Một số nguyên nhân bò không động dục

Thông thường, bò sau khi đã được phối giống, nếu đậu thai thì không động dục (lên giống) nữa, nếu không đậu thai thì bò sẽ lên giống trở lại sau 21 ngày. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có trường hợp, sau khi đẻ, bò có biểu hiện động dục và đã được phối giống, nhưng không đậu thai mà vẫn không lên giống trở lại hoặc sau khi đẻ, bò không lên giống trở lại.

Bò không lên giống trở lại, có rất nhiều nguyên nhân: Có thể những bò này không động dục hoặc động dục thầm lặng (phải đặc biệt chú ý hoặc dùng một số biện pháp hỗ trợ thì mới có thể phát hiện được). Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do:

– Nuôi dưỡng kém

– Thành phần và giá trị dinh dưỡng của thức ăn trong khẩu phần thiếu hoặc mất cân đối, dẫn đến tình trạng bò gầy yếu;

– Bò có các bệnh liên quan đến buồng trứng, tử cung như buồng trứng kém phát triển, u nang buồng trứng, viêm tử cung với thể vàng tồn lưu…

Dẫn đến thiếu hoặc rối loạn điều tiết hormone sinh dục; chăm sóc, nuôi dưỡng kém và quản lý hệ thống chăn nuôi không tốt, bò cái ít được vận động, không tiếp xúc với những bò cái trưởng thành hoặc bò đực; cũng có thể do bò sữa đẻ lứa đầu, có sản lượng sữa lớn hoặc ở những bò cái mà bê con trực tiếp bú vú mẹ và theo mẹ…

Để khắc phục tình trạng bò không lên giống, trước hết phải xem xét bò không động dục thực sự hay động dục thầm lặng. Nếu đã theo dõi hoặc thậm chí đã dùng bò đực thí tình mà vẫn không phát hiện được động dục thì chứng tỏ bò không động dục thật sự. Sau đó xác định nguyên nhân (thông qua hệ thống sổ sách theo dõi, hỏi người chăn nuôi, sờ khám qua trực tràng…) mà áp dụng biện pháp khắc phục thích hợp: Nếu bò mới đẻ lứa đầu mà năng suất sữa cao thì phải chờ đợi thêm.

Nếu có bê con trực tiếp bú vú mẹ và theo mẹ thì phải tách ra. Nếu do chăm sóc, nuôi dưỡng kém, bò gầy yếu thì phải tăng khẩu phần giàu hàm lượng các chất đạm, đường, sinh tố, khoáng và khoáng vi lượng… kết hợp chăn thả trên bãi để bò có điều kiện vận động, tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Nếu bò bị viêm tử cung với thể vàng tồn lưu thì biện pháp điều trị tốt nhất là tiêm prostaglandin F2 hoặc các chất tương tự (2ml chế phẩm estrumate) để làm tiêu biến thể vàng, giảm hàm lượng progesteron và tăng hàm lượng estrogen trong máu để kích thích bò động dục…

Trường hợp, con bò nhà bạn sau khi phối giống được vài 3 tháng, cứ khoảng 7 – 10 ngày dịch nhờn chảy ra giống như khi động dục, phối không đậu thai. Rất có thể, đó là biểu hiện của bệnh u nang buồng trứng ở bò, các nang trứng phát triển nhưng không vỡ nang để giải phóng tế bào trứng được nên bị chai. Vì thế, kích tố oestrogen luôn được tiết ra và duy trì một hàm lượng cao trong máu, dẫn đến rối loạn chu kỳ sinh dục.

Khám qua trực tràng phát hiện thấy buồng trứng có chai noãn. Bệnh có thể xảy ra ở bò tơ hoặc bò rạ, thường gặp trên những bò có năng suất sữa cao với những triệu chứng như mô tả ở trên. Điều trị theo chỉ dẫn của cán bộ thú y.

Nguồn: Nhanong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp dự đoán ngày sinh của bò

Bò mang thai 280 ngày (hơn 9 tháng), vì vậy việc biết ngày sinh của bò là rất quan trọng. Để dự tính ngày sinh của bò, phải tính từ ngày phối giống cộng thêm 280 ngày.

1. Cách tính ngày

Lấy ngày phối giống bò cộng với 5 hay 7 ngày (có thể vào tháng 2 có 28 ngày) và lấy tháng phối giống cộng với 9, sẽ có ngày sinh dự kiến. Ví dụ:

+ Bò phối giống lần cuối vào 10-2-2015, cách tính sẽ là ngày 10 + ngày 7 = ngày 17; tháng 2 + tháng 9 = 11 tháng, vậy là ngày sinh dự kiến vào ngày 17-11-2015.

+ Bò phối giống 7-3-2015, sẽ là: ngày 7 + ngày 5 = ngày 12; tháng 3 + tháng 9 = 12 tháng, vậy ngày sinh dự kiến vào ngày 12-12-2015.

+ Bò cũng có thể sinh sớm hơn hay muộn hơn nên cần theo dõi biểu hiện của bò mẹ trước ngày sinh dự kiến là 7-10 ngày.

2. Biểu hiện khi sắp sinh

7-10 ngày trước khi sinh, bầu vú bò mẹ từ từ căng lên, núm vú căng chứa đầy sữa là bò sắp đẻ. Chú ý theo dõi đề phòng viêm vú trước khi sinh.

1-3 ngày trước khi sinh, âm hộ chảy ra nhiều dịch nhờn đặc màu trắng. Khi dịch nhờn loãng dần là bò sắp đẻ. Hiện tượng sụp mông thấy rõ ở hai bên gốc đuôi, đuôi lệch sang một bên và ít cử động. Bò có biểu hiện bồn chồn, hay đứng lên nằm xuống, đi tiêu, tiểu nhiều lần…

3. Khi gia súc đẻ khó thì có biểu hiện gì? Cách phòng trị?

a. Nguyên nhân

– Bò mẹ ít vận động, thức ăn ít chất xơ nên bị suy yếu.

– Do hẹp khung chậu.

– Do hẹp âm đạo, có u bướu ở âm đạo hoặc tử cung vặn cổ tử cung.

– Do tư thế thai không bình thường.

b. Điều trị

– Tiêm Oxytocin 50 – 100UI để kích thích tử cung co bóp.

– Dùng dây mềm buộc hai chân trước của thai, kéo mạnh theo nhịp rặn của bò mẹ để lôi thai ra.

– Dùng ngón tay cái cho vào mồm thai, ngón trỏ kẹp chặt hàm dưới kéo thai ra.

– Dùng dây buộc từ sau đầu tới hàm dưới kéo thai ra.

– Bơm dầu parafin lỏng 200 – 400ml làm trơn tử cung âm đạo.

– Nếu đã làm hết cách mà thai không ra thì phải mổ bụng lấy thai.

Trường hợp vặn cổ tử cung:

– Dùng mỏ vịt kiểm tra qua trực tràng. Nếu xoắn ít thì dùng tay lật xoay tử cung theo chiều ngược lại.

– Trường hợp do tư thế thai không bình thường:

– Gâv tê tủy sống ở khấu đuôi 1 – 2 bằng 20 – 40ml Novocain 3%.

– Sau đó dùng tay đẩy thai vào trong xoang bụng rộng rãi để sữa lại về tư thế bình thường: đầu và 2 chân trước ra trước, hoặc mông và 2 chân sau ra trước, sau đó kéo thai ra.

Mổ bụng lấy thai

Nếu thai chết trong bụng thì dùng móc sản khoa móc vào mắt hoặc vào hốc mũi để lôi thai ra. Trường hợp thai chết quá to thì phải cắt thai ra từng mảnh để lấy ra.

Sau khi bò đẻ nhất là đẻ khó cần phải rửa sạch âm hộ, âm đạo, tử cung bằng thuốc sát trùng như nước muối, thuốc tím 1%, Rivanol 1%, Lugol 2%. Bơm rửa 3-4 lần/ngày trong 3-5 ngày. Nếu có biểu hiện viêm phải thụt rửa bằng thuốc kháng sinh hoặc tiêm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Thức ăn dành cho bò sữa

Bò sữa là loại động vật nhai lại, có dạ dày bốn túi, có khả năng tiêu hoá và sử dụng nhiều loại thức ăn. Nhìn chung, thức ăn dùng nuôi bò sữa đều rẻ tiền, dễ kiếm, đa dạng hơn so với thức ăn nuôi lợn và gia cầm.

1. Các loại thức ăn cho bò sữa

Được chia thành 3 nhóm chính là thức ăn thô, thức ăn tinh và thức ăn bổ sung.

Thức ăn thô, bao gồm một số nhóm: thức ăn xanh (cỏ tự nhiên, cỏ trồng, ngọn mía, vỏ đọt dứa,…), thức ăn ủ chua (được tạo ra thông qua ủ chua thức ăn xanh), cỏ khô và rơm lúa, thức ăn củ quả (khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu bí,…), phế phụ phẩm công nghiệp chế biến (bã đậu nành, bã bia, bã sắn, rỉ mật đường,…)

Thức ăn tinh, gồm các loại hạt ngũ cốc và bột từ hạt ngũ cốc (như ngô, sắn, mì, gạo, cám gạo…), bột và khô dầu đậu tương, lạc…; các loại hạt cây họ đậu và thức ăn tinh hỗn hợp được sản xuất công nghiệp.

Thức ăn bổ sung (urê và hỗn hợp khoáng – vitamin,…).

2. Với một số loại thức ăn dùng nuôi bò sữa, việc sử dụng phải theo kỹ thuật (không thể tuỳ tiện)

Với thức ăn ủ chua: chỉ cho bò sữa ăn sau khi vắt sữa để tránh cho sữa nhiễm mùi cỏ ủ.

Bã bia: mỗi bò không cho ăn quá 15kg mỗi ngày, cho ăn nhiều bã bia, sẽ làm giảm tỷ lệ tiêu hoá chất xơ, các chất chứa nitơ và làm giảm chất lượng sữa.

Rỉ mật đường: Cho mỗi con chỉ ăn 1- 2kg mỗi ngày vì rỉ mật đường nhuận tràng, bò ăn nhiều bị ỉa chảy.

Vỏ và đọt dứa: không sử dụng thay thế hoàn toàn cỏ, mỗi con chỉ cho ăn 10 – 15kg mỗi ngày, chia làm nhiều bữa, vì trong vỏ dứa có men bromelin, bò ăn nhiều bị rát lưỡi.

Bã đậu nành sống: sử dụng chung với các loại thức ăn có chứa urê thì phải chia nhỏ lượng bã đậu nành ra, vì trong bã đậu nành có men phân giải urê. Sử dụng cùng lúc hai loại thức ăn này và với số lượng lớn, urê sẽ bị phân giải nhanh, dễ gây ngộ độc cho bò sữa.

3. Việc thay thế các loại thức ăn dùng cho bò sữa

Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho bò sữa thay đổi rất lớn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn thu hoạch, thời gian và quá trình bảo quản, công nghệ chế biến… Trong thực tế, không chỉ sử dụng một số loại thức ăn nhất định mà phải thay đổi, và phải cho thay thế nhau. Về cơ bản, như sau:

1kg thức ăn tinh = 4,5kg bã bia

1kg cám gạo = 0,9kg cám mì

1kg bột sắn = 1kg rỉ mật đường

35kg cỏ tự nhiên = 35kg cây ngô ủ chua hoặc 35kg cây ngô xanh ngay sau khi thu hạt

35kg cỏ tự nhiên: 25 kg cỏ tự nhiên + 2kg rơm lúa

35kg cỏ tự nhiên: 35kg cây ngô tỉa non + 1,5kg rỉ mật đường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Bệnh nội ký sinh trùng trên bò

Trâu bò dễ bị những bệnh ký sinh trùng và nguy cơ nhiễm càng cao khi trâu, bò ăn cỏ cắt từ ngoài đồng ruộng hoặc những nơi ngập nước. Trâu, bò mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm các ký sinh trùng này. Tỷ lệ nhiễm ở Việt Nam khá cao: sán lá gan 13,7 – 50,2%; sán lá dạ cỏ hơn 70%.

Trâu, bò bị nhiễm những ký sinh trùng này sẽ bị thiếu máu, từ đó giảm sản lượng sữa (0,7 kg sữa/con/ngày), giảm tăng trọng (đối với bò tơ và bò thịt), dễ mắc các bệnh khác và giảm năng suất sinh sản (chậm lên giống lại sau khi sinh và chậm đậu thai).

Triệu chứng:

Trâu, bò bị nhiễm thường ít có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng rõ ràng. Triệu chứng chung và dễ nhận biết nhất là thiếu máu nên niêm mạc mắt, miệng và âm hộ nhợt nhạt. Ngoài ra, bò thường gầy ốm, suy nhược, giảm ăn và có thể có tiêu chảy hoặc không. Đối với bò bị nhiễm sán lá gan còn có thêm triệu chứng lông xù, rất dễ nhổ và dễ rụng.

Điều trị:

Tùy thuộc loại thú (bò thịt hay sữa), quy mô đàn và cách chăn nuôi, bà con có thể chọn một trong các loại thuốc ở bảng bên để trị nội ký sinh trùng.

Phòng bệnh:

Sử dụng một trong các loại thuốc sau để phòng: BIO-ALBEN (phòng giun tròn, sán dây và liều cao phòng cả sán lá gan), BIOXINIL (phòng sán lá và một số giun tròn) và BIO-FENBENDAZOL (phòng giun tròn và sán dây). Liều lượng, loại thú, thời gian ngưng thuốc đối với thịt và sữa giống như phần điều trị. Đối với bò lớn 6 tháng xổ 1 lần, bò tơ và bê khoảng 4 tháng xổ 1 lần.

BIO-FENBENDAZOL là thuốc bột trộn thức ăn, vì thế phù hợp cho đàn bò thịt hoặc bò sữa quy mô lớn nuôi thả rong trong chuồng. Liều dùng: 1 g thuốc/5 kg thể trọng.

Nguồn: Nhanong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phòng chống giá rét cho trâu, bò

Mùa đông đang đến, nhiệt độ xuống thấp ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe trâu, bò. Để phòng, tránh tác hại do thời tiết gây ra, Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã đưa ra những hướng dẫn, biện pháp chống rét cho trâu, bò.

Về chuẩn bị chuồng trại, Viện chăn nuôi khuyến cáo, nếu có điều kiện bà con nên tiến hành xây mới hoặc tận dụng chuồng cũ nhưng phải che chắn, nâng cấp. Chuồng nên ở nơi cao ráo, gần nguồn nước, nằm trong quy hoạch vùng. Cửa chuồng hướng về phía nam hoặc tây nam để bảo đảm ánh sáng và độ thông thoáng. Mái chuồng cao 3m, thành chuồng cao từ 0,8 – 1,2m.

Bà con chú ý trong chuồng, nên có ô thoáng phía trên để gió vẫn lưu thông. Khi đốt lửa sưởi, khói sẽ theo lỗ thoáng ra ngoài, không tích khí độc trong chuồng khiến trâu, bò ngửi phải. Nền chuồng cao hơn mặt đất 40 – 50cm, có độ dốc 2 – 3%.

Cùng với đó, bà con cũng cần chủ động dự phòng nguồn thức ăn cho trâu bò, chỉ khi cung cấp thức ăn đầy đủ thì trâu, bò mới có đủ năng lượng chống lại giá rét. Khối lượng thức ăn cần thiết để dự trữ đối với một con trâu, bò trưởng thành (có khối lượng khoảng ba tạ), cần chuẩn bị trung bình: 2,5 tạ thức ăn tinh (ngô, bột cám, bột sắn..) và bốn tạ thức ăn thô (rơm, cỏ voi, cây chuối, cây sắn, thức ăn ủ chua…).

Vào những ngày bình thường, bà con cho trâu, bò trưởng thành ăn khoảng 25 – 30kg thức ăn thô và 1,5kg thức ăn tinh, chia làm hai bữa. Nếu vào ngày rét đậm, rét hại thì bà con có cần điều chỉnh tăng lượng thức tinh lên khoảng 2kg để bổ sung năng lượng giúp trâu, bò chống lại giá rét. Chú ý cho trâu, bò ăn thức ăn thô trước rồi mới cho ăn thức ăn tinh, uống nước vì nếu cho ăn thức ăn tinh hay uống nước trước thì trâu, bò sẽ có cảm giác no, sử dụng lượng thức ăn thô ít đi.

Ngoài ra, để tăng sức đề kháng cho trâu, bò, bà con cần chú ý bổ sung vitamin tổng hợp và muối khoáng. Vitamin: Bà con dùng vitamin tùy theo hướng dẫn từng loại. Pha nước muối: Pha nước ấm 37 – 38 độ C với muối, nồng độ 0,1 – 0,3% tương đương 10 – 30g muối/10 lít nước. Cảm nhận mặn như nước canh là vừa.

Bà con cũng cần chuẩn bị rơm, cỏ, lá chuối, bẹ ngô khô để lót nền chuồng; trấu, củi để đốt sưởi; bạt, bao ni lông, phên, nứa để quây, che chung quanh chuồng và chăn, áo, bao tải gai để làm áo chống rét. Có thể sử dụng các tấm chăn, áo, bao tải gai đã cũ để làm áo chống trét cho trâu bò nhưng chú ý là nên sử dụng chất liệu bông, thấm nước. Không dùng chất liệu ni lông vì chất liệu này không thấm nước, hơi nước sẽ đọng lại và thấm ngược trở lại làm trâu bò bị rét. Bà con cần chú ý, giữ cho bộ lông của trâu bò thật sạch và khô. Nếu bộ lông ướt sẽ giảm cách nhiệt và làm cho trâu, bò bị rét hơn.

Đối với việc độn chuồng, tùy vào điều kiện thực tế mà có thể rải một lớp độn chuồng dày khoảng 5 – 15cm. Các chất độn chuồng này có thể để suốt mùa đông mà không cần phải dọn. Chú ý, hàng ngày bổ sung thêm chất độn chuồng ở phía trên, miễn làm sao cho chất độn chuồng không bị ướt, ẩm.

Khi che chuồng trâu, bò bà con nên che chắn bằng bạt hoặc các tấm phên, các bao tải đan. Tuy nhiên, không nên che kín, chỉ che qua chiều cao của con vật, khoảng từ 1,8 – 2m. Khi nhiệt độ xuống dưới 12 độ thì cần áp dụng phương pháp đốt lửa chống rét. Dùng xô, chậu cũ để đựng củi trấu, ngóm củi bén ở ngoài chuồng cho bớt khói rồi mới đưa vào trong chuồng. Khi đốt lửa chống rét thì bà con cần chú ý nhất tới vị trí đặt. Cần đặt khay lửa ở cuối chuồng để khói không tạt vào mặt trâu bò và đặt tránh xa chất độn chuồng, bạt che để phòng bén lửa gây cháy.

Việc bảo đảm vệ sinh chuồng trại sạch sẽ có vai trò rất quan trọng giúp hạn chế mầm bệnh cho trâu, bò. Bà con cần thường xuyên quét dọn vệ sinh chuồng trại; định kỳ phun thuốc khử trùng từ 2 – 3 tuần một lần để tăng cường việc vệ sinh tiêu độc khử trùng. Có thể sử dụng một số loại thuốc sát trùng như Virkon, HanIotdin, Farm Fluid… Khi sử dụng bà con chú ý tuân theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất.

Sơ tán trâu đến vùng thấp để tránh rét

Bà con cần thường xuyên theo dõi bản tin dự báo thời tiết để có kế hoạch phòng, chống rét cho trâu, bò đạt hiệu quả cao. Tốt nhất những ngày gió rét dưới 15 độ C thì nên giữ gia súc ở tại chuồng, không nên cho đi chăn thả. Trường hợp đặc biệt nếu bắt buộc phải đưa gia súc ra ngoài cần bảo đảm những yêu cầu sau: Thời gian tốt nhất để đưa gia súc ra ngoài là khoảng sau 8 giờ sáng, khi thời tiết không có mưa phùn, gió lạnh. Gia súc cần được giữ ấm bằng cách mặc áo ấm trước khi đưa chúng ra ngoài đặc biệt những gia súc yếu và còn non.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Can thiệp đẻ khó trên bò

Trong quá trình đẻ nếu thai khó ra thì gọi là đẻ khó. Khi đẻ khó mà xử lý không đúng thì có thể gây bệnh ở đường sinh dục và làm cho bò mẹ trở nên vô sinh, thậm chí làm chết cả mẹ lẫn con. Vì vậy tích cực đề phòng và kịp thời can thiệp khi đẻ khó là một khâu rất quan trọng.

Để can thiệp kịp thời, cần chẩn đoán chính xác, từ đó mới quyết định phương pháp thích hợp. Trước khi kiểm tra phải nắm toàn bộ quá trình bệnh tật, tình hình lúc mang thai, điều trị của con bò, kiểm tra toàn thân, đường sinh dục bò mẹ và tình hình thai không bình thường để có biện pháp can thiệp kịp thời.

Nguyên nhân

Do cơ năng tuyến sinh dục sản sinh kích thích tố hoạt động quá mạnh, thời gian mang thai kéo dài, thai quá to hay cấu tạo đường sinh dục bò mẹ hẹp, sức rặn yếu, thai yếu, thai không đúng vị trí.

Một số trường hợp và biện pháp can thiệp

+ Rặn đẻ yếu, cổ tử cung đã mở, sức rặn đẻ của bò mẹ yếu nên không thể tống thai ra ngoài được. Có thể hỗ trợ bò mẹ kéo thai ra khi con vật rặn đẻ.

+ Kích thước giữa thai và đường sinh dục không phù hợp. Thai bình thường nhưng đường sinh sản bị hẹp: bao gồm hẹp xương chậu, cổ tử cung hẹp, hẹp âm đạo và âm hộ, có khối u ở đường sinh sản hoặc  thai quá to. Bò mẹ rặn nhiều lần nhưng thai không ra được. Phương pháp chủ yếu là dùng sức để lôi ra. Thụt vào đường sinh sản 1 chất nhờn hoặc nước xà phòng ấm, sau đó dùng dây thừng hỗ trợ kéo thai ra. Nếu phần đầu ra trước ngoài việc buộc dây thừng vào 2 chân trước, người đỡ chính cần phải cho ngón tay cái vào miệng thai, qua đường mép dùng ngón tay trỏ kẹp chặt lấy hàm dưới để cùng lôi đầu ra. Nếu thai ra bằng phần sau, buộc dây thừng vào 2 chân sau kéo ra. Nếu không lôi ra được thì phải quyết định cắt thai hoặc mổ bụng lấy thai.

+ Thai sinh đôi: Nếu có một tư thế thai bình thường và một tư thế thai không bình thường, xoay thai lại vị trí bình thường. Nếu 2 thai cùng lọt vào cửa xương chậu một lúc với độ sâu khác nhau nên bị kẹt và gây ra khó đẻ. Cần xác định phân biệt rõ từng thai (đẻ sinh đôi thông thường thì một thai đầu ra trước, một thai hai chân sau ra trước, nên khi kiểm tra sẽ có 1 đầu và 4 chân), đẩy lùi một thai ra khỏi xương chậu, sau đó lôi từng thai ra.

+ Tư thể của thai không bình thường: Phía đầu ra trước: đầu cổ ngoẹo về một bên, đầu gập xuống dưới, đầu ngửa ra sau, đầu gối ra trước, vai ra trước. Phía sau ra trước: khoeo ra trước, mông ra trước. Cần đưa thai về vị trí bình thường, có thể hỗ trợ hoặc không hỗ trợ kéo thai ra.

+ Vị trí thai không bình thường: Đầu ra trước, thai nằm nghiêng; đuôi ra trước thai nằm ngửa hoặc nghiêng. Cần đưa thai về vị trí bình thường sau đó kéo nhẹ thai ra theo cơn rặn của bò mẹ

+ Hướng thai không bình thường: Bụng ra trước, thai thẳng đứng, lưng ra trước; thai nằm ngang, bụng ra trước. Đưa thai về tư thế bình thường và kéo thai ra.

Những vấn đề cần chú ý

+ Can thiệp sớm và kịp thời khi đẻ khó là rất quan trọng. Nếu can thiệp chậm để thai lọt vào hố chậu, thành tử cung bọc chặt lấy thai, nước thai chảy hết, đường sinh dục đã thủy thủng thì dễ gây trở ngại cho việc đẩy thai vào, xoay thai và kéo thai ra.

+ Người đỡ đẻ chính phải bình tĩnh, khéo léo và kiên nhẫn vì thao tác phải chính xác. Người đỡ đẻ nên có sẵn người giúp việc để thay khi mệt và hỗ trợ trong quá trình đỡ đẻ.

+ Trong khi đẩy lùi thai, xoay nắn và lôi thai ra, nếu nước thai đã thoát hết, đường sinh dục bị khô thì phải thụt vào âm dạo và tử cung vài lít nước xà phòng ấm đã tiệt trùng để bôi trơn đường sinh dục.

+ Bất cứ bộ phận nào của thai ở tư thế không bình thường đều phải xoay nắn lại cho đúng vị trí trước khi lôi thai ra. Xoay thai, lôi thai ra theo cơn rặn của bò mẹ.

+ Ưu tiên việc cứu cả mẹ và thai, nếu các biện pháp xoay thai và kéo thai không hiệu quả, thì tùy vào thai còn sống hay đã chết, cắt thai và mổ bụng lấy thai là biện pháp cuối cùng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Một số lưu ý khi nuôi bò thịt

1. Giống

Giống là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Giống khác nhau thì tốc độ sinh trưởng, phát triển, tích lũy thịt, mỡ khác nhau: Con lai của bò Charolaise có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn con lai của bò Hereford và ngược lại, tổ chức mỡ của thịt bò Charolaise thấp hơn thịt bò Hereford. Bò vàng Việt Nam có tỷ lệ thịt xẻ là 42%, tỷ lệ thịt tinh là 31%, trong khi đó bò thịt Charolaise có tỷ lệ thịt xẻ 60%, tỷ lệ thịt tinh là 45%.

Vì vậy, khi chọn bò làm giống, cần chọn những con giống có chất lượng tốt nhất.

2. Tuổi

Trong quy trình vỗ béo và giết mổ, hiện nay người ta thường nuôi bò từ 16 – 24 tháng tuổi với quy trình công nghệ cao để giết mổ.

Tuổi giết mổ khác nhau thì chất lượng thịt cũng khác nhau: Bê và bò tơ cho thịt màu nhạt, ít mỡ, thịt mềm và thơm ngon hơn. Bò lớn tuổi cho thịt màu đỏ, đậm, nhiều mỡ, thịt dai hơn và tất nhiên là không thơm ngon bằng thịt bê tơ. Tỷ lệ các cơ quan nội tạng sẽ giảm theo tuổi và ngược lại độ béo sẽ tăng dần lên.

3. Giới tính

Thường thì bò cái thớ thịt nhỏ hơn bò đực, mô giữa các cơ ít hơn, thịt vị đậm hơn, vỗ béo nhanh hơn. Ngược lại bò đực có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn bò cái cùng độ tuổi vì bò cái có cơ quan sinh dục phát triển hơn bò đực. Trong quy trình vỗ béo người ta có thể thiến bò đực lúc 7 – 12 tháng tuổi để vỗ béo, nếu bò thiến sớm để vỗ béo thì thịt bò sẽ mềm hơn và béo nhanh hơn.

4. Khối lượng lúc giết mổ

Khối lượng bò đưa vào giết mổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : Giống, khả năng tăng trọng, thời điểm tích lũy nạc lớn nhất, chế độ nuôi dưỡng, hệ số tiêu tốn thức ăn, thị trường và giá cả…

5. Dinh dưỡng và phương thức vỗ béo

Kỹ thuật chăn nuôi thâm canh bò thịt hiện nay là chọn lọc những bê khỏe mạnh của các giống cao sản chuyên thịt, đưa vào nuôi dưỡng với chế độ thâm canh cao để đạt được khối lượng giết mổ cao nhất ở giai đoạn bê sinh trưởng với cường độ cao nhất ( dưới 24 tháng tuổi ). Các khẩu phần ăn khác nhau sẽ cho tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh khác nhau khi giết mổ.

Dù vỗ béo theo phương thức nào, vỗ béo sớm hay vỗ béo muộn, đối với bò thịt trước khi giết mổ bắt buộc phải có công đoạn vỗ béo. Vỗ béo là dùng biện pháp dinh dưỡng, chăm sóc nuôi dưỡng làm cho khối lượng con vật tăng nhanh và phẩm chất thịt được cải thiện. Thời gian vỗ béo tùy thuộc vào phương thức vỗ béo, thức ăn, giống, độ béo của bò. Thời gian vỗ béo quá ngắn thì thịt sẽ nhiều nước, thời gian vỗ béo thích hợp thì chất lượng thịt sẽ cao hơn.

Khẩu phần thức ăn vỗ béo cho bò giàu đạm và nhiều sắt thì thịt bò sẽ đỏ đậm, khẩu phần thức ăn có nhiều bột bắp thì mỡ bò sẽ vàng, thịt thơm ngon và khẩu phần thức ăn có tỷ lệ các phụ phẩm công nghiệp thì thịt bò có thớ lớn và nhiều mỡ giắt ( mỡ giữa các lớp thịt ).

6. Điều cần chú ý khi nuôi bò thịt

Nghề nuôi bò còn có một ưu thế quan trọng là sản phẩm cuối cùng là bê và thịt có thị trường tiêu thụ ổn định, giá cả bảo đảm cho người chăn nuôi có lãi. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả đạt được cao nhất, người chăn nuôi cần biết những yếu tố cơ bản sau:

a. Đặc điểm sinh lý

– Với bò đực : Tuổi bắt đầu phối giống từ 24 – 26 tháng tuổi và thời gian sử dụng phối giống tốt nhất là từ 2 – 6 năm tuổi.

– Đối với bò cái : Tuổi thành thục sinh dục 18 – 24 tháng tuổi, chu kỳ động dục trung bình là 21 ngày, thời gian mang thai 9 tháng 10 ngày và thời gian động dục trở lại sau khi sinh con 60 – 70 ngày.

b. Chọn giống

Chọn những con tốt, thân hình vạm vỡ, mình tròn, phía mông và vai phát triển như nhau giống hình trụ. Nên biết rõ nguồn gốc của đời bố mẹ.

Một số giống bò được nuôi phổ biến tại Việt Nam :

– Giống bò nội : Bò vàng Việt Nam (Bosindicus).

Bò vàng Việt Nam

– Giống bò lai ngoại : Con lai Zêbu (nhóm bò Zêbu gồm các giống: Redsindhi, Sahiwal, Brah-man đỏ, Brahman trắng, Ongole).

Bò Brahman trắng

c. Chuồng trại

– Xây dựng nơi cao ráo, thoáng mát và có màng lưới bao xung quanh chuồng để chống ruồi, muỗi và các côn trùng khác xâm nhập (trong chăn nuôi hộ gia đình ).

– Nền cứng, không trơn trượt và có độ dốc để dễ thoát nước.

– Diện tích tối thiểu: 2,5 – 3m2/con bò thịt.

– Máng ăn và máng uống nên làm bằng xi măng đặt theo chiều dài hành lang phân phối thúc ăn.

– Cần có biện pháp xử lý phân để hạn chế ô nhiễm môi trường chung quanh và lây lan cỏ dại.

d. Thức ăn

– Nguồn thức ăn chủ yếu của bò gồm các loại cỏ tươi, rơm rạ, cỏ khô, thức ăn xanh thô và củ, quả…

– Ngoài ra nên sử dụng thức ăn ủ chua hoặc rơm được kiềm hóa và thức ăn tinh chế chủ động trong việc tìm thức ăn cho bò.

– Trong chăn nuôi bò thịt, mỗi gia đình cần dành 500 – 1.000m2 đất để trống các loại cỏ như cỏ voi, cỏ sả, cỏ lông tây, cây bình linh… để lấy thức ăn cho bò.

e. Chăm sóc, nuôi dưỡng, vỗ béo

– Bò cái chửa : Cần cho ăn uống đầy đủ, tránh cày kéo nặng, đặc biệt là ở những tháng chửa cuối cùng. Nhu cầu ăn mỗi ngày là: 25 – 30kg cỏ tươi, 2kg rơm, 1 kg thức ăn tinh và 20 – 30g muối.

– Bò cái nuôi con. Ngoài khẩu phần trên, cần cho thêm các thức ăn củ quả tươi và thức ăn tinh để bò cái tăng khả năng tiết sữa nuôi con.

– Bê con : Tập cho bê con ăn cỏ khô từ tháng thứ 2, cỏ tươi và củ quả từ tháng thứ 4 và cai sữa từ tháng thứ 6. Khi trời nắng ấm nên cho bê con vận động tự do. Nhu cầu ăn mỗi ngày 5 – 10kg cỏ tươi, 0,2 – 0,3kg thức ăn tinh.

– Bê từ 6 – 24 tháng: Trường hợp nuôi chuồng phải thường xuyên cho bò, bê ra sân vận động từ 2-4 giờ/ngày. Nhu cầu ăn một ngày: 10 – 15kg cỏ tươi và cho ăn thêm các thức ăn tận dụng khác như ngọn mía, dây khoai, rơm rạ, cỏ khô, cỏ ủ chua và củ quả thay thế.

– Để có bò thịt đạt khối lượng cuối cùng khi giết thịt từ 250-300kg lúc 24 tháng tuổi cần nuôi vỗ béo bò trong khoảng 80-90 ngày trước khi bán bằng thức ăn tinh 1 kg/con/ ngày.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

3 cách vỗ béo bò nuôi thịt

Vỗ béo bò trước khi giết thịt 3 tháng để bò tăng trọng nhanh trong thời gian ngắn, nâng cao chất lượng thịt, tăng tỷ lệ thịt xẻ cho bò.

Trong giai đoạn vỗ béo mức tăng trọng tuy có chậm nhưng chiều cao, dài thân mình đã đạt được gần bằng khoảng 60 – 70% các chỉ tiêu tương ứng của bê trưởng thành. Các cơ bắp phát triển mạnh, cơ quan nội tạng dần dần được hoàn thiện về cấu tạo, riêng bộ máy tiêu hóa phát triển hoàn thiện nhất là dạ cỏ, tổ ong, lá sách. Trong giai đoạn này các cơ bắp, mô mỡ, mô liên kết phát triển mạnh nên cần nuôi dưỡng tốt và thức ăn phải giàu năng lượng (thức ăn tinh), giàu glucid (cỏ, rơm..).

Để vỗ béo bò đạt hiệu quả cần phải nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến việc vỗ béo bò như sau:

– Giống: các giống khác nhau có tốc độ sinh trưởng, phát triển, tạo nạc và mỡ khác nhau. Trên bê đực lai hướng sữa thì mức tăng trọng bình quân của bê đạt từ 500 – 600 gam/con/ngày.

– Tuổi: tuổi giết mổ khác nhau sẽ cho chất lượng thịt khác nhau. Cụ thể như:

+ Dưới 1 năm tuổi: sự phát triển của cơ thể chủ yếu là kết quả của sự tích luỹ các mô cơ và xương, còn mỡ và mô liên kết tương đối thấp.
+ Đến 1,5 tuổi: sự tích luỹ mô cơ cao, còn mô xương tương đối thấp.
+ Sau 18 tháng tuổi: tốc độ sinh trưởng của tế bào cơ giảm xuống thấp, hàm lượng nước giảm, sự tích luỹ mỡ tăng lên, kèm theo là hàm lượng calori cũng tăng lên, còn mô liên kết giảm. Thời gian này do sự trao đổi chất thay đổi, làm giảm khả năng tích luỹ nitơ, cường độ hình thành protein giảm thấp và sự sinh trưởng của tế bào bị kìm hãm, đồng thời tốc độ tích lũy mỡ tăng lên. Cụ thể là khi sơ sinh thành phần protein là 18,25%; đến 18 tháng là 17,18%. Trong khi đó, mỡ tăng tương ứng là 3,64% lúc sơ sinh; 26,74% lúc 18 tháng tuổi. Nếu giết thịt lúc 18 tháng tuổi mỡ tích luỹ trong cơ bắp cao hơn mỡ nội tạng. Theo nhiều tác giả, trong điều kiện chăn nuôi ở nước ta, vỗ béo bò ở giai đoạn 22 – 24 tháng tuổi là hiệu quả kinh tế nhất.

– Tính biệt và thiến: ở các cơ sở chăn nuôi bê đực hướng sữa lấy thịt, thường giết thịt vào 15 – 18 tháng tuổi. Nhiều nghiên cứu và thực nghiệm xác nhận rằng, bê đực không thiến đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn bê đực thiến, do vậy chi phí thức ăn tính cho kg tăng trọng thấp hơn so với bê đực thiến. Tuy nhiên, sự tích lũy mỡ trong cơ bắp ở bê đực thiến cao hơn và sớm hơn bê đực không thiến.

Người dân nuôi vỗ bò thịt ở 15 – 18 tháng tuổi, thể trọng bê đực không thiến và bê thiến là 400 – 450 kg.

– Nuôi dưỡng: sức sản xuất thịt của bê phụ thuộc trước hết vào mức độ dinh dưỡng. Mức dinh dưỡng cao sẽ đạt được khối lượng thịt gấp 2 lần so với mức độ dinh dưỡng thấp, thành phần thân thịt ở gia súc nuôi dưỡng kém đạt tỷ lệ xương và dây chằng tương ứng là 25 – 30% thân thịt, năng lượng của thịt giảm 40 – 45%. Thông thường, khẩu phần nhiều thức ăn thô thì tỷ lệ nội tạng cao, tỷ lệ thịt xẻ thấp; ngược lại, khẩu phần nhiều thức ăn tinh thì tỷ lệ thịt xẻ cao, tỷ lệ nội tạng thấp.

– Stress môi trường: nhiệt độ môi trường cao cản trở thải nhiệt từ cơ thể thông qua dẫn nhiệt. Trong môi trường càng nóng ẩm thì việc thải nhiệt thừa càng khó khăn. Do vậy, khi bò bị stress nhiệt sẽ làm hạn chế khả năng thu nhận thức ăn và năng suất giảm.

Trong điều kiện chăn nuôi gia đình, hiện nay có 3 cách vỗ béo bò thường được áp dụng như sau:

(1) Nuôi chăn thả có bổ sung thức ăn tại chuồng:

Bò cần được chăn thả 8 – 10 giờ/ngày ngoài bãi chăn để tận dụng được nhiều cỏ tươi mà không phải tốn công thu cắt cỏ và vận chuyển về chuồng. Sau khi chăn thả, bò được bổ sung thêm một ít thức ăn tinh và muối ăn.

Cách vỗ béo này thường áp dụng ở những nơi có diện tích đồng cỏ lớn và năng suất đồng cỏ tương đối khá mới đảm bảo mỗi ngày bò gặm được từ 20 – 25 kg cỏ. Tuy nhiên, để tăng năng suất đồng cỏ chăn thả thì đồng cỏ phải được cải tạo, diệt trừ cỏ dại, trồng cây bóng mát, giữ ẩm đất bằng cách tưới nước hay đắp đập ngăn nước để cỏ có năng suất cao.

Dành cho đàn bò vỗ béo ở những bãi cỏ gần nguồn nước, gần chuồng để chăn thả được nhiều giờ ngoài bãi. Nếu khoảng cách từ chuồng đến bãi chăn quá 2 km thì phải làm lán trại ngoài đồng cho bò ngủ qua đêm trong suốt thời gian chăn thả.

(2) Nuôi tại chuồng kết hợp với chăn thả:

Hình thức vỗ béo này thường áp dụng ở những hộ có diện tích đồng cỏ giới hạn, bò vừa gặm được một phần cỏ ngoài bãi chăn vừa được cung cấp thêm thức ăn tinh tại chuồng. Lượng thức ăn tinh cần được đảm bảo đầy đủ để tạo điều kiện cho bò chóng béo. Có thể bổ sung thêm phụ phẩm công nông nghiệp làm thức ăn vỗ béo cho bò như:

+ Bã mía, lá và ngọn mía: cho ăn tươi hoặc ủ chua, 2 – 3 kg/con/ngày
+ Vỏ và mắt dứa: ủ chua, 3 kg/con/ngày, khi ăn thường trộn với thức ăn tinh.
+ Hèm bia: 5 – 10 kg/con/ngày, kết hợp với cỏ họ đậu.

(3) Nuôi nhốt hoàn toàn:

Đây là phương thức nuôi thâm canh tại chuồng để giảm vận động, nhằm làm cho bò đạt mức tăng trọng nhanh trong thời gian ngắn để có tỷ lệ thịt xẻ cao, tạo ra các vân mỡ trong các sớ cơ nên phẩm chất thịt được nâng cao, giảm chi phí sản xuất đồng thời tăng hiệu quả chăn nuôi. Sau thời gian vỗ béo khối lượng cơ thể bò tăng từ 15 – 20% so với trước khi vỗ béo.

Tuy nhiên, bằng các hình thức vỗ béo nào thì trước khi đưa vào vỗ béo bò, người chăn nuôi cần phải tẩy giun, sán cho bò bằng các loại thuốc như: levamisol, albendazole, biomectin…

– Thức ăn của bò nuôi vỗ béo gồm cỏ tươi, rơm khô, thức ăn tinh (cám hỗn hợp, khoai lang, khoai mì, bắp). Lượng thức ăn tinh cho mỗi con vỗ béo tối đa từ 1 – 2 kg/ngày, liên tục trong vòng 3 tháng vì đây là nguồn thức ăn vừa cung cấp năng lượng, vừa tích lũy mỡ nhanh cho cơ thể bò. Nên kích thích cho bò ăn càng nhiều càng tốt, cho ăn tự do, vận động ít hoặc không cho vận động để bò tăng trọng nhanh, khoảng 1,0 kg/con/ngày.

– Nước uống phải cung cấp thường xuyên và đầy đủ.

Nguồn: Nhanong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Chăm sóc vs nuôi dưỡng nai

1. Nai đực giống

Một nai đực có thể phối 6- 8 nai cái. Nếu phối giống nhiều hơn thì không nên cắt nhung. Nai đực giống phải nuôi riêng, nhất là mùa động dục và có chế độ bồi dưỡng, nhất là thức ăn tinh giàu đạm, khoáng, sinh tố… Ngày phối giống bổ sung thêm 0,5 – 0,7 kg thức ăn tinh hỗn hợp, 1 – 2 quả trứng, 2 – 3 kg trái cây và muối khoáng cho liếm tự do…

Nai đực

2. Nai đực lấy nhung và kỹ thuật lấy nhung (lộc)

Chăm sóc nuôi dưỡng nai thời kỳ mọc nhung là khâu quan trọng nhất trong quá trình chăn nuôi vì, nhung là sản phẩm chủ yếu của nai. Nai ra nhung (sừng non) nhú ra thường từ tháng 6 – 9. Muốn có cặp nhung tốt, thì phải bồi dưỡng cho nai, nhất là 1 – 2 tháng trước khi ra nhung.

Ngoài khẩu phần thức ăn bình thường, cần bổ sung thêm 0,5 – 0,7 kg thức ăn tinh hỗn hợp, 2 – 3 kg trái cây, muối khoáng cho liếm tự do và 5 – 7 ngày bổ sung 1 – 2 quả trứng… Khi nhung mới nhú, tránh rượt đuổi, trượt ngã làm hư nhung. Cắt nhung xong, phải cầm máu, sát trùng và băng kín ngay, tránh ruồi, nhặng gây nhiễm trùng và bồi dưỡng cháo có chút muối cho nai ăn mau lại sức…

Nhung nai rất quý giá

Kỹ thuật lấy nhung (lộc) hay còn gọi là khai thác nhung thường thì 1 lần, 1 cặp /năm, có khi 2 lần, 2 cặp /năm. Nếu chăm sóc nuôi dưỡng và khai thác đúng quy trình kỹ thuật (cắt nhung sau 50 – 60 ngày kể từ khi mọc nhung) thì mỗi năm 1 nai đực có thể cho 1 cặp nhung nặng 0,9 – 1,0 kg/năm, cá biệt có con cho 1,5 – 1,6 kg/năm. Nếu khai thác non thì mỗi năm có thể cho 2 cặp nhung, mỗi cặp nặng 0,4 – 0,5 kg, cá biệt có con cho 2 cặp nhung, mỗi cặp nặng 0,7 – 0,8 kg. Trong điều kiện nuôi nhốt nai có thể sống 15 năm và cho 15 – 17 cặp nhung.

3. Nai mang thai và sinh đẻ

Nai mang thai nên nuôi riêng để tiện chăm sóc nuôi dưỡng… Nai mang thai 9 tháng 10 ngày thì đẻ. 5 tháng đầu mang thai cho ăn khẩu phần thức ăn bình thường. Sau 6 tháng đến khi đẻ cần bổ sung thêm 0,5 – 0,7 kg  thức ăn tinh hỗn hợp, 2 – 3 kg trái cây, muối khoáng cho liếm tự do… Khẩu phần cho nai mẹ phải đảm bảo số lượng, chất tượng và chủng loại cỏ, cây xanh tươi, nhất là cây có nhựa nai thích ăn như sung, mít, và, cỏ sữa… nước vo gạo, cháo cám, đu đủ, ngô… Nai con được 3 tháng tuổi, đã ăn được lá, cỏ thì cho nai mẹ ăn khẩu phần thức ăn bình thường. Nuôi nai sinh sản cần chú ý:

– Con cái không mang thai, không đẻ, không động dục, phải dùng hormol kích thích sinh dục.

– Trường hợp đẻ lứa đầu mẹ vụng về hoặc do đau vú không cho con bú, phải can thiệp để ép nó cho con bú.

– Trường hợp đẻ khó quá, phải can thiệp để đưa con ra.

– Khi mẹ âu yếm con mới đẻ thường hay liếm chỗ rốn, dễ làm chảy máu gây nhiễm trùng và chết con. Vì thế một phản xạ tự nhiên là con hay trốn mẹ, đến giờ bú, con mới về.

4. Nai con

Cho nai con bú sữa đầu càng sớm, càng tốt, chậm nhất 3 – 4 giờ sau khi sinh. Đề phòng thiếu sữa, thức ăn tập ăn sớm không đảm bảo chất lượng làm cho nai bị rối loạn tiêu hóa và tiêu chảy… Hàng ngày, cho nai con vận động và tiếp xúc gần gũi với con người. Nai con được 2 – 3 tuần tuổi có thể tập cho ăn lá, cỏ tươi… 5 – 6 tháng tuổi thì cai sữa.

Nai con sống cùng bố mẹ

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phương pháp gây màu nước trong ao nuôi tôm theo VietGAP

Theo báo cáo của Cục thúy y, 9 tháng đầu năm 2015 cả nước có 44.781 ha nuôi tôm nước lợ bị dịch bệnh và thiệt hại trên diện tích thả nuôi 648.568 ha, cao hơn so với cùng kỳ năm 2014 (43.701 ha). Trong đó, thiệt hại do bệnh 17.350 ha (chiếm 38,7%), thiệt hại do biến đổi thời tiết, môi trường, dinh dưỡng 28.028 ha (chiếm 62,5%), chưa xác định được nguyên nhân 2.008 ha. Như vậy, thiệt hại về môi trường, dinh dưỡng, thời tiết rất lớn, mà thiệt hại về môi trường và dinh dưỡng là do yếu tố chủ quan của con người gây ra. Để hạn chế thiệt hại trên, xin giới thiệu một số phương pháp gây màu đảm bảo ổn định môi trường nước trong ao nuôi tôm nhằm hạn chế thiệt hại và dịch bệnh.

Sau khi chuẩn bị ao, hồ xong tiến hành gây màu nước, mục đích nhằm phát triển vi sinh vật phù du, ổn định màu nước, tạo môi trường thuận lợi cho tôm phát triển nhanh, tăng tỷ lệ sống. Một số phương pháp gây màu đạt hiệu quả cao như sau:

1. Phương pháp thứ nhất:

Theo công thức 2:1:2 (thành phần gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành). Trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm). 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

2. Phương pháp thứ hai:

Theo công thức 3:1:3 (thành phần gồm 3 kg mật đường + 1 kg cám gạo (hoặc cám ngô) + 3 kg bột đậu nành). Công thức này không cần nấu chín, trộn đều sau đó ủ kín trong 12 giờ. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 2 – 3 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm), 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

3. Phương pháp thứ ba: Sử dụng chế phẩm EM

3.1. Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm EM

Đối với con nuôi thủy sản: Điều kỳ diệu là EM có tác dụng tốt đối với mọi loài động vật thủy sản.

  • Tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu của con nuôi với các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
  • Tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ các loại thức ăn của con nuôi.
  • Kích thích tăng trưởng của con nuôi.
  • Tăng sản lượng và chất lượng.
  • Tiêu diệt các vi sinh vật có hại.
  • Hạn chế ô nhiễm môi trường.

Đối với môi trường:

  • Tiêu diệt các vi sinh vật gây ô nhiễm (H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh, chuồng trại, ao nuôi,… sẽ khử mùi hôi nhanh chóng.
  • Giảm số lượng ruồi, muỗi, côn trùng trong môi trường.
  • Khử mùi rác hữu cơ và tăng tốc độ mùn hóa.
  • Ngăn chặn quá trình gây thối, mốc trong bảo quản nông sản.
  • Hiệu quả cao, an toàn với môi trường và giá thành rẻ.

3.2. Sản xuất EM2 từ EM gốc (nhằm hạ thấp chi phí sản xuất):

Nguyên liệu (với thùng chứa 50L):

  • 1 kg mật đường
  • 2 kg cám gạo hoặc bột ngô
  • 10 g muối ăn
  • 1 lít EM gốc
  • 46 lít nước sạch khuẩn

Chế phẩm EM gốc

Cách tiến hành: Với các thể tích lớn hơn (100L, 200L, 500L,…) thì tăng các loại nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng với tăng thể tích.

  • Vô trùng các thùng chứa
  • Lấy 46 lít nước ngọt, sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)
  • Cho 1 kg mật đường, khuấy đều
  • Cho 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, khuấy đều
  • Cho vào 10 g muối ăn, khuấy đều
  • Cho vào 1 lít EM gốc, khuấy đều
  • Đậy nắp ủ yếm khí trong thời gian 7 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý nước: 50 lít EM2/1.000 mnước
  • Xử lý đáy ao: 10 lít EM2/1.000 m2 đáy ao
  • Sử dụng định kỳ trong các ao nuôi: 50 lít EM2/1.000 mnước, trong tháng nuôi đầu 5 – 7 ngày/lần, tháng thứ 2 sử dụng 3 – 5 ngày/lần, tháng thứ 3 trở đi 2 – 3 ngày/lần.
  • Sử dụng xử lý mùi hôi thối: Dùng bình xịt phun EM2 trực tiếp lên bề mặt các nơi sinh ra mùi hôi thối.

Chế phẩm EM2

3.3. Sản xuất EM5 từ EM gốc:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM gốc
  • 1 lít mật đường
  • 1 lít giấm
  • 2 lít rượu

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 2 lít rượu → 1 lít giấm → 1 lít mật đường → 1 lít EM gốc → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 3 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý đáy ao: 5 lít EM5/1.000 m2
  • Xử lý nước: 4 lít EM5/1.000 m3, định kỳ 7 ngày/lần, khi tôm lớn tăng số lần sử dụng.
  • Phòng và trị bệnh: Theo hướng dẫn ở phần cuối

3.4. Sản xuất EM tỏi từ EM5:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM 5
  • 1 kg tỏi xay nhuyễn
  • 8 lít nước sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 8 lít nước → 1 kg tỏi xay nhuyễn → 1 lít EM5 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

  • Phòng bệnh: 1 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn định kỳ.
  • Trị bệnh: Sử dụng liều lượng gấp đôi, cho ăn liên tục 7 – 10 ngày, sau đó quay lại liều phòng.

3.5. Sản xuất EM chuối từ EM2:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM2
  • 1 kg chuối lột vỏ, xay nhuyễn

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 1 kg chuối lột vỏ xay nhuyễn → 1 lít EM2 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

1 lít EM chuối + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn liên tục.

NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH:

– Không sử dụng chế phẩm vi sinh đồng thời với kháng sinh và hóa chất diệt khuẩn.

– Sử dụng đúng liều lượng, không nên theo quan niệm sử dụng càng nhiều càng tốt.

– Chế phẩm vi sinh dạng bột nên dùng nước của ao nuôi hòa tan và sục khí mạnh 2 – 4 giờ trước khi sử dụng để gia tăng sinh khối vi khuẩn.

– Chế phẩm vi sinh dạng nước nên ủ yếm khí để gia tăng sinh khối trước khi sử dụng.

– Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất vào khoảng 8 – 10h sáng, lúc nắng ấm, trời trong và hàm lượng oxy hòa tan cao.

– Cần định kỳ xử lý vi sinh để duy trì mật độ vi khuẩn thích hợp nhằm kiểm soát sinh học môi trường nước và đáy ao, ổn định các yếu tố môi trường ao nuôi, ngăn ngừa các loài vi khuẩn gây bệnh, tảo độc và mầm bệnh tiềm tàng trong ao.

Các yếu tố môi trường ao nuôi ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng chế phẩm vi sinh:

– Oxy hòa tan: Vi khuẩn hiếu khí (Bacillus) và vi khuẩn hiếu khí nghiêm ngặt (VK nitrat) phải đảm bảo lượng oxy hòa tan đầy đủ có hiệu quả sử dụng. Khi oxy hòa tan thấp sẽ sử dụng không có hiệu quả.

– Độ kiềm, độ mặn: nước có độ kiềm cao (80 – 150mg CaCO3/l) → pH ổn định, nước có độ kiềm thấp (50mg CaCO3/l) → pH dao động → hiệu quả sử dụng vi sinh giảm thấp. Độ mặn quá cao → gây chết hoặc ức chế sinh trưởng của vi sinh.

– Thời tiết: ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của tảo và màu nước → ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vi sinh. Sử dụng vi sinh tốt nhất vào buổi sáng trời trong.

– Dinh dưỡng: cần bổ sung C thì vi khuẩn nitrat mới thực hiện phản ứng khử N-NH3 → NO3 có hiệu quả.

Thời gian và tần suất sử dụng:

  •  Nên sử dụng vi sinh ngay từ đầu vụ → hiệu quả cao.
  • Từ giữa vụ đến cuối vụ sử dụng vi sinh → hiệu quả thấp.
  • Đầu vụ 7 – 10 ngày sử dụng một lần, từ giữa đến cuối vụ 3 – 4 ngày sử dụng một lần.

Liều lượng sử dụng:

  • Sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
  • Sử dụng quá nhiều → mất cân bằng sinh thái, DO giảm, vật nuôi bị kích ứng stress.
  • Sử dụng quá ít → không đạt hiệu quả tốt.

Nuôi cấy tăng sinh khối vi khuẩn:

  • Một số chế phẩm vi sinh cần phải nuôi cấy để tăng số lượng vi khuẩn, cần nuôi cấy yếm khí để tránh tạp nhiễm.
  • Một số chế phẩm vi sinh có mật số vi khuẩn cao không cần nuôi cấy tăng sinh khối có thể sử dụng trực tiếp vào ao nuôi. Tuy nhiên cần hòa vào nước và sục khí mạnh vài giờ trước khi tạt vào ao nuôi.

Các nhân tố khác:

  • Nguyên sinh động vật quá nhiều sẽ ăn vi khuẩn → mật độ vi sinh giảm thấp.
  • Sử dụng đồng thời chất diệt khuẩn, kháng sinh, thay nước,… sẽ giảm hiệu quả sử dụng vi sinh.

CÁCH PHÒNG TRỊ MỘT SỐ BỆNH TÔM BẰNG CHẾ PHẨM VI SINH

Tôm nổi đầu do khí độc:

  • Hòa tan 2-3 lít EM gốc vào 20 lít nước lấy từ ao nuôi rồi tạt đều vào ao nuôi ngay lúc tôm nổi đầu.
  • Mở các dàn quạt chạy hết công suất.

Tôm bị mòn đuôi, cụt râu:

  • Sử dụng 2 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn
  • Trộn đều và ủ kín 4 giờ
  • Cho tôm ăn với tỷ lệ: 1kg/100.000 tôm giống/ngày
  • Hoặc sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp 3 lần với khoảng cách 2 ngày/lần.

Tôm bị đóng rong:

  • Dùng 4 lít EM5/1.000 m2, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tảo chết nhiều → pH thấp → dùng vôi để nâng pH.

Tôm bị bệnh đốm trắng:

  • Sử dụng 5 lít EM5/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tôm lột xác nhiều ngừng sử dụng EM5 và sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/2 ngày, dùng liên tiếp đến khi bệnh đốm trắng giảm dần (Thái Lan đã sử dụng có hiệu quả trên 10 năm).

Nguồn: Trung tâm khuyến nông quốc gia được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.