Dịch bệnh ở Phúc Kiến và Quảng Đông ngập tràn thị trường tôm hạ giá

Theo nguồn tin của Seafoodnews cho biết tôm ở Phúc Kiến và Quảng Đông của Trung Quốc xảy ra dịch bệnh và tôm giá rẻ tràn ngập thị trường.

Dịch bệnh ở Phúc Kiến và Quảng Đông ngập tràn thị trường tôm hạ giá

Tôm bị dịch bệnh do thời tiết thay đổi thất thường nhất là ở Phúc Kiến, tôm bệnh đã tràn ngập thị trường với số lượng lớn, làm giảm giá trong nước xuống từ 2 đến 3 Nhân dân tệ / tuần (0,60 – 0,90 USD / kg Mỹ) trong tuần này.

Một lượng lớn ao tôm ở tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc bị nhiễm phân trắng. Do dịch bệnh phân trắng diễn ra gây thiệt hại nặng nề nên người dân tiến hành rút ngắn thời gian nuôi bằng cách thu tôm sớm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Hoạt động nuôi trồng thủy sản đang phát triển khá mạnh, cùng đó là quá trình phát sinh các nguồn chất thải rắn, lỏng, khí gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Làm thế nào để đảm bảo môi trường nuôi an toàn là vấn đề bức xúc cần có giải pháp tháo gỡ kịp thời.

Nuôi thủy sản kết hợp giúp giảm ô nhiễm môi trường

Xử lý các chất ô nhiễm

Một lượng lớn các chất dinh dưỡng trong thức ăn tôm, cá không được hấp thụ vào cơ thể để tạo sinh khối mà bị thải ra ngoài môi trường xung quanh dưới dạng thức ăn dư thừa, phân và chất thải, là nguồn gây ô nhiễm chính cho môi trường.

Hệ thống xử lý: Cần đầu tư hệ thống xử lý nước thải ao nuôi trước khi xả ra môi trường. Diện tích ao xử lý nước thải tối thiểu bằng 30% diện tích ao nuôi. Bùn thải trong nuôi thủy sản phải có khu chứa riêng trong cơ sở nuôi, hay có phương án xử lý phù hợp như: Bồi đắp nền nhà, tôn cao bờ đê, san lấp mặt bằng… Tránh tình trạng bơm bùn thải trực tiếp ra các kênh rạch, dẫn đến tình trạng ô nhiễm hữu cơ, để lại dư lượng hóa chất trong đất, nước và gây ra tình trạng bồi lắng các kênh rạch trong vùng nuôi.

Dùng chế phẩm sinh học: Vi sinh vật nói chung và vi khuẩn nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình luân chuyển vật chất như phân hủy các chất hữu cơ, chuyển đổi các hợp chất vô cơ từ dạng này sang dạng khác. Do đó, cần đưa các vi sinh vật có lợi như vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm men vào trong ao nuôi giúp phân giải lượng lớn thức ăn dư thừa cũng như các chất thải trong quá trình nuôi. Trên thực tế, có rất nhiều chế phẩm sinh học đã và đang được sử dụng hiệu quả trong nuôi tôm nước lợ ở Việt Nam.

Nuôi trồng kết hợp: Sử dụng một số động vật thân mềm hai mảnh vỏ, rong biển, một số loài cá có khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa từ các ao nuôi tôm thâm canh. Cụ thể, Châu Minh Khôi và cộng sự (2012) đã nghiên cứu khả năng xử lý các chất thải dinh dưỡng dư thừa trong nước thải ao nuôi cá tra thâm canh bằng cây lục bình (Eichhorina crassipes) và cỏ Vetiver (Vetiver zizanioides). Kết quả nghiên cứu cho thấy, lục bình và cỏ Vetiver có khả năng hấp thụ các chất thải dinh dưỡng dư thừa và làm giảm 85 – 88% N và 99 – 100% P hữu cơ trong nước thải của ao nuôi cá tra sau 4 tuần. Tiếp đó, Nguyễn Văn Trai (2013) đã nghiên cứu thử nghiệm dùng vọp (Geloina coaxans) và hàu (Crassostrea sp.) để xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm thâm canh ở huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, với các bể xử lý bằng vọp (kích cỡ 37 + 6,6 g, mật độ 60 con/m3, cấp nước thải từ các ao nuôi tôm, sục khí liên tục rất hiệu quả trong việc hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa, thể hiện qua việc giảm hàm lượng các thông số COD (92,7%), TSS (81,8%), TN (82,4%) và TP (89%) trong mẫu nước sau khi xử lý.

Sử dụng bùn ao làm phân hữu cơ phục vụ nông nghiệp: Nhiều hộ nuôi ở vùng ĐBSCL đã và đang sử dụng bùn đáy ao nuôi cá tra thâm canh để bơm cho các khu cây trồng như ruộng lúa, vườn cây, làm giảm ô nhiễm môi trường và tăng năng suất và lợi nhuận thu được từ các vườn cây, ruộng lúa. Hình thức này càng được nhiều người dân ủng hộ, áp dụng hiệu quả. Tuy nhiên, cần có quy hoạch tổng thể lại vùng nuôi cá tra và vùng đất nông nghiệp, hệ thống thủy lợi cũng như xem xét các cây trồng, mùa vụ hợp lý để thúc đẩy mô hình này phát triển. Trương Quốc Phú và cộng sự (2012) đã tiến hành xử lý bùn đáy ao nuôi cá tra thâm canh để sản xuất phân hữu cơ bón cho cây trồng và kết quả bước đầu đáng ghi nhận.

Thực hành tốt quy trình

Trong công tác quản lý môi trường cần kiểm tra, giám sát định kỳ đối với các tổ chức, cá nhân; thường xuyên tuyên truyền, vận động các hộ nuôi cam kết thực hiện đúng theo quy định. Hỗ trợ các cơ sở sản xuất giống, nuôi thủy sản thương phẩm áp dụng thực hành hình thức nuôi tốt, nuôi có tránh nhiệm (GAP, VietGAP, GlobalGAP, BAP), Biofloc, nuôi an toàn sinh học không sử dụng hóa chất, kháng sinh… nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường nuôi xung quanh.

Giám sát, quan trắc môi trường

Việc giám sát, quan trắc môi trường vùng nuôi cũng góp phần không nhỏ nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường. Chủ cơ sở nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm theo dõi, giám sát môi trường tại cơ sở nuôi trồng thủy sản; thu thập, ghi chép đầy đủ các số liệu, thông tin có liên quan và kịp thời cung cấp thông tin, số liệu về môi trường khi có yêu cầu. Cùng đó, áp dụng các biện pháp xử lý, phòng ngừa, khắc phục theo hướng dẫn của cơ quan quản lý yêu cầu.

Nâng cao ý thức người dân

Chấp hành nghiêm luật môi trường là giải pháp lâu dài và bền vững cho môi trường nói chung và môi trường nuôi trồng thủy sản nói riêng. Người nuôi hạn chế lạm dụng thuốc và hóa chất trong kiểm soát bệnh tôm, xử lý nước, xử lý đáy ao. Giám sát chặt chẽ việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường trên toàn quốc. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của hộ nuôi, chủ cơ sở nuôi về bảo vệ môi trường thông qua tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức nỗ lực ngăn chặn, kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Giải pháp quản lý chất thải hữu cơ mô hình nuôi tôm trên ao đáy đất

Việc loại bỏ chất thải hữu cơ (phân tôm, thức ăn thừa, xác tảo chết) ra khỏi ao nuôi tôm có trải bạt đã quen thuộc với người nuôi tôm. Ở hệ thống ao nuôi này, toàn bộ ao được trải bạt, thiết kế một hố ở giữa ao để quy tụ chất thải và ống PVC chạy ngầm dưới đáy ao đưa chất thải ra ngoài mỗi khi mở van xả.

Đồng bằng sông Cửu Long chiếm phần lớn là mô hình nuôi tôm trên ao đáy đất, nuôi với mật độ thưa dưới 100 con/m2. Ở mô hình này, người nuôi tôm thường không thiết kế hệ thống xi phông đáy ao như hệ thống ao bạt nên không đưa được chất thải ra ngoài. Điều này khiến nguồn chất thải tích tụ dưới ao và sinh ra các loại khí độc; môi trường giàu dinh dưỡng làm vi khuẩn gây bệnh phát triển lên rất nhanh và thường thì tảo phát triển quá mức làm dao động pH, thiếu ôxy vào ban đêm…

Thông thường người nuôi tôm dùng nhiều vi sinh với hy vọng rằng chúng sẽ giúp phân hủy và chuyển hóa chất thải, duy trì được chất lượng nước; nhưng thực tế, vi sinh bán tràn lan hiện nay không phải lúc nào cũng hữu hiệu và rất tốn kém.

Qua khảo sát, một số người nuôi tôm đã cải tiến ao nuôi tôm đáy đất và thiết kế cách đưa chất thải ra ngoài rất đơn giản, không tốn kém và đem lại hiệu quả rất tốt. Mô hình này nên được nhân rộng đến người nuôi tôm.

Thiết kế ao

Sau khi hút cạn ao, người nuôi tôm nên quan sát đáy ao khu vực nào giữa ao tích tụ nhiều chất thải hữu cơ do quá trình chạy quạt gom lại, đánh dấu khu vực đó, đồng thời đánh dấu vị trí lắp quạt để khi chạy quạt vụ sau, chất thải vẫn gom đúng chỗ cũ.

Đào một hố sâu khoảng 80 cm toàn bộ khu vực chất thải gom lại, sau đó lấy bạt trải hết đáy hố và thành hố. Phần mép bạt được cuộn vào thanh tre và chôn sâu khoảng 20 cm. Việc chỉ trải bạt hố xi phông không quá tốn kém mà vẫn hút sạch hoàn toàn chất thải nên công dụng không kém hố xi phông của ao trải toàn bộ bạt đáy.

Để hiệu quả hơn, dàn quạt nên được lắp sao cho hiệu quả gom chất thải càng tập trung vào một điểm giữa ao càng tốt, khi đó hố xi phông không cần quá lớn mà vẫn hiệu quả lại dễ vận hành, tốn ít thời gian cho quá trình xi phông hơn.

Đặt một mô tơ khoảng 2 – 3 HP trên bờ, lắp một ống PVC hoặc ống gân đường kính 60 nối từ mô tơ đến giữa ao để giúp bơm chất thải ra ngoài. Ống này nên đặt nổi cách mặt nước 20 – 30 cm, dùng tầm vông để đỡ ống. Phần đầu hút xi phông gắn vào ống gân mềm để dễ vận hành di chuyển toàn bộ khu vực hố. Phần chất thải đi từ mô tơ đến ao thải có thể dùng ống mềm (ống vải) để dễ cuộn lại, sử dụng cho nhiều ao. Nếu 2 ao tôm cạnh nhau có thể thiết kế chung một mô tơ đặt trên bờ chung để sử dụng cho 2 ao.

Vận hành

Khi bơm nước vào ao, nên bơm đầy hố xi phông ở giữa ao trước, sau khi bơm đầy hố, áp lực nước từ trên xuống sẽ ép bạt dính chặt xuống đáy và xung quanh hố khiến bạt không bị phồng lên

Có thể tiến hành hành xi phông cho ao khi tôm đạt kích cỡ từ 2 g trở lên. Dùng thuyền hoặc phao ngồi trên để di chuyển đầu xi phông toàn bộ hố. Nếu tiến hành xi phông hằng ngày, đáy ao sẽ không bẩn thì hoàn toàn có thể lội xuống đứng dưới ao xi phông mà không ảnh hưởng gì và cũng dễ kiểm tra mức độ sạch bẩn của đáy ao. Theo kinh nghiệm, nên xi phông mỗi buổi sáng, thời gian xi phông chỉ khoảng 30 phút đến 1 giờ mỗi hố, điều này sẽ hạn chế được rất nhiều chất thải lắng tụ ở đáy ao, giúp duy trì chất lượng nước và đặc biệt giảm được lượng vi sinh cần thiết; hoặc cũng với lượng vi sinh tương tự, nhưng hiệu quả của vi sinh được tốt hơn vì lượng chất thải trong ao ít hơn. Phần nước hao hụt mỗi lần xi phông khoảng 2% nước sẽ được bơm bù lại từ ao chứa đã được xử lý.

Chất thải đưa ra ngoài ao chứa thải nuôi cá rô phi để chúng sử dụng làm thức ăn, và sẽ được tảo và hệ vi sinh tại ao chứa thải hấp thụ. Nếu kiểm tra chất lượng nước ao chứa thải tốt thì hoàn toàn có thể tái sử dụng lại ao nuôi.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Hiệu quả từ mô hình nuôi cá dứa trên nền ao nuôi tôm nước lợ

Cá dứa (Pangasius kunyit) là loài cá nhiệt đới có thịt chắc thơm ngọt, ít mỡ nên được thị trường khá ưa chuộng. Hiện nay cá dứa đã được cho sinh sản nhân tạo, có khả năng nuôi thích nghi trong điều kiện nước ngọt và nước lợ, ăn tạp, dễ nuôi, ít dịch bệnh, vốn đầu tư thấp nên được xem là đối tượng nuôi phù hợp với hộ gia đình.

Cá Dứa (còn gọi là cá Tra bần), có tên khoa học là Pangasius kunyit, thuộc họ cá Tra 

Với mục đích ban đầu giúp cải tạo, thay đổi môi trường ao nuôi tôm và đa dạng đối tượng nuôi thủy sản tại khu sản xuất của Trung tâm Tập huấn và Chuyển giao công nghệ nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Trung tâm Tập huấn), cuối năm 2016, đơn vị đã nuôi thử nghiệm cá dứa. Số lượng thả nuôi là 1.500 con trên diện tích 1.000 m2 ao nuôi, cỡ giống ± 3 cm/con với mật độ nuôi 1,5 con/m2. Mô hình sử dụng thức ăn công nghiệp (loại sử dụng cho cá basa, cá tra).

Sau thời gian nuôi 09 tháng, thu hoạch cá nuôi đạt trọng lượng từ 0,8 kg đến 1,2 kg/con, cho thu hoạch trên 1,2 tấn cá thương phẩm, năng suất trên 12 tấn/ha, bán với giá 130.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí cho lợi nhuận trên 60 triệu đồng/1000m2 ao nuôi. Để thực hiện mô hình thành công, cần lưu ý một số khâu kỹ thuật như sau:

Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi cần cải tạo, vét bùn, bón vôi, phơi đáy ao. Diện tích thích hợp 1.000 – 2.000 m2, ao quá lớn hoặc quá nhỏ đều không thuận lợi trong khâu chăm sóc, quản lý và thu hoạch cá thương phẩm; duy trì mức nước 1,4 m -1,6m. Sau khi cấp nước vào ao cần xử lý gây màu nước cho ao nuôi bằng chế phẩm sinh học, phân vi sinh… đến khi nước ao có màu xanh đọt chuối hoặc vàng nhạt thì tiến hành thả cá. Kiểm tra một số yếu tố môi trường như: độ mặn 10 – 15‰, pH 6 – 8,…

Chọn thả cá giống

Lựa chọn cá dứa giống có nguồn gốc rõ ràng từ tỉnh An Giang hoặc Tiền Giang với kích cỡ 3 – 5 cm/con. Trong quá trình vận chuyển nên cẩn thận để tránh làm xây xát ảnh hưởng đến sức khỏe cá giống. Thuần hóa độ mặn trước khi thả giống. Nên thả giống vào lúc mát trời (sáng sớm hoặc chiều tối) với mật độ 1 – 2 con/m2.

Chăm sóc, quản lý ao nuôi

Cá dứa chịu đựng kém trong môi trường nước có hàm lượng ôxy hòa tan thấp, nên bố trí quạt nước để đảm bảo cung cấp ôxy cho cá, nhất là vào ban đêm. Sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi có độ đạm từ 18 – 25%. Cần hạn chế thức ăn dư thừa trong ao nuôi, ảnh hưởng đến chất lượng nước, thông thường lượng thức ăn bằng 5 – 7% trọng lượng thân. Cá dứa rất háu ăn nên khu vực cho ăn phải rộng và xa bờ để tránh tình trạng cá ăn không đều ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển. Bổ sung khoáng, vitamin vào thức ăn cho cá để tăng sức đề kháng.

Thu hoạch

Khi nuôi được 8 – 9 tháng, cá đạt trọng lượng 0,8 – 1,5 kg/con thì thu hoạch. Thu cá bằng cách kéo lưới. Cá thu hoạch phải sơ chế và ướp lạnh ngay để đảm bảo chất lượng khi xuất bán.

Thu hoạch cá dứa

Trong thời gian triển khai mô hình, Trung tâm Tập huấn đã đón tiếp trên 90 lượt cán bộ khuyến nông của một số tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và trên 120 lượt bà con nông dân quanh vùng đến thăm quan, học tập, chuyển giao kỹ thuật. Từ đó giúp người dân trong khu vực có thêm một đối tượng nuôi thủy sản để lựa chọn, luân canh, chuyển đổi khi môi trường ao nuôi tôm gặp khó khăn, bất lợi như hiện nay.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Cần nhân rộng mô hình nuôi cua trong ao tôm suy thoái

Trong những năm gần đây, tình hình dịch bệnh tôm nuôi liên tiếp xảy ra khiến cho không ít hộ nuôi tôm ở các xã ven biển Hoài Nhơn bị thua lỗ. Vừa qua, thành công của mô hình nuôi cua xanh thương phẩm tại thôn Cửu Lợi Tây, xã Tam Quan Nam đã đem lại triển vọng khôi phục môi trường nuôi trồng thủy sản, tạo sự yên tâm cho người dân làm nghề nuôi thủy sản.

Mô hình nuôi cua xanh thương phẩm của ông Vũ ở thôn Cửu Lợi Tây

Ông Trần Tuấn Vũ, ở thôn Cửu Lợi Tây vốn có thâm niên hàng chục năm trong nghề nuôi tôm nhưng trong những năm gần đây bị thua lỗ nặng do dịch bệnh tôm xảy ra liên tiếp, kéo theo đó hồ nuôi cũng bị ô nhiễm nặng nên không thể tiếp tục nuôi. May mắn là đầu tháng 3.2017, ông được Trung tâm Khuyến nông tỉnh và Trạm Khuyến nông huyện Hoài Nhơn chọn triển khai mô hình nuôi cua thương phẩm trong ao nuôi tôm suy thoái.

Sau 5 tháng thực hiện trên diện tích 5.000 m2 ao nuôi, mô hình đã đạt được các chỉ tiêu như kế hoạch đề ra. Tỉ lệ cua sống đạt trên 40%, trọng lượng trung bình từ 3 – 4 con/kg, năng suất trên 2,1 tấn/ha. Với giá bán hiện nay 150 ngàn đồng/kg, doanh thu được 162 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 44 triệu đồng.

Cũng theo ông Vũ, hiện thị trường đầu ra khá thuận lợi, bởi cua xanh thương phẩm có thịt thơm ngon, được người tiêu dùng ưa chuộng. Việc nuôi cua khá suôn sẻ nhờ nguồn giống có chất lượng tốt, nguồn thức ăn tại chỗ dồi dào như các loài cá tạp, đầu mực, rong tảo. Đặc điểm sinh trưởng của loài cua rất có lợi cho việc làm sạch môi trường ao nuôi. Nếu nuôi cua xanh xen kẽ với cá rô phi, các đối mục sẽ cho lợi nhuận kép, giảm được thời gian và tận dụng được thức ăn thừa của cua giúp cá tăng trọng lượng nhanh hơn.

Theo thống kê, toàn huyện Hoài Nhơn hiện có 210 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản, riêng xã Tam Quan Nam có gần 50 ha, chủ yếu nuôi tôm; song những năm qua đã có trên 25 ha tôm nuôi bị dịch bệnh do môi trường ô nhiễm, nên việc triển khai mô hình nuôi cua xanh thương phẩm trong ao nuôi tôm suy thoái là rất hợp lý và mang lại lợi ích thiết thực cho người dân.

Ông Huỳnh Xuân Vấn, Phó Chủ tịch UBND xã Tam Quan Nam, cho biết: “Mô hình nuôi cua xanh thương phẩm trong ao nuôi tôm bị suy thoái đã cho kết quả rất khả quan; nếu được nhân rộng thì đây là một hướng nuôi mới đầy triển vọng giúp bà con gỡ lại vốn sau những vụ tôm thất bại”.

Qua mô hình nuôi thí điểm hiệu quả thấy rõ, bà con nông dân và chính quyền địa phương đồng tình ủng hộ, tuy nhiên để tiếp tục nhân rộng mô hình ở các vùng nuôi tôm thường xuyên bị dịch bệnh, ông Huỳnh Xuân Vấn kiến nghị: “Trong điều kiện bà con chưa chủ động được nguồn giống, thời gian tới chúng tôi rất mong Trung tâm Khuyến nông tỉnh, Trạm Khuyến nông huyện tiếp tục hỗ trợ nhân rộng mô hình tại một số hồ nuôi cần thiết khác trên địa bàn. Đồng thời để việc nuôi cua xanh thương phẩm phát triển bền vững, các ngành chức năng cần định hướng vùng nuôi, hạn chế người dân thả nuôi đại trà sẽ dẫn đến cung vượt cầu, cua bán mất giá”.

Nguồn: tepbac được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

SHIV – Virus mới phát hiện gây tỉ lệ chết cao trên tôm thẻ chân trắng

Một loại virut mới phát hiện được gây ra bệnh nguy hiểm và tỷ lệ tử vong cao trên tôm chân trắng Litopenaeus vannamei ở Chiết Giang, Trung Quốc, đã được xác minh và tạm thời xác định là Shrimp hemocyte iridescent virus (SHIV). Thuộc họ Iridoviridae.

Để làm rõ tác nhân này, một nhóm các nhà khoa học người Trung Quốc đã tiến hành chẩn đoán và định danh tác nhân gây bệnh trên.

Triệu chứng tôm nhiễm bệnh

-Dấu hiệu bệnh lý tôm nhiễm virus SHIV

Tôm thẻ chân trắng L. vannamei thử nghiệm lây nhiễm virus SHIV từ mẫu 20141215 có các triệu chứng bao gồm: dạ dày và ruột rỗng, sự mất màu nhẹ trên bề mặt của gan tụy và vỏ tôm bị mềm. Một phần ba số tôm có thân hình hơi đỏ (a, b). Tôm mất khả năng bơi lội và chìm xuống đáy ao. Các triệu chứng điển hình và chết cũng đã được quan sát thấy ở tôm càng xanh nhiễm bệnh từ giai đoạn ấu trùng đến tôm trưởng thành trong phòng thí nghiệm.

Các triệu chứng lâm sàng của tôm L. vannamei đã gây nhiễm thực nghiệm với SHIV (phía bên phải) so với nhóm đối chứng (bên trái). (a) Biểu hiện bệnh bên ngoài của tôm. (b) Phần gan tụy.

-Bệnh tích vi thể

Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy một lượng lớn virion trong ống gan tụy của tôm (a và b) và cơ thịt (c và d). Một số  lượng lớn virion trong tế bào chất của bạch cầu (a-d). MI: ty thể; N: hạt nhân; và M: cơ; Ngôi sao đen: mô gan tụy; và ngôi sao trắng: ống gan tụy.

Tổn thương mô (a) – (d) mô gan tụy trong mẫu dương tính SHIV; (e) – (h) mô gan tụy trong mẫu âm tính SHIV. Các màu xanh đã được quan sát thấy trong tế bào chất của các tế bào máu.

 

Các đặc điểm mô bệnh học của tôm L. vannamei cố định bằng dung dịch Davidson (a, c, e và d). Các mũi tên màu đen hiển thị các vết bẩn cơ bản, các mũi tên màu trắng cho thấy các hạt nhân teo nhỏ (nhuộm của mô gan tụy); (b) tổn thương mang.

Phân tích cây di truyền

Cây phát sinh loài dựa trên trình tự axit amin của SHIV trên tôm với các trình tự MCP và ATPase từ các thành viên khác của họ Iridoviridae

Những kết quả phân tích trên của nhóm các nhà khoa học người Trung Quốc cho thấy tác nhân virus gây hại trên là một thành viên mới của họ Iridoviridae. Môt mối đe dọa mới trên tôm thẻ chân trắng L.vannamei ở Trung Quốc cũng như toàn thế giới.

Nguồn: Nature được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Dung dịch giấm táo (ACV) và propionic acid có tác dụng điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Đây được kỳ vọng như là một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm.

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Giấm táo là gì?

Giấm táo (dấm táo) hay Apple cider vinegar là một loại giấm làm từ rượu táo. Giấm làm từ táo có có màu nâu nhạt, đậm dần đến lưng chừng màu hổ phách. Là một loại giấm sống chưa được tiệt trùng. Khi chưa lọc, giấm táo có chứa những phân tử dấm mẹ nhìn giống như có một lớp màng mỏng phía trên mặt hoặc có những trầm tích màu nâu đục lắng tụ dưới đáy chai, đó là những phân tử giấm mẹ dạng loãng.

– Khởi đầu giấm được làm bằng những trái táo băm nhỏ hay nước ép táo, pha trộn với đường. Vi khuẩn và nấm men được thêm vào chất lỏng để tạo nên quá trình lên men rượu.

– Trong quá trình lên men kế tiếp, rượu được chuyển thành giấm bởi vi khuẩn tạo nên axit axetic (Acetobacter). Axit axetic và axit malic là tác nhân hình thành vị chua của giấm.

Nghiên cứu ảnh hưởng của ACV và propionic acid lên tôm thẻ chân trắng

Thí nghiệm này được tiến hành để nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ khác nhau của ACV và Propionic axit (PA) trên biểu hiện của gen miễn dịch liên quan và hiệu suất tăng trưởng ở tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei).

375 con tôm với trọng lượng ban đầu trung bình là 10,2 ± 0,04 g đã được thu thập và làm quen với môi trường nước trong hai tuần. 5 chế độ ăn thử nghiệm bao gồm chế độ ăn đối chứng, chế độ ăn uống 0,5% PA và chế độ ăn 1%, 2% và 4% ACV được sử dụng để nuôi tôm. Tôm được cho ăn 4 lần một ngày với 2,5% trọng lượng cơ thể.

Kết quả:

Biểu hiện của prophenoloxidase (proPo), lysozyme (Lys), penaeidin-3a (Pen-3a) và gen Crustin (Cru) đã được xác định từ gan tụy, sử dụng real-time PCR sau 15, 30 và 60 ngày. Việc biểu hiện gen Lys và proPo được tăng lên đáng kể trong tôm nuôi bằng khẩu phần ACV và PA so với nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày điều trị.

Sau 15 ngày, biểu hiện gen Pen-3a cao hơn đáng kể ở nhóm PA so với nhóm đối chứng. Ngoài ra, tôm ăn với chế độ ăn 1% & 4% ACV và PA cho thấy Pen-3a tăng lên đáng kể sau 30 ngày.

Ngược lại, sự biểu hiện của Cru đã giảm đáng kể khi đáp ứng với chế độ ăn uống của ACV, nhưng sự biểu hiện của Cru trong tôm được xử lý với khẩu phần PA cao hơn nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày.

Kết luận:

Các kết quả cung cấp bằng chứng cho thấy ACV có thể được sử dụng như một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm để điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch.
Nguồn: NCBI được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam 

Một vài lưu ý đến bà con nuôi tôm khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới

Khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới, thì kèm theo đó là có một đợt không khí lạnh, đặc biệt là các tỉnh miền Trung và miền Bắc có khi nhiệt độ không khí xuống rất thấp dẫn đến nhiệt độ nước ao nuôi tôm cũng hạ theo. Vì thế trong thời gian này tôm nuôi rất dễ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh đốm trắng gây thiệt hại cho bà con nuôi tôm rất lớn.

Để giảm thiệt hại trong những lúc thời tiết xấu như thế này, bà con cần thực hiện một số lưu ý sau:

Tôm bị đốm trắng

Kiểm tra mực nước ao

Không nên để mực nước ao quá cạn (thấp hơn 1m), vì trong điều kiện thời tiết ấm thì mực nước thấp tôm có thể phát triển tốt được, nhưng khi áp thấp nhiệt đới thì thời tiết chuyển lạnh, nếu mực nước ao nuôi thấp thì nhiệt độ nước tầng đáy sẽ hạ theo rất nhanh, làm cho tôm nuôi dễ phát bệnh, vì thế cần giữ mực nước ao tối thiểu là 1,2m trở lên.

Lưu ý: cũng không nên nâng mực nước ao quá sâu, vì khi áp thấp nhiệt đới thì thời tiết âm u kết hợp theo mưa, do đó hàm lượng oxy hòa tan từ không khí xuống ao nuôi tôm rất thấp, nếu oxy xuống mức quá thấp có thể làm cho tôm chết, tùy theo mật độ tôm nuôi mà bà con có thể nâng lên ở mức hợp lý, nhưng khuyến cáo bà con không nên nâng nước ao nuôi tôm quá 1,6m.

Kiểm tra các yếu tố môi trường

Khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới thường kèm theo mưa, kéo theo các yếu tố môi trường sẽ thay đổi, đặc biệt là pH có xu hướng giảm. Vì thế bà con cần sử dụng vôi để giữ ổn định pH.

Quản lý cho ăn

Khi điều kiện thời tiết bất lợi, thì chắc chắn tôm sẽ giảm ăn, vì vậy trong giai đoạn thời tiết áp thấp nhiệt đới thì bà con nên giảm lượng thức ăn cho tôm, nhằm tránh hiện tượng thừa thức ăn, gây lãng phí và ảnh hưởng xấu đến môi trường ao nuôi tôm, làm phát sinh nhiều khí độc ảnh hưởng đến phát triển của tôm nuôi.

Cho tôm ăn

Tăng sức đề kháng của tôm

Tôm là động vật bậc thấp biến nhiệt, do đó thời tiết (cụ thể là nhiệt độ nước) thay đổi thì nhiệt độ cơ thể tôm sẽ thay đổi theo, vì thế nếu tôm đang yếu kết hợp với thời tiết bất lợi thì đó là lúc tôm dễ bị phát bệnh nhất, do đó trong giai đoạn này bà con nên tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng cách trộn vào khẩu phần thức ăn của tôm các nhóm Vitamin, đặc biệt là Vitamin C rất cần trong giai đọan này.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Những Việc Cần Làm Khi Nuôi Tôm Vào Mùa Mưa

Các yếu tố ở môi trường ao nuôi dễ thay đổi đột ngột mỗi khi vào mùa mưa khiến tôm dễ bị sốc và phát sinh dịch bệnh. Vì vậy, người nuôi cần xử lý và có biện pháp chăm sóc phù hợp cho tôm ở thời điểm này.

Quản Lý Thức Ăn

Người nuôi cần chú ý khi trời mưa cần phải giảm lượng thức ăn cho tôm.

Nên tránh lượng thức ăn dư thừa trong ao bởi thức ăn thừa sẽ khiến pH nước ao giao động mạnh và thường gây ra hiện tượng tôm đóng rong, lục tảo phát triển mạnh.

Mật Độ Thả Thích Hợp

Trong mùa  mưa việc nuôi thả tôm cần tránh mật độ dày, nên thả với mật độ vừa phải (<25 con/ m2), vì:

  • Mùa mưa hàm lượng oxy hòa tan trong nước thấp.
  • Các yếu tố môi trường dễ biến động ( độ pH, độ kiềm, độ mặn…)

 Ao Nuôi

– Người nuôi tôm có thể nuôi thay đổi ao sau từng vụ.

– Cần cung cấp nước đầy đủ khi cần thiết.

– Việc xử lý và lắng nước cần thực hiện theo đúng quy trình.

Tăng Cường Hệ Thống Quạt Nước, Oxy Đáy Ao

–  Các chuyên gia thủy sản cho rằng cứ 1 cánh quạt cung cấp đầy đủ oxy cho 2.800 con tôm từ lúc mới thả đến khi thu hoạch.

– Người nuôi cần lắp cánh quạt theo đúng yêu cầu kỹ thuật:

+ Để mùn bã hữu cơ được gom vào giữa thì khi vận hành quạt nước phải được xoáy vào giữa ao.

+ Vận tốc của guồng quạt phải đạt từ 80-85 vòng/ phút.

+ Cách thử: Có thể đổ xuống ao từ 5-10 kg saponin, sau đó cho quạt chạy, nếu bọt nước tập trung ở giữa ao là lắp quạt đúng.

– Tăng cường hệ thống oxy đáy ao nếu có thể.

– Người nuôi cần làm hệ thống lưới đáy ao giúp hạn chế phù sa và tăng thêm diện tích cho tôm ở.

Tăng Cường Bón Vôi Trong Ao Nuôi

Trong ao nuôi pH luôn phải đạt từ 7,5-8,5, sau khi mưa một lượng a-xít trong nước mưa sẽ làm pH giảm xuống và có thể gây sốc cho tôm, do đó:

– Để giúp tôm không bị sốc sau khi mưa cần bón vôi bổ sung cho ao nuôi (tùy theo độ pH để bón).

– Để tránh hiện tượng phân tầng nước, người nuôi cần chú ý kết hợp quạt nước.

– Trước khi có dấu hiệu của những cơn mưa cần rải vôi dọc bờ ao.

 Giải Quyết Nước Đục Trong Ao

– Nước trong ao đục chủ yếu do hạt sét gây nên. Tuy không gây ảnh hưởng trực tiếp cho tôm nhưng gây ra một số ảnh hưởng sau:

+ Làm tảo không quang hợp được dẫn đến thiếu oxy trong ao, hàm lượng CO2 quá cao làm tôm ngạt thở.

+ Tôm hay bị sưng hoặc vàng mang do phù sa bám vào.

– Để khắc phục hiện tượng nước đục sau khi mưa, có thể sử dụng 1 trong những cách sau đây để giải quyết cho ao 5.000m3 nước:

+ Dùng 125kg rơm khô thả dọc bờ ao và kết hợp 10 kg BLUEMIX. Rơm được bó thành từng bó khoảng 3-5 kg thả xuống ao, khi thấy nước tiết ra có màu đỏ thì vớt lên và lặp lại 2-3 lần.

+ Dùng 150 kg thạch cao, nếu sau 2 lần đánh mà nước vẫn chưa trong thì nên tăng nồng độ ở lần thứ 3. Chú ý trước khi sử dụng thạch cao phải nâng độ kiềm của ao lên 100 ppm rồi mới sử dụng.

Sau khi sử dụng 1 trong 2 phương pháp trên mà không có hiệu quả thì chúng ta sử dụng phương pháp sau:

+ Dùng sun-phát nhôm Al2(SO4)3.14 H2O với liều lượng 50 kg. Khi sử dụng phương pháp này chú ý phải tăng pH và độ kiềm của ao .Đây là biện pháp cuối cùng, chỉ sử dụng khi không còn làm được cách khác vì rất nguy hiểm.

Khi nước đã giảm đục cần phải gây màu nước bằng cách dùng BLUEMIX với liều lượng 2-3 kg/1.000m3 nước.

 Thường Xuyên Kiểm Tra Hoạt Động Của Tôm Và Môi Trường Nước Sau Mưa

– Người nuôi cần kiểm tôm nuôi (các đặc điểm hình dáng bên ngoài, màu sắc, phản xạ, kiểm tra đường ruột của tôm, thức ăn trong nhá…)

– Kiểm tra các yếu tố môi trường ao như:  pH, độ kiềm, độ đục, độ mặn.

Khánh Hòa: 100 ao nuôi tôm 90 ao trúng đậm, nhiều hộ lãi tiền tỷ

Năm nay thời tiết thuận lợi, tôm thẻ chân trắng thả nuôi trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ít xảy ra dịch bệnh, vì thế nhiều nơi bà con thu hoạch có lãi khá. Đặc biệt là do bà con có nhiều năm kinh nghiệm nuôi tôm nên tỷ lệ ao tôm trúng đậm rất cao.
Chúng tôi có mặt tại các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Ninh Phú và phường Ninh Giang (TX Ninh Hòa) khi người nuôi đang thu hoạch vụ thứ 2. Niềm vui thể hiện rõ trên khuôn mặt rám nắng của họ khi 2 vụ liên tiếp có lãi.

Ông Nguyễn Phú, một người nuôi tôm ở khu vực thôn Tiên Du 1, xã Ninh Phú phấn khởi chia sẻ, năm nay hầu hết người nuôi tôm ở đây đều có lãi, trong vụ 1 nuôi 100 ao thì có trên 90 ao bội thu. Tuy nhiên mức lãi nuôi tôm trong ao đất không cao. Người lãi nhiều trên trăm triệu đồng, lãi ít vài chục triệu. Nguyên nhân do người nuôi không dám thả dày kết hợp nuôi cua.

Vụ tôm 2017, nhiều người nuôi ở Khánh Hòa có lãi.

“Với diện tích gần 1ha, tôi chỉ thả khoảng 10 vạn giống/2 vụ, với giá đầu tư 920.000 đồng/vạn con giống, sau khi thu hoạch trừ chi phí còn lãi hơn 50 triệu đồng”, ông Phú chia sẻ.

Ông Nguyễn Phú cho biết qua 2 vụ nuôi tôm hầu hết người nuôi có lãi

Nuôi tôm trong ao đất có mức lãi khiêm tốn, nhưng nuôi ao trải bạt năm nay cho lãi hàng tỷ đồng. Tiêu biểu là hộ anh Lê Minh Chính áp dụng nuôi tôm theo công nghệ biofloc ở khu vực thôn Hang Dơi. Gặp chúng tôi, anh Chính cho biết, vụ 1 gia đình thả 1 triệu giống trong 6.600m2, sau hơn 2 tháng nuôi thu 19 tấn, với kích cỡ tôm đạt từ 40 – 60 con/kg, bán với giá 140.000 đ/kg.

Anh Chính áp dụng nuôi theo công nghệ biofloc.

Còn vụ thứ 2, anh thả 1,5 triệu giống trong 9.600m2, sau 2 tháng nuôi, tôm đạt 70 – 80 con/kg, sản lượng trên 25 tấn, bán với giá 112.000 đ/kg.

Ông Phan Thanh Sinh, Phó Chủ tịch xã Ninh Phú cho biết, toàn xã có khoảng 170ha nuôi tôm, trong đó 4ha nuôi trải bạt. Năm nay ở 2 vụ nuôi bà con đều thả 100% diện tích. Vụ đầu tiên hầu hết người nuôi có lãi, còn vụ thứ 2 đã thu hoạch hơn 50%, trong đó khoảng 15% diện tích có lãi, số còn lại huề vốn.

Tại vùng nuôi tôm ở phường Ninh Giang, người nuôi đã thu hoạch gần kết thúc. Ông Huỳnh Chiếm Đạt, Phó Chủ tịch phường cho hay, toàn phường có 81ha nuôi tôm, qua 2 vụ chỉ có 7,1ha bị dịch bệnh, giảm nhiều so với mọi năm. Số diện tích còn lại bà con thu hoạch đạt 1,5 tấn/ha. Sản lượng cả 2 vụ ước đạt 110 tấn.

“Đây là vụ tôm được mùa hơn mọi năm trước. Việc người nuôi có lãi có thể do thời tiết thuận lợi và tuân thủ thả giống có nguồn gốc, nuôi mật độ thưa. Thêm vào đó, địa phương cũng phối hợp cơ quan chuyên môn tổ chức nhiều lớp tập huấn nuôi tôm an toàn”, ông Đạt chia sẻ.

Tại vùng nuôi tôm trên bạt ở xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh, người nuôi tôm cũng vui mừng không kém vì thu hoạch trúng đậm. Ông Ngô Chín, một người nuôi tôm ở đây cho biết, 2 vụ thả nuôi diễn ra suôn sẻ, rất nhiều hộ lãi tiền tỷ. Gia đình ông có ao nuôi 3.000m2, mỗi vụ thả từ 60 – 80 vạn tôm giống. Sau khi thu hoạch bán sản phẩm, trừ chi phí còn lãi hơn 1 tỷ đồng.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.