bột sắn… Hoặc cho cá chép ăn cua, ốc, nhái, giun đất, các phế thải lò mổ từ 20-30%. Lưu ý bạn nên cho cá ăn vào 2 lần sáng và chiều tối. Ngoài ra, nên tham khảo thêm về thức ăn công nghiệp cho cá.

Ngoài ra cần kiểm tra sinh trưởng và bệnh cá định kỳ ít nhất một lần trên tháng, từ đó giúp ta điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp cũng như cách phòng bệnh cho cá chép, xử lý nước ao, môi trường xung quanh hay mua thiết bị sục khí cho cá (nếu nuôi trong ao nhỏ hoặc bể).

Cách chọn cá giống và xử lý cá giống trước khi thả nuôi

Chất lượng cá giống: Cá khoẻ mạnh, bơi lội hoạt bát theo đàn, phản xạ nhanh với tiếng động. Khi vớt lên cá quẫy lộn lung tung, toàn thân trơn bóng, không rách vây, không tróc vảy, không khô mình, không mất nhớt, không bệnh.

Quy cỡ cá giống: Tuỳ theo từng loài cá, điều kiện ao nuôi và thời gian nuôi. Đối với ao nhỏ, dể quản lý chăm sóc, thời gian nuôi dài thì thả giống nhỏ. Ao rộng khó chăm sóc quản lý hoặc nuôi trong thời gian ngắn thì thả cá giống lớn.

Dùng cá thử nước: Cắm giai hay rổ thưa xuống ao, thả vào trong đó 10-15 con cá giống. Theo dõi cá từ 20-30 phút thấy cá hoạt động bình thường là được, nếu thấy cá yếu hoặc chết… thì phải tạm ngưng việc thả cá để giải quyết lại nguồn nước đã lấy vào ao. Trước khi thả cá lại ao cũng phải dùng cá để thử nước.

Tắm cho cá giống đề phòng bệnh: Cá giống khi vận chuyển về, trước khi thả, nên tắn qua nước mưới ăn (nacl) nồng độ 3%. Cách tắm: dùng chậu chứa 10 lit nước sạch, hoà tan 300g muối ăn trong nước, dùng vợt bắt cá để tắm trong thời gian từ 10-15 phút.

Tránh để cá bị “xốc” do chênh lệch nhiệt độ giữa nước ao và nước chứa cá: khi thả cá xuống ao nuôi, để đảm bảo an toàn cho cá, cần chú ý cân bằng nhiệt độ nước giữa 2 môi trường, nhất là cá giống vận chuyển đường xa trong mùa hè có nhiệt độ cao. Cách làm: ngâm túi cá xuống ao từ 5-10 phút trước khi thả. Thả cá: mở dây buộc túi,hai tay ấn dìm một nửa miệng túi xuống nước, cho nước ngoài ao từ từ vào túi, khi thấy cá khoẻ, bơi ngược dòng nước thì thả cá ra ao. Chú ý thả cá ở đầu gió cho cá phân tán nhanh ra ao.

Nguồn: Vietq.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Quan tâm hơn đến giống thủy sản truyền thống

Các loại thủy sản truyền thống như mè, trôi, trắm, chép… được xác định là những loài nuôi nhiều ở nước ta và được sản xuất giống nhân tạo. Sản lượng đáp ứng đủ nhu cầu, song vẫn chưa mở rộng phạm vi, quy mô sản xuất các loài có giá trị. Do đó, đã đến lúc chạy nước rút để tăng tốc.

Nhiều địa phương đẩy mạnh nuôi các đối tượng thủy sản truyền thống

Có thể sản xuất theo nhu cầu

Tính đến năm 2010, cả nước 416 trại sản xuất giống thủy sản truyền thống, với năng lực sản xuất trên 15 tỷ cá giống mỗi năm. Hầu hết, các trại sản xuất giống thủy sản truyền thống, các cơ sở ương nuôi giống nằm ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL, cơ bản đã đáp ứng nhu cầu cá giống cho các vùng nuôi trong cả nước.

Những thành tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất giống bằng phương pháp nhân tạo đã là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất giống phát triển. Việc ứng dụng các công nghệ mới, quy trình sản xuất giống ngày càng hoàn thiện phù hợp với điều kiện nông hộ, hoặc cơ sở sản xuất để đưa năng suất cá bột ngày càng cao, giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho người sản xuất.

Ngoài ra, việc cải tiến, nâng cao chất lượng thức ăn phù hợp cho cá ương nuôi ở từng giai đoạn, cải tiến quản lý môi trường ao ương nuôi, ứng dụng và cải tiến công nghệ trong vận chuyển cá bột, cá giống cũng là yếu tố nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất giống. Hiện nay, về cơ bản các đối tượng thủy sản truyền thống đã có công nghệ sản xuất giống ổn định. Các cơ sở sản xuất giống đều nắm chắc kỹ thuật và dễ dàng sản xuất theo nhu cầu.

Vẫn còn nhiều bất cập

Với mục tiêu đẩy mạnh ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa một cách hiệu quả và bền vững, những năm qua Bộ NN&PTNT tập trung chỉ đạo hoạt động sản xuất, cung ứng giống thủy sản truyền thống phải đảm bảo chất lượng, đúng mùa vụ, giá hợp lý… và bước đầu gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên hoạt động này vẫn tồn tại nhiều bất cập. Công tác quản lý chất lượng giống thủy sản truyền thống còn chưa được chú trọng. Đàn thủy sản bố mẹ nhiều nơi chưa đảm bảo chất lượng, cận huyết; Cá bố mẹ ngày càng nhỏ, phát dục sớm, nhất là những đối tượng nhập nuôi từ lâu như cá chép, mè trắng, trắm cỏ… Tình trạng cung vượt cầu trong khâu sản xuất cá bột ở các tỉnh đồng bằng gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các trại cá, dẫn đến tình trạng để giảm giá bán đã dùng cá bố mẹ không đủ trọng lượng, thúc cá đẻ sớm, cho cá đẻ tái phát dục nhiều lần trong năm… làm chất lượng giống giảm trầm trọng.

Cơ cấu giống nghèo nàn, chậm được bổ sung, có nhập nội một số đối tượng mới nhưng hiệu quả thấp. Trong nhiều năm nay đối tượng sản xuất giống vẫn chỉ là mè, trôi trắm, chép… mà chưa mở rộng được phạm vi, quy mô sản xuất các loài cá có giá trị như cá vền, nheo, lăng, chiên, bỗng, rầm xanh, anh vũ… ở miền Bắc; Cá duồng, lăng, dảnh, chạch lấu… ở miền Nam. Giá cá giống, nhất là các loại đặc sản còn cao, chưa đảm bảo chất lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, việc lưu thông phân phối cá bột cá giống hiện nay chủ yếu là hoạt động tư nhân do thị trường quyết định nên công tác quản lý lưu thông giống còn gặp nhiều khó khăn. Tình trạng giống vận chuyển không rõ nguồn gốc, không nhãn mác, không kiểm dịch vẫn còn phổ biến.

Đẩy mạnh giống giá trị cao

Phát triển nuôi các đối tượng thủy sản truyền thống đang trở thành hướng phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản ở nhiều tỉnh, thành, giúp nhiều hộ nông dân thoát nghèo và làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Tuy nhiên, các đối tượng nuôi truyền thống như cá chép, trê, lóc, trắm cỏ, mè… hiệu quả kinh tế vẫn chưa cao, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng. Trong khi nhu cầu, đời sống ngày càng cao, yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm là tất yếu. Điều đó thôi thúc ngành thủy sản từng bước phải nghiên cứu, sản xuất thí điểm thành công nhiều loại cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao.
Con giống đóng vai trò quan trọng, vì thế nâng cao hiệu quả của việc sản xuất giống là điều cần thiết. Phải tăng cường nghiên cứu khoa học, trước hết tập trung vào khâu sản xuất giống. Nhập công nghệ sản xuất giống mới, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Xây dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản, ứng dụng các thành tựu khoa học tiên tiến vào sản xuất con giống…

Ngoài ra, cũng cần tăng cường kiểm tra các cơ sở sản xuất giống trong nước, cơ sở hạ tầng, hệ thống cấp, thoát nước, xử lý nước thải phải bảo đảm yêu cầu kỹ thuật. Bảo đảm điều kiện sản xuất, kinh doanh, có hồ sơ theo dõi quá trình nuôi theo đúng kỹ thuật. Sản xuất con giống phải có nguồn gốc xuất xứ. Nếu phát hiện cơ sở nào không bảo đảm chất lượng, nhắc nhở nhưng không khắc phục cần có những biện pháp xử lý mạnh tay.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tạo sông nhân tạo nuôi cá

Mới thoạt nghe tưởng như trăm phần trăm hư cấu nhưng thực tế chàng trai ấy đã bán được 20 dòng sông cho những người nông dân thỏa chí nuôi thả cá sạch…

Nể phục chàng boxing chế ra sông nhân tạo nuôi cá số 1 Việt Nam

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Trong khi những con sông tự nhiên đang dần cạn khô, đặc quánh rác, tanh hôi mùi tử khí thì lại có một người nghĩ ra ý tưởng đem rao sông nhân tạo để phục vụ cho việc nuôi trồng thủy sản. Chàng trai đó mới chỉ ngoài hai mươi tuổi, là cựu vận động viên boxing chuyên nghiệp của tỉnh Hưng Yên, Vũ Duy Hào.

Hào đang thu hoạch cá

Trong trận tranh chức vô địch của một kỳ đại hội thể dục thể thao anh bị đối thủ đấm tụt cả vai nên đành phải chấp nhận huy chương bạc, giải nghệ trở về với nghiệp làm nông, nuôi cá gia truyền. Và từ đây, anh còn bị xây xẩm mặt mày hơn xưa gấp bội bởi các trận đấu trên võ đài còn có thời gian ngơi nghỉ, còn có trọng tài phân định thắng thua nhưng những trận đấu giữa cuộc đời thì bất kể sớm khuya, mưa nắng.

Đã biết bao lần anh phải vớt cả tấn cá chết vì sự cố kỹ thuật hay dịch bệnh, bao lần phải chịu cảnh bão giá sản phẩm làm ra bán với giá rẻ mạt. Bề ngoài tỏ ra bền gan, bền chí nhưng nước mắt cứ chảy ngược, lặn vào trong, xa xót. Vất vả ngược xuôi mãi rồi cũng dần phải quen bởi cuộc đời đâu có cho anh thời gian đủ để để xỏ găng tay hay đeo ngàm bảo vệ răng như khi xưa từng chiến đấu?

Tình cờ một dịp bà Vũ Thị Thắm – Chủ nhiệm HTX thủy sản Hòa Phong (huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên) mẹ anh khi đi dự hội thảo của một công ty cám cò Mỹ đã được nghe chuyên gia ngoại kể về mô hình làm sông nhân tạo ở trong ao ở nước họ.

Mô hình đó thú vị ở chỗ năng suất đạt rất cao (37 tấn/trong khoảng 100m2 sông) trong khi chất lượng cá lại rất tốt vì đã cách ly khỏi bùn, không bị ám mùi. Chuyên gia ấy có phát tài liệu cho mọi người nhưng cả trăm đại biểu nông dân hôm đó hờ hững cầm, hờ hững nghe như chuyện người ta phóng tên lửa lên mặt trăng chứ không nghĩ là sẽ áp dụng được bởi không có hình vẽ tổng thể mà chỉ là những phần rời rạc, trừ có một người. Đó chính là mẹ của vận động viên boxing Vũ Duy Hào.

Lăn lộn từ người bán cá ngoài chợ thành tổng đại lý thủy sản của cả một vùng, sở hữu trong tay không biết bao nhiêu m2 đất mặt đường, giàu có thuộc dạng nhất nhì xã nhưng bà lại không chọn con đường an nhàn để tận hưởng. Sau khi đấu thầu, mua dần ngót 9 ha ruộng hoang ở quê bà đổ ra cả núi của để đào ao lập nên một HTX thủy sản và truyền lửa nghề cho các con.

Sau khi có được những hình vẽ rời rạc mà chẳng hiểu gì vì tiếng Tây một chữ bẻ đôi cũng không biết bà về bàn với con trai thử làm một dòng sông nhân tạo để nuôi thủy sản bởi vì thừa biết nhược điểm của cá nuôi trong ao tĩnh rất lười vận động, tiêu hóa chậm, thịt tanh hôi mùi bùn. Mất mấy ngày đêm Hào mới mày mò hình dung, tính toán để cho ra được toàn cảnh của dòng sông nhân tạo.

Cấu tạo của một con sông nhân tạo

Xong đâu đấy thì thuê thợ xây, thợ cơ khí hoàn thiện luôn một cái dài 25m, rộng 5 m, sâu 2 m tường xây bằng gạch, đáy đổ bê tông, đầu vào là hệ thống bơm sục khí tạo dòng chảy ngầm qua một bức vòm cong, đầu ra là hệ thống hút phân. Tất cả được đặt trong một cái ao rộng 3.000m2. Trong sông nuôi cá với mật độ cao còn trong ao lấy nước vào sông thì thả 200-300 con cá mè để lọc sạch nước.

Lứa đầu tiên nuôi thất bại hoàn toàn vì vòm cong không đủ chuẩn, khí từ 144 cái ống nhỏ bên dưới thay vì đi ngầm để tạo dòng chảy cho sông lại thổi thẳng lên trời khiến cho 4 tấn cá điêu hồng, chép bên trong đột ngột mất ô-xy, ngửa trắng bụng, phải vớt bỏ.

Lần thứ hai dù đã tạo vòm chuẩn rồi nhưng vì làm bằng tôn nên nhanh chóng bị rỉ, hỏng. Lần thứ ba khi đã thay vòm bằng chất liệu inox thì lại đến sự cố lưới chắn bằng nhựa cản dòng chảy của nước, đinh vít lưới bằng chất liệu kém đã bung ra khiến cho cá bục từ “sông” tràn sang ao.

Mỗi lần như thế đều phải làm lại từ đầu rất mất thời gian mà cá có lứa có thì không thể nay thả, mai bắt được. Trải qua tất cả 4 thế hệ thì nay cơ bản nguyên lý của dòng sông nhân tạo đã hoàn thiện trong đó có nhiều cải tiến so với mô hình mẫu của Mỹ.

Nghe tin Hào là người đầu tiên ở Việt Nam làm được sông nhân tạo, một đoàn Tây đen có, Tây trắng có gần 20 người đã cùng kéo nhau về xứ đồng hẻo lánh này để xem xét tỉ mỉ từng bộ phận rồi đều nhất loạt giơ ngón tay cái lên, thán phục: “Tốt, rất tốt”.

Đàn cá dày đặc cảm giác như phải dùng tay rẽ ra mới thấy nước bên dưới. Hào gọi chúng là cá thể thao vì bơi lội 24/24 ít khi thấy nghỉ ngơi. Cá trong ao tĩnh ngày ăn 2 bữa đã là thừa thãi, gặp khi thời tiết xấu thì bỏ bữa nhưng cá nuôi trong sông vận động liên tục nên ngày phải cho ăn đến 4 lần.

Cận cảnh đàn cá

Năng tập thể dục lại có chế độ ăn uống giàu đạm, hít thở đậm đặc o-xy nên chúng lớn nhanh như thổi, chất lượng thịt cũng khác hẳn, săn chắc, thơm ngon chứ không còn hôi tanh mùi bùn như cá nuôi ở trong ao. Diêu hồng khi mổ ra bụng hầu như không có màng đen như thường thấy mà hồng rực lên như một chỉ dấu đặc biệt sạch.

Chuyển giao công nghệ

15 dòng sông đã được dựng lên trong những cái ao của HTX với tổng chi phí hết khoảng 5-6 tỉ đồng. Nước từ những sông ấy chứa nhiều dưỡng chất còn được lấy lên, ngâm ủ để phục vụ cho nuôi trồng rau sạch bằng công nghệ thủy sinh trong hệ thống nhà lưới rộng 700m2. Một vòng tròn khép kín và sinh thái cứ thế mà diễn ra tuần tự.

Tiếng sông chảy róc rách, tiếng cá đớp mồm bôm bốp, tiếng của những cái máy cho ăn, máy hút phân sè sè tự động di chuyển như một bầy rô-bốt đã hớp hồn không chỉ của những khách tham quan mà ngay cả chủ nhân của chúng.

Cá nuôi trong sông

Chỉ cần ngắm đàn cá tung tăng bơi lội dưới sông đã đủ no nên nhiều khi Hào mê mải đến nỗi giờ ăn vợ phải chạy ra gọi mới chợt sực nhớ ra rằng mặt trời đã quá ngọ tự lúc nào. Có ông giám đốc ngân hàng huyện, chỗ thân cận của mẹ con Hào thấy khách vào ra trang trại nườm nượp đã mắng rằng: “Ai đến cũng tiếp, cũng chỉ dạy tỉ mỉ như thế rồi sau này nó làm ra hàng loạt sông lại cạnh tranh cho chính mình thì sao?”. Họ chỉ mỉm cười đáp rằng: “Nếu mà chúng tôi tham giữ công nghệ thì đã giàu từ lâu rồi. Cùng lan tỏa công nghệ nuôi sạch để cộng đồng làm theo thì đất nước mình mới mong có hàng nông sản sạch để mà ăn bác ạ!”.

Xây dựng một dòng sông nhân tạo từ trang thiết bị đến vật liệu tất tật hết khoảng 120-150 triệu nhưng Hào vẫn chỉ lấy người ta một chút công chứ không hề tính lãi từ phần công nghệ. Bởi thế mà đã có rất nhiều nông dân được chuyển giao công nghệ thành công như ông Chí ở huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có 3 cái, ông Quang ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có 5 cái, ông Lừng ở huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội có 2 cái, ông Thành ở Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa có 2 cái… Tổng cộng đã có khoảng 20 dòng sông nhân tạo được bán ra như vậy và anh vẫn mong chờ những phản hồi, góp ý từ chính phía người dùng để thế hệ sau chúng thêm hoàn thiện.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.