Ninh Bình lần đầu trồng cây thuốc đinh lăng theo tiêu chuẩn GACP

Với dự án “Ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình sản xuất giống và dược liệu đinh lăng lá nhỏ”, Ninh Bình trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước trồng loài cây dược liệu này theo tiêu chuẩn GACP (thực hành trồng trọt tốt và thu hái) của WHO ở quy mô lớn.

Vườn giống đinh lăng lá nhỏ được trồng trong nhà lưới đảm bảo giống cây khỏe, sạch bệnh. 

Sức hấp dẫn từ “cây nhân sâm của người nghèo”

Ông Vũ Văn Tâm – Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Dược liệu Vũ Gia – đơn vị chủ trì thực hiện dự án – cho biết, sau khi được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt, dự án bắt đầu triển khai từ tháng 9/2016.

Sở dĩ cây đinh lăng lá nhỏ được chọn làm đối tượng của dự án vì đây là cây dược liệu truyền thống của Việt Nam, được sử dụng làm thành phần chính trong nhiều loại thuốc – ông Tâm lý giải.

Bên cạnh đó, đinh lăng là loài cây dễ trồng, dễ chăm sóc, phù hợp với nhiều loại đất khác nhau. Thị trường tiêu thụ đinh lăng cũng rất rộng mở, tất cả các bộ phận của cây đinh lăng đều có thể dùng để chế biến thành cao, thuốc, trà…

Được coi là “nhân sâm của người nghèo”, cây đinh lăng đã và đang tạo ra thu nhập ổn định cho nhiều hộ gia đình. “Do đây không phải là cây mới nên chúng tôi có thể tính toán được lợi nhuận. Sau 3 năm, cây đinh lăng cho thu hoạch có thể đem lại 150 – 200 triệu/ha/năm. Ngoài ra, trên cùng một diện tích có thể trồng xen canh các cây ăn quả khác” – ông Tâm nói.

Dự án được thực hiện nhằm giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp hiệu quả thấp sang trồng cây dược liệu bản địa đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người dân tại huyện Nho Quan, Ninh Bình – nơi có khí hậu, địa chất phù hợp với sự phát triển của cây đinh lăng. Để tạo nguồn thu trước mắt, hiện dự án đang cho trồng xen hoa hòe, bưởi.

Từ nhỏ lẻ đến tập trung

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, cây đinh lăng lá nhỏ mới được trồng nhỏ, lẻ ở quy mô hộ gia đình, và chưa theo hướng sản xuất hàng hóa. Kỹ thuật trồng chủ yếu sử dụng cây hom tự khai thác trong tự nhiên hoặc tự để giống nên không bảo đảm. Có thể nói, chưa có quy trình công nghệ nào được áp dụng trong việc trồng và chế biến cây đinh lăng lá nhỏ tại địa phương.

ThS Phạm Tiến Duật – chủ nhiệm dự án – cho biết, dự án sẽ khắc phục những điểm hạn chế này với các quy trình công nghệ về sản xuất giống, trồng, thu hoạch và chế biến để có năng suất và hàm lượng hoạt chất đảm bảo theo yêu cầu. Dự án cũng đào tạo 10 cán bộ, kỹ thuật viên cơ sở; và tập huấn kỹ thuật cho 100 nông dân vùng dự án về sản xuất dược liệu theo GACP – WHO.

Theo tiêu chuẩn GACP, từ khâu giống, làm đất, đến nước tưới đều phải có nhật ký. Trong quá trình chăm sóc, việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phải áp dụng nguyên tắc 4 đúng (đúng loại, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng phương pháp). Khâu sơ chế cũng tuân thủ tiêu chuẩn nước rửa sạch, công đoạn thái sơ chế đảm bảo trong điều kiện sạch sẽ, nhà xưởng đảm bảo khép kín.

“Chúng tôi đang xây dựng vườn đinh lăng giống gốc rộng 1,5ha theo tiêu chuẩn GACP. Sau đó sẽ xây dựng mô hình thâm canh đảm bảo năng suất và hàm lượng hoạt chất để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất và chế biến dược liệu với quy mô 30ha, năng suất 10 tấn tươi/ha, tương đương khoảng 2,0 tấn khô/ha; xây dựng nhà xưởng và hoàn thiện quy trình thu hoạch, sấy khô và bảo quản nguyên liệu dược liệu” – ông Duật cho biết.

Nếu thành công, Ninh Bình sẽ có cơ hội mở rộng vùng sản xuất nguyên liệu dược liệu đạt tiêu chuẩn cho các đơn vị sản xuất chế biến thuốc trong và ngoài nước, ông Duật kỳ vọng.

Theo Chủ tịch HĐQT Công ty Vũ Gia, trước Ninh Bình, mới có một dự án trồng đinh lăng theo tiêu chuẩn GACP ở Nam Định, nhưng quy mô nhỏ. Công ty Vũ Gia cam kết thu mua hết sản lượng đinh lăng theo hợp đồng ký kết ngay từ đầu vụ sản xuất với giá mua đảm bảo lợi ích cho người nông dân. Đồng thời Công ty Vũ Gia cũng phối hợp với các công ty như Traphaco, Sao Thái Dương, Mediplantex, Nam Dược… để cung cấp các sản phẩm dược liệu từ cây đinh lăng lá nhỏ cho thị trường trong và ngoài nước.

Nguồn: Khoahocvaphattrien.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thâm canh cây có múi theo VietGAP

Đó là mục tiêu chính được các đại biểu 6 tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ (từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên – Huế) tập trung thảo luận tại diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp về “Giải pháp nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng cây ăn quả có múi” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Sở NN-PTNT Hà Tĩnh vừa tổ chức.

100% sản phẩm vùng tập trung đảm bảo an toàn

Hiện khu vực Bắc Trung Bộ đã phát triển được khoảng 16.279ha cây ăn quả có múi (cam, bưởi, quýt). Nếu so sánh với các vùng khác trong cả nước thì diện tích này không lớn, tuy nhiên những năm gần đây, khi thực hiện chương trình Nông thôn mới thì phong trào sản xuất cây ăn quả có múi tăng mạnh cả về quy mô diện tích, năng suất và hiệu quả kinh tế.

Theo Cục Trồng trọt, toàn vùng Bắc Trung Bộ đang có hơn 9.800ha cam phát triển tốt, tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Những năm gần đây diện tích cam trên cho năng suất, hiệu quả kinh tế khá cao, thương hiệu một số loại “đứng” được trên thị trường trong và ngoài vùng, thậm chí ở các thị trường “khó tính” như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Điển hình là cam Vinh, cam Vân Du, Sông Con (Nghệ An); cam Khe Mây, Thượng Lộc, cam bù Hương Sơn (Hà Tĩnh)…

Đối với cây bưởi, diện tích hiện có là 5.155ha (chiếm 20,6% so với diện tích toàn vùng phía Bắc và 8,6% so với cả nước). Tập trung nhiều ở Hà Tĩnh (khoảng 2.000ha); Thanh Hóa, Thừa Thiên – Huế (hơn 1.000ha/tỉnh) và Nghệ An (730ha). Có 2 thương hiệu bưởi nổi tiếng là Phúc Trạch (Hà Tĩnh) và Thanh Trà (Thừa Thiên – Huế). Còn cây quýt, hiện diện tích đạt khoảng 1.270ha; chủ yếu tập trung ở tỉnh Nghệ An với hơn 900ha.

Mặc dù nằm trong nhóm 15 loài cây trồng có diện tích và sản lượng lớn nhất trong sản xuất cây ăn quả của cả nước. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay trong phát triển cây có múi khu vực Bắc Trung Bộ là sản xuất quy mô nhỏ lẻ, phân tán (bình quân phổ biến 0,2 – 0,6ha/vườn hộ) dẫn đến quy cách, mẫu mã, chất lượng sản phẩm chưa đồng đều. Bên cạnh đó, tâm lý trồng cây ăn quả theo phong trào, tự phát; năng suất thấp, đầu ra bấp bênh nên không đảm bảo tính ổn định, bền vững.

Phó Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh cho biết, cam và bưởi là 2 cây trồng được tỉnh chọn chủ lực tập trung phát triển thời gian tới

Để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế các vùng đất đồi khu vực Bắc Trung Bộ, ngành NN-PTNT và các nhà khoa học đang khuyến khích các địa phương tập trung thâm canh, hướng tới mở rộng áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP). Đối với cây cam, quýt, sản xuất tập trung trên 70% diện tích gắn với ngành công nghiệp chế biến; 100% sản phẩm vùng tập trung đảm bảo ATTP. Riêng cây bưởi, chú trọng tại Hà Tĩnh và Thừa Thiên – Huế, trong đó diện tích sản xuất tập trung trên 70% và 100% sản phẩm vùng tập trung đảm bảo ATTP.

Thu 5 tỷ từ cam

Theo đánh giá của nhiều hộ dân, hiệu quả kinh tế từ cây ăn quả có múi cao hơn nhiều lần so với trồng cây lâm nghiệp và các cây trồng khác. Đặc biệt, ở khu vực Bắc Trung Bộ, diện tích đất đồi núi lớn, nghèo chất dinh dưỡng và thường xuyên phải đối mặt với thời tiết bất thuận thì việc phát triển cây ăn quả là một hướng đi đúng đắn. Vấn đề bà con quan tâm, lo lắng nhất hiện nay là giống và đầu ra sản phẩm.

Ông Đinh Văn Oánh (64 tuổi) ở xã Hương Đô, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) nói: “Bây giờ virus gây hại cam rất nhiều do đó để nông dân tiếp cận được nguồn giống tốt, đề nghị các ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu, chọn tạo các giống cam mới; quản lý chặt chẽ hoạt động cung ứng giống tại các doanh nghiệp, đơn vị”.

Cũng theo ông Oánh, ngoài chất lượng giống thì cần khuyến khích, hỗ trợ người sản xuất tuân thủ quy trình VietGAP để nâng cao chất lượng trái cam.

Ông Oánh là một nông dân điển hình vùng đất Hà Tĩnh trong sản xuất đặc sản cam Khe Mây (huyện Hương Khê). Năm 1991 ông là người đem những cây cam chanh đầu tiên về trồng trên đất Hương Đô, đến nay diện tích tăng lên đạt 20ha; trong đó, 7ha cho thu hoạch; năng suất bình quân 15 – 20 tấn/ha; doanh thu năm 2017 ước đạt 5 tỷ đồng. Toàn bộ diện tích của ông đều áp dụng quy trình VietGAP.

“Đất Hương Khê là đất cát pha sỏi, cằn cỗi lại hứng nhiều đợt gió nồm, gió lào nên có vị rất riêng, hội tụ đủ 3 vị ngọt, chua, mặn. Với giá trị dinh dưỡng cao đó nên giá bán thường giao động từ 60.000 – 70.000đ/kg, cao hơn các vùng khác từ 20.000 -30.000đ/kg”, ông Đinh Văn Oánh nhấn mạnh.

Nông dân Hà Tĩnh giàu lên nhờ sản xuất cam

Theo báo cáo của Sở NN-PTNT Hà Tĩnh, cam và bưởi đang là 2 cây trồng được tỉnh xác định là cây chủ lực tập trung phát triển tại các huyện có diện tích đất đồi núi lớn như Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang, Can Lộc, Kỳ Anh. Năm 2017, hơn 1.290ha kinh doanh bưởi Phúc Trạch cho năng suất 10,4 tấn/ha; doanh thu bình quân đạt 500 triệu đồng/ha. Còn cây cam, diện tích đang tăng nhanh theo từng năm, năm 2017 đạt hơn 5.000ha; sản lượng hơn 47.000 tấn; doanh thu bình quân 350 triệu đồng/ha.

“Để gia tăng hiệu quả kinh tế, thời gian tới Hà Tĩnh tiếp tục lồng ghép các chính sách phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM để hỗ trợ nông dân; đồng thời, xây dựng chuỗi giá trị từ cung ứng giống đến bao tiêu đầu ra cho bà con. Trong đó, quan tâm hàng đầu hoạt động xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu sản phẩm”, ông Nguyễn Văn Việt, Giám đốc Sở NN-PTNT Hà Tĩnh nói.

Hàng năm cơ sở Tuyết Hùng, TP Hà Tĩnh bao tiêu hàng trăm tấn cam, bưởi, quýt cho người dân toàn tỉnh Hà Tĩnh. Theo chị Tuyết, cơ sở của chị là địa điểm thu mua sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, xuất xứ “độc nhất” ở TP Hà Tĩnh. Hơn chục năm qua, cơ sở đã đi tắt đón đầu, hỗ trợ, giúp đỡ người sản xuất trong việc tiêu thụ đầu ra, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà cầu sử dụng thực phẩm an toàn của người tiêu dùng ngày càng cao thì cơ sở Tuyết Hùng càng được chọn lựa hàng đầu.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu

Tỉnh An Giang đang tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu bền vững dựa trên thế mạnh về lúa và cá tra, đồng thời phát triển ngành du lịch xanh…

An Giang đang tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu

Ông Thiều Vĩnh An, Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh An Giang cho biết, ước tính tổng diện tích trồng lúa năm 2017 của tỉnh đạt gần 649.200ha, giảm gần 20.000ha, trong đó các  vụ ĐX, HT và TĐ đều giảm diện tích. Đồng thời diện tích hoa màu gieo trồng được hơn 60.000ha, tăng nhẹ so cùng kỳ. Ông Trần Anh Thư, GĐ Sở NN-PTNT An Giang cho biết, diện tích gieo trồng cây lúa giảm do chuyển dịch sang cây trồng và nuôi thủy sản khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Tổng sản lượng lúa cả năm đạt xấp xỉ 4 triệu tấn, giảm gần 40.000 tấn, nhưng giá trị SX tăng, ước tính giá trị SX nông nghiệp bình quân đạt mức 160 triệu đồng/ha.

Nông nghiệp An Giang đang hướng tới SX bền vững. Ngoài kế hoạch SX lúa hàng năm để đảm bảo kế hoạch lương thực, xu hướng chuyển dịch sang các cây trồng khác mang lại hiệu quả kinh tế cao đang được nông dân áp dụng.

Tỉnh chú trọng SX lúa gạo an toàn, nâng cao chất lượng, tăng diện tích lúa nếp để đáp ứng nhu cầu thị trường. Năm 2017, riêng sản lượng lúa nếp đã đạt gần 1,1 triệu tấn, tăng 271.500 tấn so năm trước. Tuy nhiên để đảm bảo SX bền vững, tỉnh đã quy hoạch vùng SX lúa nếp tại huyện Phú Tân, và thường xuyên kiểm soát các địa phương “xé rào” SX do sức hút của thị trường.

Trong SX cây lúa hàng năm, xu hướng hình thành chuỗi liên kết SX từ khâu cung cấp giống chất lượng cao đến khâu thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm, chế biến xay xát và xuất khẩu đang được nhiều nông dân lựa chọn. Theo thống kê mỗi năm trên địa bàn tỉnh có  trên 35.400ha đất SX 2 vụ thực hiện chuỗi liên kết SX mang lại hiệu quả cao cho nông dân.

Ngành nông nghiệp An Giang đang tổ chức thực hiện liên kết với Tập đoàn Lộc Trời để xây dựng thương hiệu lúa gạo của tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu sản phẩm lúa gạo ra thị trường ngoài nước.  Trong nhiều năm qua tại tỉnh An Giang, Tập đoàn Lộc Trời đã xây dựng và vận hành hai nhà máy chế biến xay xát gạo với công suất là 200.000 tấn/năm/nhà máy.

Các nhà máy gắn liền với vùng nguyên liệu tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành và xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn cùng các địa phương khác gần nhà máy với phương thức: Tập đoàn Lộc Trời liên kết SX với hộ nông dân để cung cấp sản phẩm cho nhà máy. Tập đoàn cung cấp cho nông dân giống lúa tốt để áp dụng quy trình SX an toàn cho sản phẩm gạo sạch…

Trong các năm qua, nông nghiệp An Giang đánh dấu bước chuyển biến từ chuyển dịch diện tích trồng lúa sang trồng cây ăn trái, mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Năm 2017 tổng diện tích cây ăn trái trên 15.800ha, tăng 19,2% (tương đương tăng 2.552ha so cùng kỳ), trong đó diện tích cây ăn trái tăng chủ yếu trên địa bàn huyện Chợ Mới. Diện tích cây ăn trái đã cho thu hoạch sản phẩm trên 11.700ha.

Ông Nguyễn Thanh Phong, Bí thư Huyện ủy Chợ Mới cho rằng, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang hình thành vùng cây ăn trái kết hợp với du lịch sinh thái là hướng đi đúng của huyện. Chợ Mới đang hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững bằng hình thành các HTX  trồng xoài đạt tiêu chuẩn VietGAP, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tưới nhỏ giọt. Hiện toàn huyện đã hình thành các vùng trồng xoài tập trung, với các giống chất lượng cao như xoài Đài Loan, xoài Cát Hòa Lộc. Kế hoạch nâng diện tích xoài đạt tiêu chuẩn VietGAP đến năm 2018 là 500ha.

Tri Tôn là huyện miền núi có đông bà con dân tộc Khmer sinh sống, với điều kiện đất đai khí hậu có 6 tháng mùa mưa và 6 tháng là mùa nắng nóng. Kinh tế của huyện trước đây chỉ trông chờ vào trồng lúa, nuôi bò với quy mô nhỏ lẻ, bấp bênh. Năm 2017 đánh dấu bước chuyển tích cực của huyện, khi có nhiều DN đầu tư chăn nuôi gia súc với quy mô lớn bằng công nghệ tiên tiến. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho huyện Tri Tôn trong phát triển nền kinh tế bền vững, thân thiện với môi trường, mang lại lợi ích tích cực cho bà con.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Hà Giang xây dựng chuỗi giá trị cam sành

Cam sành là cây ăn quả có giá trị kinh tế cao và là đặc sản của Hà Giang. Cây cam sành được trồng tập trung tại 3 huyện Bắc Quang, Quang Bình và Vị Xuyên.

Cam sành là cây ăn quả có giá trị kinh tế cao ở Hà Giang

Trong niên vụ cam 2017 – 2018, tổng diện diện tích cam sành của Hà Giang đạt khoảng 8.850ha, trong đó có trên 4.500ha cho thu hoạch, tổng sản lượng ước đạt 48.000 tấn.

Để nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm cam sành góp phần thúc đẩy tiềm năng đối với cây ăn quả đặc sản của địa phương; thu hút đầu tư từ các nguồn lực, tạo mối liên kết thị trường, góp phần tăng thu nhập và ổn định cho người SX, UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo các ngành chức năng và 3 huyện trồng cam thực hiện các chương trình, dự án nhằm không ngừng nâng cao giá trị sản phẩm.

Điển hình là chương trình “Cải tạo và phục hồi cây cam sành theo tiêu chuẩn VietGAP”, chương trình “Mở rộng và nâng cao chất lượng của sản phẩm cam sành”… Cho tới thời điểm hiện nay, toàn tỉnh đã có gần 3.000ha cam sành đạt tiêu chuẩn VietGAP. Bên cạnh đó, hàng năm vào đầu vụ thu hoạch, UBND tỉnh đều phối hợp với các huyện tổ chức Hội thi sản phẩm cam sành. Hiện sản phẩm cam sành Hà Giang đã được cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý.

Cam sành trồng theo chuẩn VietGap 

Xác định cam sành là một trong những cây trồng chủ lực (gồm cam, chè và cây dược liệu), HĐND tỉnh Hà Giang đã ban hành Nghị quyết số 209/2015/NQ-HĐND về các chính sách hỗ trợ tổ chức, cá nhân phát triển cây trồng và vật nuôi chủ lực, trong đó có cây cam sành.

Theo đó, các tổ chức, cá nhân sẽ được hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay để thâm canh cam sành theo tiêu chuẩn VietGAP. Mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 50 triệu đồng/ha; riêng đối với vườn cam có xây dựng đường giao thông, hệ thống tưới, mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 80 triệu đồng/ha, thời gian hỗ trợ 24 tháng.

Các tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở bảo quản, chế biến cam sành sẽ được hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay, mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 500 triệu đồng/dự án, thời gian hỗ trợ 36 tháng.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi cá rô phi theo tiêu chuẩn VietGap

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN-PTNT Thái Bình tổ chức hội thảo “Sơ kết dự án xây dựng mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm năm 2016 – 2017”.

Hiệu quả kinh tế tăng 15% so với ngoài mô hình

Phát biểu tại buổi hội thảo, ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết: “Năm 2017, mô hình nuôi cá rô phi theo VietGAP được triển khai tại 7 tỉnh, thành phố trên diện tích 21ha với 24 hộ dân tham gia. Đáng mừng là không có hộ nào nuôi cá bị dịch bệnh”.

Thực tế cho thấy dự án phát triển nuôi cá rô phi theo VietGAP bước đầu tạo cho người nuôi thay đổi tư duy về nuôi trồng thủy sản bền vững, nhận thức được những lợi ích thực sự thiết thực, đó là giảm chi phí thức ăn, hóa chất và công lao động; giảm dịch bệnh, hạn chế ô nhiễm môi trường và tăng tỷ lệ sống của cá; thời gian nuôi ngắn hơn và chất lượng sản phẩm cao hơn, dễ tiêu thụ hơn.

Phát triển nuôi cá rô phi theo chuẩn VietGap

“Năm 2015 diện tích nuôi rô phi cả nước đạt 21.000ha; sản lượng 150.000 tấn, trong đó đã xuất khẩu đi 60 nước, kim ngạch xuất khẩu trên 36 triệu USD. Theo Hiệp hội Chế biến và XK thủy sản VN (VASEP), dự kiến năm 2017 sẽ xuất khẩu được 45 triệu USD sang 68 thị trường (chủ yếu EU và Mỹ), tăng 32% so với năm 2016 và sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những thời gian tới”, ông Tiêu nhấn mạnh.

Ông Tiêu cho biết thêm, năm 2016 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia thực hiện mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm tại 5 tỉnh, thành: Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An.

Qua đánh giá cho thấy mô hình đã vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra như tỷ lệ sống 79,8/70%; năng suất đạt 17,2 tấn/ha (tăng 15,7%); kích cỡ thu hoạch đạt trung bình 720gr/con (đề ra là 650gr/con, vượt 10,3%). Hiệu quả kinh tế tăng ít nhất 15% so với ngoài mô hình. Sau khoảng gần 6 tháng nuôi cho thấy, mô hình đạt sản lượng 256 tấn; năng suất 17,2 tấn/ha, sau khi trừ toàn bộ chi phí mô hình cho thu lãi hơn 1,4 tỷ đồng, bình quân lãi 94,8 triệu đồng/ha.

Ông Bùi Văn Trụ, Phó phòng Chăn nuôi thủy sản (Trung tâm Khuyến nông Thái Bình) cho hay, mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm tại Thái Bình đã mở ra một hướng đi mới cho sự phát triển về nuôi cá rô phi trong khu vực nuôi thủy sản nước ngọt, giúp ổn định khâu tiêu thụ sản phẩm, tạo sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo công ăn việc làm, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

Ngoài ra, mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm thành công, giúp người nuôi phát triển bền vững như có thị trường tiêu thụ ổn định, hạn chế dịch bệnh, tạo sản phẩm sạch, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy, khả năng mở rộng thị trường là rất lớn. Dự kiến khoảng 20ha.

Cũng theo ông Trụ, mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm đã hạn chế được dịch bệnh, tạo sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Cá rô phi theo VietGAP an toàn vệ sinh thực phẩm

Sau 6 tháng nuôi, mô hình đã đạt được một số chỉ tiêu kỹ thuật như trọng lượng trung bình trong suốt quá trình nuôi các chủ hộ đã tuân thủ quy trình kỹ thuật theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, cán bộ chuyên môn.

“Đề nghị Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tiếp tục cho thực hiện mô hình ở tiểu vùng sinh thái khác trong giai đoạn 2018 – 2020 để khẳng định khả năng và hiệu quả của mô hình”, ông Trụ đề nghị.

Chia sẻ tại buổi hội thảo, ông Ngô Duy Tuấn (xã Thái Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) cho biết, tham gia mô hình nuôi cá rô phi theo VietGAP, gia đình ông luôn được sự giúp đỡ của cán bộ Trạm Khuyến nông huyện, Trung tâm Khuyến nông tỉnh. Sau một thời gian nuôi, lợi ích rất rõ ràng, nhất là hiệu quả kinh tế cao hơn, tiêu thụ sản phẩm được liên kết với doanh nghiệp bao tiêu…

Theo Quyết định số 1639/QĐ-BNN-TCTS ngày 5/6/2016 của Bộ NN-PTNT về việc phê duyệt quy hoạch phát triển cá rô phi đến năm 2020, diện tích nuôi cá rô phi của cả nước ta đạt 33.000ha; cá lồng đạt 1,5 triệu m3, sản lượng nuôi đạt 300.000 tấn, trong đó 50 – 60% được xuất khẩu. Đến năm 2030 diện tích nuôi cá rô phi của cả nước ta đạt 400.000ha; cá lồng đạt 1,8 triệu m3, sản lượng nuôi đạt 400.000 tấn, trong đó 50% được xuất khẩu.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Bí quyết nuôi thủy sản có lãi thời giá cả xuống thấp

Đầu tư xây dựng ao bài bản, tuân thủ chặt chẽ quy trình VietGAP, chủ động con giống nuôi đầu vào…, trang trại thủy sản của gia đình anh Ngô Văn Quang ở thôn Đông Nghè, xã Dĩnh Trì, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang vẫn có lãi khá.

Trại cá của anh Quang

Hơn 10 năm nay, năm nào gia đình anh Ngô Văn Quang cũng kết dư được 300 – 400 triệu đồng từ gần 1ha ao nuôi thâm canh cá. Có được nguồn lợi nhuận ổn định trên, là do gia đình anh Quang đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chăn nuôi thủy sản hiệu quả. Nhằm chủ động nguồn con giống đầu vào, khi quy hoạch ao nuôi anh Quang đã xây dựng riêng 2 – 3 ao nhỏ, để nuôi gột cá hương thành cá phân cho ao nuôi thương phẩm. Như vậy đã giảm được chi phí đầu tư mua con giống, chất lượng con giống đảm bảo tốt hơn, ngoài ra còn có thể đáp ứng nhu cầu cá giống cho một vài trang trại khác.

Ao hồ được kè cứng bờ và thành, có hệ thống cấp thoát nước thuận tiện, tránh được rò rỉ gây thất thoát nước ao, dễ dàng cho thay bổ sung nước mới thường xuyên, giúp cá tăng trọng nhanh, tăng năng suất, tăng sản lương, gia tăng thu nhập, rút ngắn thời vụ, giảm chi phí thức ăn.

Anh Quang cho biết, đầu tư cho cứng hóa thành bờ ao không tốn nhiều kinh phí, chỉ cần bỏ ra lợi nhuận 1 năm nuôi cá, sẽ yên tâm thả cá nhiều năm mà không lo vỡ bờ thẩm lậu nước ao, nhất là vào những năm có mưa bão nhiều.

Theo anh Quang: Trong nuôi cá VietGAP quan trọng nhất là phải giám sát chặt chẽ sự biến đổi của thời tiết khí hậu và thủy văn. Con cá cũng như cây trồng và con người, đều phải chịu sự tác động rất lớn của khí hậu thời tiết và thủy văn, trong đó các loại cá nuôi thường mẫn cảm rất cao với sự thay đổi của thời tiết.

Vì vậy, vào những ngày nhiệt độ ngoài trời từ 37 độ C trở lên phải dừng cho cá ăn công nghiệp, bổ sung thêm vitamin C cho cá ăn để tăng sức đề kháng. Định kỳ 10 ngày thay mới cho 20 – 30% nước ao, cá sẽ tăng trọng nhanh.

Ao cá nuôi thâm canh bắt buộc phải có máy quạt nước hoặc hệ thống sục khí để cung cấp ô xy kịp thời cho cá. Mùa xuân và mùa hè quạt nước/sục khí cho ao cá 2 lần, từ 1 giờ đêm đến 6 giờ sáng và từ 12 giờ trưa đến 4 giờ chiều. Mùa thu, mùa đông chỉ cần sục khí 1 lần từ 1 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Những ngày trời mưa, thời tiết âm u, không có ánh sáng phải tăng cường thời lượng quạt nước/sục khí lên gấp đôi. Sau mỗi lần thời tiết hết mưa phải quạt nước/sục khí ngay, kết hợp xử lý nước ao bằng nước vôi bột, liều lượng 2kg vôi cục để tả pha loãng tạt cho 100m2 mặt nước ao…

Bằng cách nuôi thủy sản này, mà suốt thời gian giá cá thương phẩm giảm sâu, một số trang trại phải giảm hoặc tạm dừng nuôi, thì gia đình anh Quang vẫn duy trì đủ lượng đàn cá nuôi, có lãi khá.

Bà Ngụy Thị Vân, Trưởng trạm Khuyến nông TP Bắc Giang ví von: Anh Quang rất “mát tay” tay nuôi cá. Gần như thả vào bao nhiêu con thì sau đó xuất ra đủ bấy nhiêu con. Cá anh nuôi 4 tháng đã bằng người khác nuôi 5 tháng.

Anh Quang nói vui: “Nuôi cá theo cách này tối thiểu là hòa còn đâu là lãi”. Hiện giá một số loại cá trên thị trường đã nhích lên, trang trại của anh bắt đầu có lãi cao. Nếu xuất hết số cá trong ao bây giờ, trừ hết mọi chi phí chắc chắn gia đình anh Quang sẽ bỏ túi được 70 – 80 triệu đồng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp gây màu nước trong ao nuôi tôm theo VietGAP

Theo báo cáo của Cục thúy y, 9 tháng đầu năm 2015 cả nước có 44.781 ha nuôi tôm nước lợ bị dịch bệnh và thiệt hại trên diện tích thả nuôi 648.568 ha, cao hơn so với cùng kỳ năm 2014 (43.701 ha). Trong đó, thiệt hại do bệnh 17.350 ha (chiếm 38,7%), thiệt hại do biến đổi thời tiết, môi trường, dinh dưỡng 28.028 ha (chiếm 62,5%), chưa xác định được nguyên nhân 2.008 ha. Như vậy, thiệt hại về môi trường, dinh dưỡng, thời tiết rất lớn, mà thiệt hại về môi trường và dinh dưỡng là do yếu tố chủ quan của con người gây ra. Để hạn chế thiệt hại trên, xin giới thiệu một số phương pháp gây màu đảm bảo ổn định môi trường nước trong ao nuôi tôm nhằm hạn chế thiệt hại và dịch bệnh.

Sau khi chuẩn bị ao, hồ xong tiến hành gây màu nước, mục đích nhằm phát triển vi sinh vật phù du, ổn định màu nước, tạo môi trường thuận lợi cho tôm phát triển nhanh, tăng tỷ lệ sống. Một số phương pháp gây màu đạt hiệu quả cao như sau:

1. Phương pháp thứ nhất:

Theo công thức 2:1:2 (thành phần gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành). Trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm). 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

2. Phương pháp thứ hai:

Theo công thức 3:1:3 (thành phần gồm 3 kg mật đường + 1 kg cám gạo (hoặc cám ngô) + 3 kg bột đậu nành). Công thức này không cần nấu chín, trộn đều sau đó ủ kín trong 12 giờ. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 2 – 3 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm), 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

3. Phương pháp thứ ba: Sử dụng chế phẩm EM

3.1. Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm EM

Đối với con nuôi thủy sản: Điều kỳ diệu là EM có tác dụng tốt đối với mọi loài động vật thủy sản.

  • Tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu của con nuôi với các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
  • Tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ các loại thức ăn của con nuôi.
  • Kích thích tăng trưởng của con nuôi.
  • Tăng sản lượng và chất lượng.
  • Tiêu diệt các vi sinh vật có hại.
  • Hạn chế ô nhiễm môi trường.

Đối với môi trường:

  • Tiêu diệt các vi sinh vật gây ô nhiễm (H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh, chuồng trại, ao nuôi,… sẽ khử mùi hôi nhanh chóng.
  • Giảm số lượng ruồi, muỗi, côn trùng trong môi trường.
  • Khử mùi rác hữu cơ và tăng tốc độ mùn hóa.
  • Ngăn chặn quá trình gây thối, mốc trong bảo quản nông sản.
  • Hiệu quả cao, an toàn với môi trường và giá thành rẻ.

3.2. Sản xuất EM2 từ EM gốc (nhằm hạ thấp chi phí sản xuất):

Nguyên liệu (với thùng chứa 50L):

  • 1 kg mật đường
  • 2 kg cám gạo hoặc bột ngô
  • 10 g muối ăn
  • 1 lít EM gốc
  • 46 lít nước sạch khuẩn

Chế phẩm EM gốc

Cách tiến hành: Với các thể tích lớn hơn (100L, 200L, 500L,…) thì tăng các loại nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng với tăng thể tích.

  • Vô trùng các thùng chứa
  • Lấy 46 lít nước ngọt, sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)
  • Cho 1 kg mật đường, khuấy đều
  • Cho 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, khuấy đều
  • Cho vào 10 g muối ăn, khuấy đều
  • Cho vào 1 lít EM gốc, khuấy đều
  • Đậy nắp ủ yếm khí trong thời gian 7 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý nước: 50 lít EM2/1.000 mnước
  • Xử lý đáy ao: 10 lít EM2/1.000 m2 đáy ao
  • Sử dụng định kỳ trong các ao nuôi: 50 lít EM2/1.000 mnước, trong tháng nuôi đầu 5 – 7 ngày/lần, tháng thứ 2 sử dụng 3 – 5 ngày/lần, tháng thứ 3 trở đi 2 – 3 ngày/lần.
  • Sử dụng xử lý mùi hôi thối: Dùng bình xịt phun EM2 trực tiếp lên bề mặt các nơi sinh ra mùi hôi thối.

Chế phẩm EM2

3.3. Sản xuất EM5 từ EM gốc:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM gốc
  • 1 lít mật đường
  • 1 lít giấm
  • 2 lít rượu

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 2 lít rượu → 1 lít giấm → 1 lít mật đường → 1 lít EM gốc → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 3 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý đáy ao: 5 lít EM5/1.000 m2
  • Xử lý nước: 4 lít EM5/1.000 m3, định kỳ 7 ngày/lần, khi tôm lớn tăng số lần sử dụng.
  • Phòng và trị bệnh: Theo hướng dẫn ở phần cuối

3.4. Sản xuất EM tỏi từ EM5:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM 5
  • 1 kg tỏi xay nhuyễn
  • 8 lít nước sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 8 lít nước → 1 kg tỏi xay nhuyễn → 1 lít EM5 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

  • Phòng bệnh: 1 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn định kỳ.
  • Trị bệnh: Sử dụng liều lượng gấp đôi, cho ăn liên tục 7 – 10 ngày, sau đó quay lại liều phòng.

3.5. Sản xuất EM chuối từ EM2:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM2
  • 1 kg chuối lột vỏ, xay nhuyễn

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 1 kg chuối lột vỏ xay nhuyễn → 1 lít EM2 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

1 lít EM chuối + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn liên tục.

NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH:

– Không sử dụng chế phẩm vi sinh đồng thời với kháng sinh và hóa chất diệt khuẩn.

– Sử dụng đúng liều lượng, không nên theo quan niệm sử dụng càng nhiều càng tốt.

– Chế phẩm vi sinh dạng bột nên dùng nước của ao nuôi hòa tan và sục khí mạnh 2 – 4 giờ trước khi sử dụng để gia tăng sinh khối vi khuẩn.

– Chế phẩm vi sinh dạng nước nên ủ yếm khí để gia tăng sinh khối trước khi sử dụng.

– Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất vào khoảng 8 – 10h sáng, lúc nắng ấm, trời trong và hàm lượng oxy hòa tan cao.

– Cần định kỳ xử lý vi sinh để duy trì mật độ vi khuẩn thích hợp nhằm kiểm soát sinh học môi trường nước và đáy ao, ổn định các yếu tố môi trường ao nuôi, ngăn ngừa các loài vi khuẩn gây bệnh, tảo độc và mầm bệnh tiềm tàng trong ao.

Các yếu tố môi trường ao nuôi ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng chế phẩm vi sinh:

– Oxy hòa tan: Vi khuẩn hiếu khí (Bacillus) và vi khuẩn hiếu khí nghiêm ngặt (VK nitrat) phải đảm bảo lượng oxy hòa tan đầy đủ có hiệu quả sử dụng. Khi oxy hòa tan thấp sẽ sử dụng không có hiệu quả.

– Độ kiềm, độ mặn: nước có độ kiềm cao (80 – 150mg CaCO3/l) → pH ổn định, nước có độ kiềm thấp (50mg CaCO3/l) → pH dao động → hiệu quả sử dụng vi sinh giảm thấp. Độ mặn quá cao → gây chết hoặc ức chế sinh trưởng của vi sinh.

– Thời tiết: ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của tảo và màu nước → ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vi sinh. Sử dụng vi sinh tốt nhất vào buổi sáng trời trong.

– Dinh dưỡng: cần bổ sung C thì vi khuẩn nitrat mới thực hiện phản ứng khử N-NH3 → NO3 có hiệu quả.

Thời gian và tần suất sử dụng:

  •  Nên sử dụng vi sinh ngay từ đầu vụ → hiệu quả cao.
  • Từ giữa vụ đến cuối vụ sử dụng vi sinh → hiệu quả thấp.
  • Đầu vụ 7 – 10 ngày sử dụng một lần, từ giữa đến cuối vụ 3 – 4 ngày sử dụng một lần.

Liều lượng sử dụng:

  • Sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
  • Sử dụng quá nhiều → mất cân bằng sinh thái, DO giảm, vật nuôi bị kích ứng stress.
  • Sử dụng quá ít → không đạt hiệu quả tốt.

Nuôi cấy tăng sinh khối vi khuẩn:

  • Một số chế phẩm vi sinh cần phải nuôi cấy để tăng số lượng vi khuẩn, cần nuôi cấy yếm khí để tránh tạp nhiễm.
  • Một số chế phẩm vi sinh có mật số vi khuẩn cao không cần nuôi cấy tăng sinh khối có thể sử dụng trực tiếp vào ao nuôi. Tuy nhiên cần hòa vào nước và sục khí mạnh vài giờ trước khi tạt vào ao nuôi.

Các nhân tố khác:

  • Nguyên sinh động vật quá nhiều sẽ ăn vi khuẩn → mật độ vi sinh giảm thấp.
  • Sử dụng đồng thời chất diệt khuẩn, kháng sinh, thay nước,… sẽ giảm hiệu quả sử dụng vi sinh.

CÁCH PHÒNG TRỊ MỘT SỐ BỆNH TÔM BẰNG CHẾ PHẨM VI SINH

Tôm nổi đầu do khí độc:

  • Hòa tan 2-3 lít EM gốc vào 20 lít nước lấy từ ao nuôi rồi tạt đều vào ao nuôi ngay lúc tôm nổi đầu.
  • Mở các dàn quạt chạy hết công suất.

Tôm bị mòn đuôi, cụt râu:

  • Sử dụng 2 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn
  • Trộn đều và ủ kín 4 giờ
  • Cho tôm ăn với tỷ lệ: 1kg/100.000 tôm giống/ngày
  • Hoặc sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp 3 lần với khoảng cách 2 ngày/lần.

Tôm bị đóng rong:

  • Dùng 4 lít EM5/1.000 m2, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tảo chết nhiều → pH thấp → dùng vôi để nâng pH.

Tôm bị bệnh đốm trắng:

  • Sử dụng 5 lít EM5/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tôm lột xác nhiều ngừng sử dụng EM5 và sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/2 ngày, dùng liên tiếp đến khi bệnh đốm trắng giảm dần (Thái Lan đã sử dụng có hiệu quả trên 10 năm).

Nguồn: Trung tâm khuyến nông quốc gia được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tiêu chuẩn GAP là gì?

Hẳn chúng ta ai cũng đã từng nghe qua những câu “Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP”, “Sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn GloabalGAP”, tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về VietGAP, GlobalGAP . Vậy những tiêu chuẩn đó là gì?

Gap là cụm từ Good Agricultural Pratices được viết tắt là G-A-P dịch sang tiếng Việt là “Thực hành nông nghiệp tốt”.

   Nguồn gốc GAP

Từ năm 1997, theo sáng kiến của những nhà bán lẻ Châu Âu (Euro-Retailer Produce Working Group) nhằm giải quyết mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khách hàng của họ. Họ đã đưa ra khái niệm GAP.

2   GAP trên toàn thế giới- GLOBALGAP

Từ ngày 7/9/2007, hệ thống EurepGAP (GAP của Châu Âu) được nâng lên thành GLOBALGAP (GAP của toàn Cầu). Đó là một tổ chức GAP của tư nhân được toàn thế giới hưởng ứng. Điểm quan trọng nhất của GLOBALGAP:

  1. An toàn thực phẩm.
  2. Truy nguyên được nguồn gốc của sản phẩm khi có sự cố xảy ra.
  3. Sự an toàn của người lao động.
  4. Sức khỏe và an sinh xã hội.
  5. An toàn cho môi trường. GLOBALGAP là tiêu chuẩn quy trình sản xuất của tổ chức làm ra sản phẩm (Prefarmgate).

Nghĩa là chứng chỉ đó bao trùm một chuỗi quy trình sản xuất xuyên suốt từ gieo hạt giống cho đến khi đưa sản phẩm ra khỏi nông trại.

GLOBALGAP được áp dụng cho rau, cây ăn quả, hoa, cây cảnh, cà phê hạt, trà, heo, gia cầm, cừu và gia súc, bò sữa, thủy sản, một số sản phẩm khác đang xây dựng.

Những yêu cầu chính để thực hiện GLOBALGAP

– Sản phẩm sản xuất ra phải được đăng ký nơi sản xuất rõ ràng.

– Cơ sở phải xây dựng hệ thống kỹ thuật và quản lý sản xuất hoàn chỉnh đến sản phẩm cuối cùng.

– Quy trình sản xuất, bón phân, BVTV có thể linh họat điều chỉnh cho phù hợp.

– Quản lý chặt chẽ kho thuốc, và dư lượng thuốc BVTV trong nông sản.

– Hồ sơ sản xuất (trước và sau thu họach) ghi chép, hồ sơ đầy đủ để có thể truy nguyên được nguồn gốc sản phẩm.

Thực hành sản xuất theo GAP có lợi gì cho người sản xuất, và sẽ gặp những trở ngại gì?

Sự có lợi của GAP ở chỗ những quy định, quy tắc và tiêu chuẩn của chất lượng và độ an toàn của nông sản được xác định rõ ràng, minh bạch tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường đánh giá, làm giảm đi những rủi ro của dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) và những tạp chất có hại khác.

Những thử thách, trở ngại chính của chương trình GAP là sự tăng giá thành sản phẩm do công việc ghi chép chứng từ, tập hợp hồ sơ suốt quá trình sản xuất, kiểm tra dư lượng hóa chất và những tạp chất khác trong nông sản, để đủ dữ kiện để có thể truy nguyên được nguồn gốc của sản phẩm. Ngoài ra còn phải đầu tư cho những công việc như đánh giá, và xây dựng hệ thống thông tin để quản lý GAP.

3   GAP của  khu vực Châu Á – ASEANGAP

ASEANGAP được thành lập bởi Hiệp Hội ASEAN, năm 2006. ASEANGAP có những tiêu chí như sau:

–         An toàn nông sản.

–         An toàn môi trường.

–         Sức khỏe cho người lao động, an sinh xã hội.

–         Chất lượng nông sản.

4   GAP của một số nước

Một số nước đã có GAP áp dụng cho thị trường của mỗi nước.

– Thailand: Q GAP và ThaiGAP, do Bộ Nông Nghiệp & Hợp tác xã Thailand đưa ra.

– Japan: JGAP, do một nhóm người sản xuất xây dựng nên năm 2005, đến 2006 Bộ Nông nghiệp công nhận JGAP là quy trình sản xuất tốt của Nhật Bản. Tháng 8/07 Nhật Bản công nhận GLOBALGAP là quy trình sản xuất tốt của Nhật.

– Ấn độ: IndiaGAP: được thành lập bởi tổ chức quản lý chế biến xuất nhập khẩu nông sản của Ấn độ. Riêng nông sản xuất sang Châu Âu, Ấn độ sử dụng tiêu chuẩn GLOBALGAP.

– Trung Quốc: ChinaGAP được thiết lập bởi Nhà Nước Trung Quốc cho nông sản và thực phẩm. Tháng 4/2006 ChinaGAP được hòa nhập với GLOBALGAP đối với nông sản xuất khẩu.

– Malaysia: SALMGAP, do Bộ Nông Nghiệp Malaysia đưa ra. Phòng kiểm tra chất lượng (Crop Quality Control Division) thuộc Cục Nông nghiệp- Bộ Nông nghiệp Malaysia là đơn vị tổ chức hướng dẫn, kiểm tra và cấp chứng chỉ SAlMGAP cho rau hoa quả.

5   GAP của Việt Nam

VietGAP: Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau, quả tươi an toàn tại Việt Nam (Good Agricultural Practices for production of fresh fruit and vegetables in Vietnam) được Bộ Nông Nghiệp&PTNT Việt Nam ban hành vào 28/01/2008.

Mười hai nội dung quy trình thực hành VietGAP

  1. Đánh giá và lựa chọn vùng sản xuất.
  2. Giống và gốc ghép.
  3. Quản lý đất.
  4. Phân bón và chất phụ gia.
  5. Nước tưới.
  6. Hóa chất (Bao gồm cả thuốc BVTV).
  7. Thu hoạch và xử lý sau thu hoạch.
  8. Quản lý và xử lý chất thải.
  9. Người lao động.
  10. Ghi chép, lưu trữ hồ sơ, truy nguyên nguồn gốc và thu hồi sản phẩm.
  11. Kiểm tra nội bộ.
  12. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.