Trồng bí đao, trồng ớt sừng vàng thu 200 triệu mỗi năm

Với số tiền 170 triệu đồng từ Quỹ Hỗ trợ nông dân, các thành viên Tổ hợp tác (THT) trồng màu khu vực Phú Thạnh, phường Tân Phú, quận Cái Răng (TP.Cần Thơ) đã xây dựng được mô hình trồng màu hiệu quả, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Làm ruộng mà thiếu vốn

Nguồn vốn hỗ trợ THT trồng màu khu vực Phú Thạnh là từ Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng và nguồn xây dựng quỹ này từ Hội ND dân phường Tân Phú. Tuy quy mô nguồn vốn còn khiêm tốn nhưng đã phát huy hiệu quả đối với nông hộ trồng màu và có liên kết với nhau thông qua hình thức THT.

Nhờ vay được nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng, ông Đặng Văn Hên đã có thu nhập ổn định

Năm 2017, THT trồng màu khu vực Phú Thạnh được thành lập với diện tích 5,8ha và có 12 thành viên tham gia. Do thiếu vốn, nhiều thành viên THT gặp khó khăn trong sản xuất. Năm 2017, Hội ND quận Cái Răng và Hội ND phường Tân Phú tạo điều kiện cho các thành viên trong tổ vay 170 triệu đồng để phát triển sản xuất.

Ông Đặng Văn Hên (ở Phú Thạnh), vui mừng cho biết: “Nói làm ruộng nhưng thiếu vốn thì nông dân cực lắm. Tôi vay được 10 triệu đồng từ nguồn Quỹ Hỗ trợ nông dân quận để đầu tư mua giống, phân thuốc trồng màu. Nhờ có số tiền này, gia đình tôi mua hạt giống, phân, thuốc để đầu tư trồng 3,5 công màu. Đến nay, trung bình mỗi năm gia đình thu nhập gần 200 triệu đồng từ các loại rau củ quả…”.

Ông Hên cho hay, 3,5 công màu của gia đình trước đây trồng 3 vụ lúa/năm nhưng hiệu quả kinh tế mang lại không cao bởi chi phí lớn, trong khi giá bán lúa không ổn định. Từ cuối năm 2016, ông Hên chuyển sang trồng màu chuyên canh, thu nhập gia đình được cải thiện rõ rệt.

Trong các loại cây màu, ông Hên tâm đắc nhất là bí đao vì nhẹ công chăm sóc nhưng cho thu nhập khá cao. Ông Hên cho biết: “1 công bí đao có thể đạt năng suất từ 3 – 6 tấn. Tùy thời điểm, bí đao bán được giá từ 3.000 – 5.000 đồng/kg. Trung bình, mỗi công trồng bí đao cho thu nhập không dưới 50 triệu đồng/năm, cao gấp 5 lần so với trồng lúa, trong khi đó chi phí nhân công, phân, thuốc đều giảm đi nhiều so với làm lúa…”.

Hiện tại, gia đình ông Hên trồng màu quanh năm, vụ trồng bí đao, dưa leo, vụ khác lại trồng ớt, rau xanh. Các loại sản phẩm rau màu ông Hên làm ra được các thương lái đến thu mua nên không phải lo đầu ra và an tâm sản xuất. Từ khi chuyển sang trồng màu, cánh đồng của THT trồng màu khu vực Thạnh Phú lúc nào cũng ngan ngát màu canh của rau trái. Không khí lao động, sản xuất của mỗi hộ thành viên theo đó cũng phấn chấn, tạo động lực cho THT phát triển.

Trợ lực để nông dân sản xuất hàng hóa

Cũng được vay 15 triệu đồng từ Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng, hộ ông Nguyễn Văn Hùng (ở Phú Thạnh), cho biết: “Năm 2018, tôi trồng gần 300 gốc ớt sừng vàng thu nhập khoảng 15 triệu đồng. Thấy cây ớt sừng vàng mang lại hiệu quả kinh tế cao, nên gia đình tôi thuê thêm 1 công đất để trồng giống ớt này. So với làm lúa, trồng ớt sừng vàng cho thu nhập khá hơn, trong đó lại nhẹ công chăm sóc… Thêm vào đó, phần đầu tư cây giống, phân thuốc được vay từ nguồn Quỹ Hỗ trợ nông dân nên chúng tôi cũng phấn khởi…”. Ngoài ớt sừng vàng, ông Nguyễn Văn Hùng còn trồng thêm các loại rau xanh, rau cải bán để có nguồn thu nhập hàng ngày.

Theo tập quán sản xuất truyền thống, nông dân thấy cây màu nào trồng cho thu nhập cao là phát triển với diện tích lớn, dẫn đến tình trạng thừa hàng, dội chợ thu nhập không cao, thậm chí còn bị thua lỗ. Nhận thấy được điều đó, năm 2017, nhiều nông dân khu vực Thạnh Phú đã liên kết với nhau và thành lập THT trồng màu.

Nhờ liên kết sản xuất, các thành viên trong tổ được các cấp Hội ND quan tâm, tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất. Đến nay, nhiều thành viên trong THT trồng màu khu vực Thạnh Phú đã mạnh dạn phát triển mô hình trồng màu chuyên canh và cung cấp ra thị trường với số lượng lớn dưa leo, rau cải…

Ông Phạm Thanh Dũng -Chủ tịch Hội ND phường Tân Phú, cho biết: “Từ nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng và nguồn xây dựng quỹ này của Hội ND phường đã giúp cho các thành viên trong THT trồng màu Thạnh Phú có điều kiện phát triển sản xuất. Ngoài ra, Hội ND phường còn phối hợp các ngân hàng, tạo điều kiện cho 295 hộ vay gần 10 tỷ đồng.

“Các thành viên trong Tổ Hợp tác trồng màu khu vực Thạnh Phú sau khi tiếp cận nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân đã phát triển nhiều mô hình kinh tế hiệu quả, có thu nhập ổn định, đời sống từng bước được nâng cao. Qua đó, ý nghĩa của Quỹ Hỗ trợ nông dân và vai trò của Hội được nâng lên…” – Ông Phạm Thanh Dũng, Chủ tịch Hội Nông dân
phường Tân Phú cho hay.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Chính thức: Lô xoài Việt Nam đầu tiên đi máy bay sang Mỹ

Sau 10 năm đàm phán, xoài Việt Nam đã được xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Theo đó, tỉnh Đồng Tháp là nơi có lô xoài đầu tiên được xuất khẩu.

Sáng nay (18.4), tại tỉnh Đồng Tháp, Bộ NNPTNT phối hợp với UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức lễ công bố xuất khẩu lô xoài đầu tiên của Việt Nam sang Hoa Kỳ.

Các đại biểu làm nghi thức chào mừng lô xoài đầu tiên của Việt Nam sang Hoa Kỳ

Xoài là loại quả tươi thứ 6 của Việt Nam được cấp phép xuất khẩu sang thị trường Mỹ, trước đó là thanh long (2008), chôm chôm (2011), nhãn và vải (2014), vú sữa (2017).

Để trái xoài vào Hoa Kỳ, Cục Bảo vệ thực vật đã nộp hồ sơ xin mở cửa thị trường từ năm 2009. Đến ngày 18.2.2019 vừa qua, tại Hà Nội, Cục Bảo vệ thực vật đã phối hợp với Văn phòng của Cục Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (APHIS) tổ chức “Lễ công bố xuất khẩu xoài của Việt Nam sang Hoa Kỳ”.

Xoài Đồng Tháp được xuất sang Hoa Kỳ

Tại buổi lễ, ông Nguyễn Thanh Hùng – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cho biết, đơn vị xuất khẩu lô hàng xoài đầu tiên này là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu, đơn vị nhập khẩu là Công ty Trái cây nhiệt đới Đại Tân, đơn vị cung ứng sản phẩm xoài là Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương (huyện Cao Lãnh).

“Sau hơn 10 năm đàm phán, chúng tôi rất mừng khi xoài Việt Nam, trong đó có Đồng Tháp được xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Đây là kết quả nỗ lực rất lớn của Bộ NNPTNT, Bộ Công Thương, cơ quan chức năng phía Hoa Kỳ đồng ý nhập khẩu xoài Việt Nam. Có thị trường đã khó, giữ thị trường càng khó khăn hơn vì vậy, người dân sản xuất xoài, đơn vị xuất khẩu phải đảm bảo cung cấp sản phẩm chất lượng, an toàn” – ông Hùng nói.

Cũng theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, hiện nay, Đồng Tháp có diện tích trồng xoài lớn nhất khu vực ĐBSCL với khoảng 9.300 ha. Theo đó, 2 giống xoài chủ lực đã đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của địa phương này là xoài Cao Lãnh và xoài cát chu Cao Lãnh.

Đến nay, xoài Việt Nam đã được xuất khẩu sang 40 nước trên thế giới, trong đó có châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand… Các giống xoài được xuất khẩu là xoài cát Hòa Lộc, xoài cát Chu, xoài tượng da xanh, xoài keo,…

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

“Phát sốt” với giá cao, mít Thái “leo” lên đồi núi xứ Nghệ

Giống mít Thái siêu sớm đang được người tiêu dùng quan tâm và săn lùng trên thị trường cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng. Ở huyện miền núi Con Cuông (Nghệ An), một số hộ trồng loại mít này đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, đem về thu nhập ổn định cho gia đình.

Trước đây, nông dân tỉnh Nghệ An chủ yếu trồng giống mít truyền thống (mít dai, mít mật), sau khoảng 4 – 5 năm mới cho thu hoạch. Với mong muốn cung ứng ra thị trường sản phẩm mít quanh năm, thời gian qua, nhiều gia đình ở huyện Con Cuông đã mạnh dạn đưa giống mít Thái siêu sớm vào trồng, kết quả thu lại hơn cả mong đợi.

Người dân trồng mít Thái mang lại hiệu qua kinh tế cao

Bà Trần Thị Hương, một trong những hộ nông dân trồng mít Thái siêu sớm ở huyện Con Cuông nói: “Không như những giống mít khác, mít Thái siêu sớm ít xơ, múi giòn, vị ngọt đậm và thơm nên giá bán khá cao, từ 20.000 – 30.000 đồng/kg. Hiện, gia đình tôi có hơn 50 cây, bình quân mỗi cây cho 5 – 10 quả”.

Là người tiên phong đưa cây mít Thái về trồng tại địa phương, chị Hà Thị Anh ở thôn Tân Dân, xã Bồng Khê cho biết: “Năm 2017, gia đình tôi nghiên cứu và tìm hiểu giống mít Thái rồi quyết định ra Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Hà Nội) để mua 100 cây mít Thái, mỗi cây giống giá 50.000 đồng. Trên diện tích 2.800 m2 trước đây chỉ trồng cây ngắn ngày, tôi đã trồng 100 gốc mít, hiện đang đến kỳ thu hoạch”.

“Giống mít Thái siêu sớm trồng sau khoảng 18 tháng là cho thu hoạch, sản lượng tăng dần từ năm thứ hai trở đi. Mỗi cây mít Thái siêu sớm chỉ cao khoảng 2 – 3m nhưng đã cho khoảng 5 – 8 quả/cây; mỗi quả nặng từ 3 – 5kg. Mặc dù mới năm thứ 2, nhưng gia đình tôi đã thu được hàng chục triệu đồng” – chị Hà Thị Anh cho biết thêm.

Giống mít Thái siêu sớm trồng sau khoảng 18 tháng bắt đầu cho thu hoạch; trung bình mỗi cây cho từ 5 – 10 quả

Anh Nguyễn Văn Tấn ở thôn Lam Trà, xã Bồng Khê cũng đang trồng gần 100 cây mít Thái. Anh Tấn cho biết: “Trồng mít không tốn nhiều chi phí, kỹ thuật chăm sóc như cây nhãn, cây cam nhưng đòi hỏi phải thường xuyên tưới nước, bón phân và theo dõi để phòng trừ các loại sâu đục thân, đục quả” .

Để cây mít cho năng suất cao và chất lượng tốt, sau mỗi lần thu hoạch quả phải cắt bỏ bớt cành thừa, cành nhỏ và yếu để cây nhận đủ ánh sáng giúp quả to và ngọt. Ngoài ra, nên tỉa bỏ những quả đầu cành, chỉ giữ lại những quả ôm thân và gần gốc để đạt chất lượng tốt nhất.

Để tránh sâu bệnh gây hại, người dân dùng bao bọc lại cẩn thận từng quả mít.

“Muốn mít cho năng suất cao và chất lượng, năm đầu ra quả, chỉ giữ tối đa khoảng 3 – 4 quả/cây. Khi cây đã trưởng thành, số quả có thể tăng lên nhiều hơn. Đặc biệt, mít Thái siêu sớm trồng càng lâu năm múi sẽ càng có vị ngọt đậm, thơm ngon” – anh Tấn cho biết thêm.

Vườn mít Thái 100 cây của gia đình chị Hà Thị Anh ở thôn Tân Dân, xã Bồng Khê đang cho thu hoạch

Hiện, trên địa bàn xã Bồng Khê có 5 hộ trồng tập trung từ 50 -100 cây; còn lại chủ yếu trồng xen canh cùng nhiều loại cây ăn quả khác. Mặc dù cây mít Thái đang cho hiệu quả kinh tế cao, nhưng cơ quan chức năng khuyến cáo người dân cần thận trọng, không nên ồ ạt mở rộng diện tích nhằm tránh tình trạng cung vượt cầu, rớt giá.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Kiên Giang: Mang rau dại thả ruộng, tốt vù vù

Hộ gia đình ông Phạm Văn Lợi Em, ngụ tại ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành (Kiên Giang) thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm từ mô hình trồng cù nèo. Cù nèo vốn là loại rau đồng mọc hoang dại khắp nơi. Thế nhưng loài rau dại này lại đang mang về thu nhập cao cho nhiều hộ dân. Đây là chuyện lạ ở Kiên Giang.

Trong những năm qua, nhiều bà con nông dân tại xã Mong Thọ, huyện Châu Thành đã chuyển đổi một phần diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng các loại rau màu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong đó, trồng cù nèo là một trong những loại rau màu được bà con nơi đây lựa chọn để phát triển kinh tế gia đình bởi dễ trồng và đầu ra ổn định…

Ông Phan Văn Lợi Em, ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành (Kiên Giang) hái rau cù nèo để bán

Gia đình ông Phạm Văn Lợi Em và Bà Trần Thị Hải, ngụ tại ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành có 5 công ruộng, trước kia trồng lúa kém hiệu quả, đời sống gia đình khó khăn. Lúc đầu gia đình ông Lợi Em thấy cù nèo mọc xung quanh nhà xanh tốt, và cắt đem ra chợ bán, thấy người tiêu dùng cũng ưa chuộng.

Ông Phạm Văn Lợi Em bèn bắt đầu nhân giống trồng thử nghiệm loài rau dại này trên 1 công đất ruộng. Sau vài năm trồng cù nèo, thấy thu nhập ngày càng khá, ông Em bèn nhân rộng ra cả 4 công đất còn lại. Hiện tại, mỗi ngày thu nhập từ bán cù nèo của gia đình ông từ 700 đến trên 800 ngàn đồng, đời sống kinh tế gia đình ổn định và thoát nghèo.

Bà Trần Thị Hải, Ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành cho biết thêm: Lúc trước trồng lúa với diện tích nhỏ cuộc sống tôi khổ lắm, bây giờ thì trồng cù nèo cuộc sống tôi khỏe rồi, kinh tế cũng ổn định.

Mô hình trồng cù nèo của gia đình ông Lợi Em; bà Hải được đánh giá là có hiệu quả kinh tế cao, được nông dân trong và ngoài huyện thường xuyên đến tham quan học hỏi và cù nèo được xem là cây rau màu đã giúp nông dân giảm nghèo, có thu nhập khá, có thể tận dụng trồng xung quanh nhà với các hộ dân ít đất canh tác.

Ông Nguyễn Quốc Sỹ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mong Thọ, huyện Châu Thành có nhận xét: Đối với mô hình trồng cù nèo ở xã trồng rất hiệu quả, đem lại lợi nhuận kinh tế cao, cần khuyến khích nhân rộng.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Kiên Giang: Năm nào cũng “đào” được 300 triệu từ khoai lang Bông Súng

Với 1ha đất trồng khoai lang Bông Súng, mỗi năm lão nông Huỳnh Văn Thơm (Mười Thơm), ngụ khu phố 6, thị trấn Giồng Riềng (Giồng Riềng, Kiên Giang) thu nhập hơn 300 triệu đồng, trừ chi phí làm bờ bao, lên liếp, phân bón, lợi nhuận gần 150 triệu đồng. Trong khi đó, ở nhiều địa phương người trồng khoai lang năm được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa…

Với 1ha đất trồng khoai lang, mỗi năm lão nông Huỳnh Văn Thơm (Mười Thơm), ngụ khu phố 6, thị trấn Giồng Riềng (Giồng Riềng, Kiên Giang) thu nhập hơn 300 triệu đồng, trừ chi phí làm bờ bao, lên liếp, phân bón, lợi nhuận gần 150 triệu đồng.

Nhiều người tò mò trong khi giá khoai lang trên thị trường nhiều năm gần đây rất bấp bênh, nhiều gia đình bán đất , sang ruộng vì giá khoai lao dốc, nhưng ông Mười Thơm vẫn sống khỏe với loài cây trồng đã có mặt ở khu phố 6 từ mấy chục năm nay.

“Kinh nghiệm của tôi là canh thời điểm xuống giống khoai lang lúc ít nơi trồng được, để không bị dội chợ và bán được giá cao. Ngoài ra, kỹ thuật làm đất trồng khoai lang cũng cực kỳ quan trọng, quyết định vụ khoai thất bại hay thắng lợi” – ông Mười Thơm thiệt thà nói.

Ông Mười Thơm, thị trấn Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang bên luống khoai lang giống Bông Súng đang được ươm mới

Với kinh nghiệm theo dõi thị trường của mình, ông Mười Thơm nhận thấy, thông thường mùa nước nổi các vùng trồng khoai lang lớn trong vùng ĐBSCL sẽ ít trồng được khoai lang do ảnh hưởng lũ lên. Nhất là những nơi mực nước lũ cao, không có đê bao kiên cố sẽ không thể trồng khoai lang được. Vậy là cứ khoảng tháng 7 âm lịch ông Mười Thơm lại âm thầm thuê người cuốc dòng, lên luống rồi giâm dây khoai lang xuống.

Cứ như thế, mỗi năm ông Mười Thơm trồng được 2 vụ khoai lang Bông Súng. Để giữ gien giống khoai lang địa phương có từ thời cha ông để lại, cứ khoảng tháng 2 âm lịch hàng năm, ông lại chọn những luống khoai có củ sai, to, trọng lượng khoảng 500gr/củ, cuống nhỏ để ương lấy dây làm dây khoai giống.

Nhờ nhiều năm kinh nghiệm, ông Mười Thơm, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang vẫn thu lãi 150 triệu đồng/năm từ khoai lang Bông Súng

Theo ông Mười Thơm, mỗi củ khoai giống khi ương có thể cho 25-50 chồi. Với 20 củ khoai giống, ông có thể nhân ra được 400 dây giống, sau đó tiếp tục trồng ở một khu vực riêng để trồng làm dây giống phục vụ ruộng khoai của gia đình và chia cho bà con trong ấp cùng trồng.

Ở tuổi 70, với 50 năm kinh nghiệm trong nghề trồng khoai lang Bông Súng, ông Mười Thơm cho biết: “Trồng khoai lang sợ nhất là khoai bị sùng. Để hạn chế việc sử dụng thuốc hóa học ngừa sâu, hà gây hại ruộng khoai lang, kinh nghiệm của tôi là sau khi thu hoạch khoai xong sẽ ban luống khoai cho bằng phẳng lại, rồi cho nước vào ngập ruộng ngâm suốt trong 15 ngày để diệt mầm bệnh trên ruộng khoai”.

Ngoài ra, trước khi cuốc giòng, ông Mười Thơm xử lý vôi bột trên mặt luống để hạ phèn, giúp khoai sinh trưởng tốt. Với những kinh nghiệm này đã giúp năng suất ruộng khoai lang nhà ông Mười Thơm luôn mức 12-15 tấn/ha.

Có lẽ vì điều kiện đồng đất của thị trấn Giồng Riềng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang cùng với nguồn nước ngọt mát lành quanh năm từ kênh Bông Súng hiền hòa, sự cần mẫn tâm huyết của những lão nông gắn bó nhiều năm với củ khoai như ông Mười Thơm đã góp phần làm nên hương vị đặc trưng của củ khoai lang Bông Súng, ít nơi nào sánh được.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Chuối già lùn huyện A Lưới

Từ cây trồng xóa nghèo ở vùng cao huyện A Lưới (Thừa Thiên – Huế), qua nhiều bước “chuyển mình” chuối già lùn đã tìm được chỗ đứng trên thị trường và dần khẳng định thương hiệu.

Chuối già lùn mang lại thu nhập khá cho người dân huyện A Lưới

Anh Hồ Văn Gian ở xã Hồng Kim, A Lưới chia sẻ: “Chuối già lùn dễ trồng, phù hợp thổ nhưỡng địa phương, ít công chăm bón lại cho năng suất cao. Hơn 200 gốc chuối già lùn cho gia đình tôi thu hoạch 2 – 3 buồng/ngày, giá bán 5 – 8 ngàn đồng/kg, thu nhập gần 100 ngàn đồng/ngày. Tôi đang đăng kí mua thêm 50 cây giống để tiếp tục trồng”.

Ông Nguyễn Văn Chở, Phó Chủ tịch UBND xã Hồng Bắc cho hay: “Chuối già lùn được trồng rải rác ở các thôn, một số gia đình trồng tập trung với quy mô gần 5ha, hằng năm thu nhập trên dưới 200 triệu đồng/hộ. Chuối được trồng khá tự nhiên, ít sử dụng các loại phân bón hóa học nên rất được thương lái ưa chuộng. Năm nay, bà con có thu nhập khá vì chuối được giá”.

Hiện, huyện A Lưới có khoảng 387ha chuối, trong đó diện tích chuối già lùn 116ha, năng suất đạt bình quân 280 tạ/ha, mỗi ha cho thu nhập trên dưới 100 triệu. Nhờ trồng chuối mà đời sống của nhiều hộ dân được cải thiện.

Chuối già lùn A Lưới được Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm thủy sản Thừa Thiên – Huế cấp giấy chứng nhận an toàn. Thời gian gần đây, chuối bắt đầu “xuống phố” và tìm được chỗ đứng trên thị trường. Đầu năm 2019, nông dân A Lưới đón nhận một tin vui khi sản phẩm chuối già lùn chính thức được đưa lên kệ hàng của siêu thị Big C với khoảng 15 tấn được tiêu thụ mỗi tháng. Cùng với đó, chuối già lùn cũng đã góp mặt tại nhiều hội chợ thương mại, thị trường một số tỉnh phía Nam và được đưa lên bàn ăn của học sinh trong tỉnh.

Sở dĩ, chuối già lùn A Lưới nhanh chóng tạo dựng được nhiều người lựa chọn vì quá trình SX không sử dụng thuốc BVTV, sản phẩm không có chất bảo quản. Thế nhưng, người trồng chuối địa phương vẫn gặp khó khăn như diện tích trồng còn phân tán, manh mún; trình độ thâm canh chưa cao; đầu ra vẫn chưa ổn định…

Để xây dựng thương hiệu chuối già lùn, đồng thời khắc phục tình trạng thoái hóa giống, góp phần nâng cao năng suất, huyện A Lưới đã triển khai SX theo hướng hàng hóa bằng giống cấy mô; trồng tập trung tại các xã Hồng Bắc, Hồng Thủy, Hồng Vân… Cùng đó, huyện cử cán bộ khuyến nông phổ biến kỹ thuật SX và bảo quản sản phẩm cho nông dân.

Chuối già lùn có mặt tại siêu thị Big C

Bà Nguyễn Thị Hải Thúy, Phó phòng NN-PTNT A Lưới cho biết: “Trồng giống cấy mô cây khỏe mạnh nên ít sâu bệnh, chất lượng cao hơn. Phòng đã tổ chức những buổi tập huấn bà con cách chăm sóc, bón phân, bảo quản để sản phẩm không bị hư, xanh đẹp”.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch UBND huyện A Lưới chia sẻ, để phát triển thương hiệu chuối già lùn, huyện đã có những chính sách như giao đất, hỗ trợ vốn vay, chuyển giao KHKT và vận động người dân cải tạo vườn đồi để hình thành vùng SX chuối quy mô lớn và đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Cùng đó, huyện đã thành lập HTX Sản xuất và kinh doanh nông sản an toàn do Hội Phụ nữ huyện đảm nhiệm, mục đích SX chuối già lùn theo quy trình VietGAP; tham gia mở các gian hàng tại hội chợ, giới thiệu sản phẩm đến khách hàng…

Tổng hơp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Kỳ vọng từ mô hình trồng mướp đắng theo hướng hữu cơ

Với lợi thế thuận lợi về điều kiện tự nhiên, những năm qua nhiều hộ dân ở thôn Bản Cầy, xã Như Cố, huyện Chợ Mới (Bắc Kạn) đã mạnh dạn đầu tư vốn, kỹ thuật để hình thành mô hình trồng mướp đắng tập trung đem lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là sản xuất trà mướp đắng theo hướng hữu cơ.

Mô hình trồng mướp đắng được triển khai tại hợp tác xã Nông nghiệp Thanh niên Như Cố với diện tích 5000m2. Sau thời gian trồng thử nghiệm, nhờ tuân thủ đúng quy trình và kỹ thuật nên năng suất, sản lượng tăng đều so với các năm trước đây. Đặc biệt, mướp đắng không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng.

Trồng mướp đắng đem lại thu nhập cao cho bà con

Anh Lường Đình Hùng thành viên hợp tác xã cho biết, mướp đắng là cây dễ trồng lại rất phù hợp với điều kiện khí hậu tại địa phương. Hạt giống được ủ, ươm hom, đóng bầu, sau khi cây đã phát triển và cao tầm 10cm thì đem ra đất trồng. Tận dụng nguyên liệu sẵn có ở địa phương là tre, nứa để làm giàn, hệ thống lưới che. Trong quá trình làm giàn lưu ý chỉ để giàn cao tầm 1,5m thuận tiện cho việc thu hoạch.

Đây là loại cây có sức sống khá dẻo dai và không hề tốn nhiều công chăm sóc. Muốn cây sinh trưởng, phát triển tốt luôn giữ độ ẩm khoảng 65%, chủ yếu bón bằng phân chuồng như phân trâu, bò. Ngoài ra, để phòng ngừa bệnh người dân thực hiện phương pháp dụ côn trùng và bắt sâu. Hoặc sử dụng các chế phẩm sinh học như gừng, tỏi, ớt. Khoảng thời gian 120 ngày cây sẽ cho thu hoạch, trung bình cứ 1ha sẽ đạt năng suất 20 tấn quả, một năm thu hoạch 15 – 20 lứa. Sau đó, sản phẩm được người dân thu gom về, thái lát thủ công, sấy khô tư nhiên và đóng gói.

Kỹ thuật trồng đơn giản, cây trồng phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương nên chưa hề phát hiện ra sâu bệnh

Tham gia mô hình ngoài lợi ích về môi trường, bà con còn thấy rõ hiệu quả về kinh tế. Trước đây, với sản phẩm tươi người dân đem ra chợ bán với giá thành rất rẻ chỉ từ 7000 – 10.000 đồng/ kg. Tuy nhiên, khi chế biến sản phẩm thành trà giá thành của trà mướp đắng lên tới 500.000 đồng/ kg khô cao hơn gấp nhiều lần so với mướp đắng tươi thông thường. Đồng thời, vừa bảo quản được lâu mà lại dễ dàng vận chuyển. Nhờ đó, đã đem lại nguồn thu nhập hàng trăm triệu đồng cho bà con.

Hiện hợp tác xã Nông nghiệp Thanh niên Như cố đang sản xuất ra nhiều sản phẩm an toàn và hướng hữu cơ như trà mướp đắng, mật ong rừng, bún khô, rượu Khuổi Chủ, Gạo nếp nương ( khẩu nua rầy), rau củ quả (Rau Bò Khai, Dưa lê, dưa hấu, cà chua…). Đặc biệt, trong đó trà mướp đắng được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao của tỉnh Bắc Kạn năm 2018. Nếu tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất nông sản sạch thì hiệu quả, giá trị lại càng cao và sản phẩm càng được nhiều người tiêu dùng biết đến, ưa chuộng.

Sản phẩm trà mướp đắng được bày bán trên thị trường

Anh Hà Văn Cường, giám đốc hợp tác xã cho biết, theo nghiên cứu trà mướp đắng rừng rất tốt cho sức khỏe, giúp thanh lọc cơ thể, mát gan, giải độc, phòng chống ung thư, bệnh tiểu đường, cao huyết áp…Ngoài ra, kỹ thuật trồng đơn giản, cây trồng phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương, đem lại hiệu quả kinh tế gấp nhiều lần so với trồng lúa ngô. Do đó, diện tích trồng trên địa bàn xã càng ngày càng tăng và góp phần tăng cho thu nhập cho người dân. Hiện, sản phẩm có mặt và được bày bán ở nhiều cửa hàng, siêu thị trong tỉnh nói riêng và trên cả nước nói chung.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Con tôm ôm rơm lúa

Hàng chục hộ dân trên địa bàn huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) thực hiện mô hình dùng rơm lúa để cải tạo nước, tạo môi trường sinh sống cho các loài thủy sản dưới vuông nuôi, bước đầu cho thấy hiệu quả.

Cuộn rơm được thả xuống vuông nuôi, tạo môi trường trú ẩn cho con tôm.

Theo đó, khi rơm lúa gặp môi trường nước lâu dần sẽ tạo ra chất xúc tác làm giảm độ kiềm trong vuông nuôi. Đồng thời, tạo ra nơi tránh trú cho tôm trong mùa nắng nóng. Khi rơm mục, sẽ tạo ra nguồn thức ăn cho các loài thủy sản, nhất là tôm, cua.

Ông Trần Minh Châu, ngụ ấp Ông Như, xã Tân Ân Tây là người đầu tiên áp dụng mô hình này. Trước khi thả rơm vào vuông, ông tiến hành bó các cuộn rơm lại. Sau đó, dùng cây cố định để rơm nổi lên mặt nước và không bị trôi. Sau 10 – 15 ngày rơm sẽ chìm trong nước, ông mới tiến hành thả giống. Cách làm này vừa tạo chỗ ở cho tôm, vừa tạo thức ăn sau này cho các loài giáp xác.

Sau khi áp dụng kỹ thuật dùng rơm lúa để tạo nơi trú ẩn, nguồn thức ăn cho thủy sản nuôi, trung bình mỗi tháng ông Châu có thu nhập hơn 30 triệu đồng. Hiện tôm đang trong giai đoạn phát triển tốt. Đây là đợt trúng nhất của gia đình ông Châu trong 10 năm qua.

Thấy hiệu quả từ rơm lúa mang lại cho con tôm, nhiều hộ dân trên địa bàn xã Tân Ân Tây đã mạnh dạn áp dụng. Hầu hết đều dùng rơm lúa kết hợp men vi sinh để cải tạo nước, giúp các đối tượng nuôi phát triển nhanh.

“Trước đây khi thả giống, hầu hết người dân chỉ thực hiện theo phương thức nuôi truyền thống, khó kiểm tra, phát hiện vật nuôi nhiễm bệnh. Nhưng với cách làm này con tôm, con cua bám vào rơm lúa để sinh sống, phát triển rất nhanh và rất dễ kiểm soát”, ông Hồ Văn Sỹ, ngụ ấp Ông Như, xã Tân Ân Tây cho biết.

Theo ông Sỹ, mô hình tạo môi trường khá lý tưởng cho vật nuôi trong vuông bám vào trong lúc nhỏ, vừa hạn chế được mức độ thiệt hại. Hiện giá rơm được các mối ở vùng ngọt hóa chuyển tận nơi giá 3 triệu đồng/tấn. Còn mua bó thì khoảng 35 ngàn đồng/bó 12kg. Theo người dân địa phương, trong quá trình thực hiện mô hình cần lưu ý đến cách trải rơm vào vuông phải phù hợp. Tuyệt đối, không để rơm chạm đất, sẽ gây thối rơm, ảnh hưởng môi trường nước.

Ông Lê Minh Thùy, Chủ tịch UBND xã Tân Ân Tây lưu ý trước khi thả giống cần diệt cá tạp. Bởi con giống vào thời gian đầu sẽ trú ẩn, sinh sống ở những cuộn rơm nên dễ làm thức ăn cho cá tạp.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật trồng Ổi Nữ Hoàng

Ổi Nữ Hoàng có dạng trái hình cầu, có gân dọc theo trái. Trọng lượng trung bình 350- 400g/trái. Đây là giống cây rất dễ ra hoa và đậu trái. Năng suất rất cao đến 80tấn/ha. Ruột rất nhỏ có ít hạt. Thịt trái rất giòn, ngọt và thơm. Là giống cây có chất lượng vượt trội nên được mệnh danh là Nữ Hoàng của loài ổi. ổi Nữ Hoàng trong những năm tới đây sẽ được người tiêu dùng tôn vinh đúng như tên gọi của nó. Trái ổi Nữ Hoàng có chất lượng ngon nhất hiện nay. Trái chủ yếu dùng để ăn tươi, hay làm mứt, sấy khô, chế biến nước giải khát, thạch jelly… Đây là loại trái nhiều chất bổ dưỡng, dễ tiêu hoá, giàu Vitamine C nhưng nghèo năng lượng nên là loại trái cây rất tốt cho người không muốn tăng cân hay cần giảm cân. Với nữ giới ăn ổi thường xuyên sẽ giúp cho làn da mịn màng và xinh đẹp hơn. Kỹ thuật trồng đơn giản, nếu trồng độc canh khoảng 150 cây – 180 cây/360m2( có thể trồng xen canh với các cây khác như: cam, bưởi, chanh…).

1. Tiêu chuẩn chọn giống:

Hiện nay có nhiều giống ổi như: ổi Bo, ổi xá lị, ổi mỡ, ổi đào, ổi nghệ; gần đây có một số giống mới không hạt như: ổi Phugi, ổi không hạt MT1, … trong đó ổi không hạt Đài Loan có nhiều ưu điểm và đang được phát triển rộng rãi Cây giống ghép mắt, chiều cao cây giống: 30 – 50 cm . Đường kính bầu 10 – 15cm . Cây giống khỏe không bị sâu bệnh .Cây trồng sau 1, 5 năm thi bắt đầu cho thu hoạch. Là cây trồng lâu năm nên hiệu quả kinh tế cao.

2. Thời vụ và mật độ trồng:

Thời gian trồng thích hợp với loài cây này ở vào đầu mùa mưa (tháng 5- tháng 6). Thực hiện việc trồng kép 2 cây ở một gốc, mật độ trồng: 100 – 105 gốc/1.000 m2 điều này mang lại lợi nhuận kép khi vừa tiết kiệm chi phí sản xuất, vừa tăng năng suất thành phẩm. Người trồng phải tuân thủ nghiêm túc theo quy cách thực hiện trồng về kỹ thuật. Theo đó, hố trồng thuận lợi để trồng nhất là ở khoảng đường kính 20 cm, chiều sâu: 20 cm, cây cách cây, hàng cách hàng theo khoảng cách 3,5m x 4,5m, đào hố hình vuông hình khối: 50 x 50 x 50cm, hố cách hố: 3 x 4m.

3. Làm đất và đào hố trồng:

– Đất trồng: đất tơi xốp, thoáng, giữ nước tốt, tầng canh tác dày trên 50 cm; đặc biệt đất phù sa rất tốt cho cây ổi phát triển cho năng suất cao, quả ngon.

– Đào hố: hố trồng thuận lợi để trồng nhất là ở khoảng đường kính 20 cm, chiều sâu: 20 cm, cây cách cây, hàng cách hàng theo khoảng cách 3,5m x 4,5m, đào hố hình vuông hình khối: 50 x 50 x 50cm, hố cách hố: 3 x 4m. Khi đào, lớp đất mặt để riêng, lớp đất dưới trộn với phân chuồng, vôi bột, lân sau đó lấp hố cao hơn mặt đất 20 – 30cm.

4. Phân bón lót:

Người chăm nên bón lót mỗi hố bón từ 5 kg phân chuồng hoai mục + 1 kg phân hữu cơ sinh học HVP 401B + 100g vi lượng HVP Oganic + 0,5 – 1,0 kg lân super + 100g đạm urea + 100g kali + 0,5 kg vôi, đảo đều với đất bột (khoảng 2/3 độ sâu hố), sau đó đặt cây và cho đất bột lên trên dày từ 10 – 15 cm.

5. Kỹ thuật trồng ổi nữ hoàng:

Khi trồng, đào lỗ giữa mô, đặt bầu cây con xuống sao cho mặt bầu cao hơn mặt mô 3 – 5cm. Sau đó dùng đất vun tới mặt bầu rồi dận chặn, tưới nước. Khi đặt cây phải cắm cọc cố định thân để cây khỏi bị tác hại của gió.

6. Kỹ thuật chăm sóc:

a) Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh, … để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1 – 2 và vụ thu tháng 8 – 9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2 – 3 lần.

b) Kỹ thuật cắt tỉa, tạo hình:

– Việc tạo tán, tỉa cành, bấm đọt, giúp tạo ra nhiều cành cho trái, tán cây chỉ cao khoảng 1,4 – 1,5 m dễ dàng quản lý sâu bệnh và thu hoạch. Sau khi trồng cây giống khoảng 3 tháng, từ thân cây ra những tược mới (cành cấp I) và để dài khoảng 0,8 – 1 m.

– Khi vỏ tược ở độ bánh tẻ, sẽ cắt bỏ 1/2 chiều dài tược để tạo tiền đề khung tán thấp cây sau này. Sau khi cắt đọt, mỗi cành cấp I bị cắt ấy sẽ đâm ra 2 tược mới ở nách cặp lá gần vết cắt và từ thân cây các tược khác đâm ra mạnh mẽ.

– Chờ cho các cành cấp II này thành thục lại cắt đọt, tiếp tục việc tạo tán. Tính từ gốc tược thứ 2 trở lên, cắt ở vị trí trên 4 – 5 cặp lá, hoặc tính từ mặt đất lên khoảng 1,2 m là vừa. Đợt ra tược thứ 3 (ra cành cấp III) sẽ tốn ít thời gian hơn và đợt tược này, ở vị trí nách cặp lá thứ 4 hoặc thứ 5 sẽ ra 1 – 2 cặp nụ hoa. Tiến hành tỉa bỏ những chồi nhỏ yếu, chỉ giữ lại mỗi cây 3 – 4 cành cấp I, 8 – 10 cành cấp II và hệ thống cành cấp III đều các hướng.

– Tiến hành bấm ngọn tược thứ 3 ngay vị trí phía trên cặp trái ổi non đã đậu và tỉa các trái dư. Sau một thời gian ngắn ở nách các cặp lá cành cấp II và cấp III sẽ mọc ra các chồi mới cho trái. Tiếp tục bấm đọt những chồi mới ở vị trí trên cặp trái nhỏ như đã làm ở trên.

c) Kỹ thuật bón phân:

– Năm thứ 1: phân hỗn hợp tỷ lệ NPK 12 – 15 – 18, 4 lần bón mỗi lần 100g cộng với 50g amon sunphat.

– Năm thứ 2: 4 lần bón phân hỗn hợp mỗi lần 200g, cộng với 100g amon sunphat tức là cả năm bón 1.300g cho 1 cây.

– Năm thứ 3: 4 lần bón phân hỗn hợp mỗi lần 300g, cộng với 150g amon sunphat cộng với 50g magie sunphat tức là cả năm bón 2.000g cho 1 cây.

– Những năm sau, ổi đã ra hoa rộ tăng lượng phân bón lên và tính thêm số lượng NPK trong sản lượng quả thu hoạch. Một tháng trước khi ra hoa, người ta thường bón thêm phân nặng về đạm để ra hoa được nhiều. Nếu được chăm sóc tốt ngay năm thứ 3 ổi đã có sản lượng kinh tế và những sản lượng 30 – 50 tấn/ha trên diện tích lớn năm thứ 6, 7 khá phổ biến. Mặc dù mọc khỏe, khi trồng thâm canh, đặc biệt với những giống đã được cải tiến, ổi không ít sâu bệnh, nhất là về mùa mưa và bao giờ cũng phải trừ cỏ.

7. Phòng trừ sâu bệnh:

Nấm Glomerella cingualata làm cho quả đương lớn ngừng sinh trưởng và đen lại do bị bào tử nấm phủ kín. Nấm Fusarium và Macrophomina ở những đất không thoát nước có thể làm chết cây con hoặc cây 3, 4 tuổi. Một loại tảo Cephaleuros virescens gây ra những vết màu xám trên lá và trên quả. Những loại bệnh trên có thể trị bằng phun thuốc có đồng. Tuyến trùng ở những đất cát gây hại đôi khi đáng kể. Do đó cũng phải chú ý luân canh, tăng cường bón phân tưới nước. Sâu ổi khá nhiều.

– Tháng 6, 7 những quả ổi chín, cùi đã mềm thường bị ruồi đục quả Dacus dorsalis đến đẻ, giòi đục luỗng, quả không ăn được, tỷ lệ bị hại đôi khi đạt 70 – 80% số quả chín.

– Thu hoạch kịp thời, ngay khi quả đã đạt độ chín thích hợp, nhặt những quả chín rơi vãi, đem xử lý đồng thời với những quả khác cũng bị con ruồi này phá hại (đu đủ, cam, xoài, …) là những biện pháp vệ sinh rất cần thiết. Đồng thời, dùng Metila Ơgênola hoặc Hudrolizat de protein để dẫn dụ và dùng bả trộn với một chất sát trùng như Malathion, …

– Nhiều loại sâu bệnh miệng hút nhất là rệp sáp phá hại ổi ở vườn ít chăm sóc, phổ biến nhất là Pseudococcus Citri. Sâu đo, sâu kén đục lá lỗ chỗ, một số sâu róm rất to ăn lá và quả non. Kiến mang rệp tới đôi khi cũng phải trị. Phun lân hữu cơ, cacbamat có thể phòng trừ các sâu nói trên.

8. Thu hoạch và bảo quản:

– Trồng từ hạt, ổi được thu hoạch sau khoảng 4 năm. Trồng bằng cành chiết chỉ cần 2 năm, có thể ít hơn. Quả chín thì màu xanh nhạt đi, sau chuyển vàng, vỏ quả nhẵn, nắn thì mềm hơn. Trẻ em thường bấm bằng móng tay, móng cắm phập vào là quả sắp chín.

– Không để trên cây lâu được vì chín nhanh, chim đến mổ. Từ hoa đến quả chỉ cần hơn 3 tháng. Ở miền Bắc, ổi thường chín vào giữa mùa hè lúc này mưa nhiều chất lượng kém. Tuy nhiên có thể có ổi chín quanh năm.

– Vào năm thứ 3 – 5 năng suất có thể đạt 20 tấn/ha, vào năm thứ 6 – 7: 50 tấn/ha và hơn. Ổi rất mau chín, thu hoạch xong nên bán cho nhanh và để trong nhà chỉ giữ được vài ngày ở nhiệt độ bình thường. Xử lý bằng một số hóa chất như GA3 có thể giữ được lâu hơn. Ở phòng lạnh: độ nhiệt 5 – 15 oC, độ ẩm không khí 85 – 90% có thể bảo quản được 3 – 4 tuần lễ.

9. Kinh nghiệm và thị trường:

Vườn ổi tuyệt đối không để cỏ vì có cỏ rễ ổi sẽ ăn sâu, không lợi dụng được màu mỡ trên đất mặt: bón phân kém tác dụng. Dùng Paraquat 1.000 ml trong 10 lít nước không làm bắn thuốc lên lá rất có hiệu lực, nếu không, phải dùng cuốc lưỡi mỏng và nông trừ cỏ quanh gốc.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Bí quyết vươn lên làm giàu từ sầu riêng

Những vụ sầu riêng gần đây, nhiều nông hộ được mùa, trúng giá, tiêu thụ nhanh gấp nhiều lần so với trước.

Nhân viên của Syngenta hướng dẫn kỹ thuật canh tác và cách quản lý sâu bệnh hại sầu riêng.

Thời tiết khá thuận lợi cộng với việc bà con đầu tư chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, bón phân cân đối kèm theo một số bí quyết trị sâu bệnh nên cây sầu riêng phát triển, cho năng suất cao. Đã có khá nhiều hộ khá lên nhờ loại cây trồng đặc sản này.

Niềm vui chung từ… sầu riêng

Gia đình ông Trần Hữu Phong ở Mỹ Vĩnh, Cai Lậy, Tiền Giang trước đây trồng màu trên đất vườn tạp, thu nhập rất bấp bênh. Gần 20 năm trước, ông Phong chuyển sang trồng sầu riêng và đến giờ, ông vẫn thấy đây là sự thay đổi cây trồng hợp lý. Nhờ được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật nên diện tích sầu riêng Ri6, Monthong của gia đình ông Phong cho năng suất bình quân 2,5-3 tấn/công (1.000m2). Đặc biệt, quả sầu riêng có gai đều, đầy hộc rất được thương lái ưa chuộng.

Với giá bán như hiện nay, sau khi trừ các khoản chi phí, gia đình ông Phong thu lãi hàng trăm triệu đồng. Từ một hộ khó khăn, gia đình ông Phong đã vươn lên có thu nhập khá, có điều kiện cho con cái ăn học đàng hoàng.

Niềm vui của ông Phong cũng là niềm vui chung của nhiều bà con nông dân trồng sầu riêng ở Tiền Giang, đặc biệt là nông dân vùng chuyên canh, khi loại trái cây đặc sản này mang lại cho bà con nguồn lợi kinh tế rất lớn.

Không chỉ ở Tiền Giang, đến thăm gia đình ông Phạm Văn Hoán ở xã Hòa Trung, huyện Di Linh, Lâm Đồng, ông Hoán dẫn chúng tôi đi thăm vườn cà phê trồng xen với sầu riêng gần 10 năm tuổi của mình.

Ông Hoán cho biết cà phê là cây ưa bóng, sầu riêng lại là cây có tán rộng, khi trồng xen canh với mật độ thích hợp sẽ có tác dụng hỗ trợ cho nhau. Sầu riêng không chỉ giúp che nắng mà còn tận dụng được lượng nước và phân dư thừa bón cho cây cà phê. Những vườn cà phê trồng dưới tán sầu riêng vẫn cho năng suất ổn định từ 5 – 5,5 tấn/ha.

Bắt đầu trồng sầu riêng từ năm 2012, đến nay ông Hoán đã có 300 cây sầu riêng, trong đó có 30 cây đang cho thu hoạch với năng suất trung bình 200kg/1 cây, tương đương 18-20 tấn/ha. Hằng năm, lợi nhuận thu được từ sầu riêng của gia đình ông Hoán khoảng 300 triệu đồng.

Ông Hoán nhận thấy việc trồng xen sầu riêng với cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trước đây. Tuy nhiên, ông vẫn không trồng độc canh mà chỉ xen canh, mùa nào quả đấy.

Ông Hoán phấn khởi cho biết, không chỉ được mùa, được giá mà nông dân phấn khởi vì hiện thương lái đến tận vườn đặt cọc thu mua sầu riêng nên người ông hoàn toàn yên tâm về đầu ra cho sản phẩm.

Giống như những cây trồng khác, những nông hộ canh tác cây sầu riêng đều canh cánh nỗi lo sâu bệnh. Tuy tốc độ gây hại của bệnh không tức thời như đối với các cây trồng khác như cây tiêu hay cây cà phê, nhưng nếu không chú ý, thiệt hại do bệnh trên cây sầu riêng sẽ lớn hơn do loại cây này có thời gian phục hồi lâu hơn, tốn thời gian và công sức hơn.

Trên thực tế, để có được quả sầu riêng thơm ngọt, những người nông dân như ông Phong, ông Hoán phải dày công chăm chút, tỉ mỉ trong từng khâu để bắt đúng bệnh và phòng trị hiệu quả cho cây.

Bí quyết trị bệnh nằm ở đâu?

Theo ông Phong, lúc mới chuyển sang trồng sầu riêng, ông cũng phải đi học hỏi nhiều nơi, nhất là tại các hội thảo dành cho nông dân. Tại đây, ông được các kỹ sư nông nghiệp hướng dẫn khá tỉ mỉ về quy trình, cách chăm sóc cây. Ông được biết trong số các bệnh trên cây sầu riêng, mối quan tâm của các nhà vườn là bệnh do nấm Phytophthora gây ra. Bệnh này gây ra tình trạng thối nứt thân xì mủ và đặc biệt là thối rễ. Nấm phát triển và lây lan mạnh trong đất làm cho bộ rễ bị hư hại, làm giảm khả năng hấp thu nước và chất dinh dưỡng dẫn đến hiện tượng nứt thân xì mủ, có thể gây chết cây hàng loạt.

Cũng nhờ có các chuyên gia nông nghiệp, ông mới biết một trong những tác nhân làm trung gian lây lan bệnh trên cây sầu riêng chính là tuyến trùng. Triệu chứng khi bị tuyến trùng gây hại là rễ cây có nhiều vết sưng hoặc vết thương, khi đó, nấm Phytophthora sẽ “lần theo” nhưng vết thương này để tấn công làm thối rễ, dẫn đến giảm hay mất khả năng hấp thu, khiến cây vàng lá, thiếu dinh dưỡng và chết dần, đặc biệt là bệnh có thể gây hại cả cây con.

Trên thực tế, tuyến trùng luôn hiện diện trên đất trồng, khó lòng diệt trừ triệt để. Nếu muốn tránh nấm Phytophthora lây lan qua con đường tuyến trùng, nhà vườn cần đồng thời áp dụng nhiều biện pháp.

Ông Phong cho biết: Đầu tiên, phải chú ý khâu chọn giống sạch nấm bệnh, làm đất kỹ, thiết kế hệ thống cấp và thoát nước hợp lý, tránh ngập úng, tăng cường bón phân hữu cơ và vôi bột hàng năm, quản lý cỏ dại… Nếu đã làm tốt những khâu này thì nguy cơ bệnh hại là rất thấp. Tuy nhiên, một khi bệnh xuất hiện thì lúc đó phải dùng đến các loại thuốc bảo vệ thực vật để diệt trừ nấm và tuyến trùng.

Ông Phong kể: “Lúc đầu tôi cũng không biết bí quyết gì đâu. Một lần tham dự khóa tập huấn cho nông dân trong hợp tác xã, tôi may mắn được một chuyên gia của Syngenta bày cho sử dụng Tervigo 020 SC tưới gốc để trị tuyến trùng trên cây sầu riêng. Tôi đã từng nghe là Tervigo 020SC có hiệu quả đối với cà phê, hồ tiêu, thanh long… nhưng không ngờ, với cây sầu riêng, hiệu quả cũng rõ rệt luôn. Tôi được biết là tuyến trùng thường chỉ xâm nhập ở tầng đất mặt từ 0-20cm và cũng là nơi mà rễ tơ của cây sầu riêng phát triển mạnh, gặp Tervigo, tuyến trùng đúng là gặp khắc tinh luôn đó”.

Tervigo là sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, với hoạt chất Abamectin, đặc trị tuyến trùng, khi tưới gốc sầu riêng kèm theo loại thuốc trừ nấm đặc hiệu sẽ giúp ngăn ngừa thối sưng rễ và vàng lá. Do được sản xuất bằng công nghệ huyền phù đậm đặc nên khi tưới vào đất Tervigo sẽ được duy trì quanh vùng rễ, nhờ đó hiệu lực trừ tuyến trùng kéo dài, giúp tiết kiệm chi phí, tối ưu hiệu quả đầu tư.

“Nhiều người cứ hỏi tôi bí quyết khiến cây sầu riêng khỏe, xanh mướt. Thực ra do Tervigo được sản xuất theo công nghệ Chelate sắt, nên ngoài khả năng diệt tuyến trùng hiệu quả sản phẩm còn cung cấp thêm vi lượng sắt cho cây, đây là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp nên diệp lục tố, gián tiếp kích thích cây trồng ra rễ mạnh hơn sau khi được tưới vào vùng rễ. Đây là lý do vì sao mà sau khi tưới Tervigo, cây sầu riêng khỏe, xanh lá, ra nhiều rễ non,cuối cùng là vườn sầu riêng cho năng suất cao”, ông Phong nói.

“Qua kinh nghiệm sử dụng thực tế, tôi nhận thấy Tervigo ít ảnh hưởng đến giun và các vi sinh vật đất, do vậy rất yên tâm sử dụng. Thực ra bí quyết của tôi chỉ có vậy thôi, rất đơn giản và ai cũng có thể áp dụng được”, ông Phong cười.

Còn theo ông Hoán, khi thực hiện mô hình trồng xen cây cà phê và sầu riêng, ông được tư vấn kỹ thuật và cách quản lý sâu bệnh hại trên cà phê và sầu riêng rất tỉ mỉ.

“Lúc mới trồng, một số cây cứ vàng lá, rồi cây con cứ phát triển được một thời gian là chết yểu, tôi cũng lo lắm. Sau mới biết thủ phạm là nấm, mà tác nhân trung gian là tuyến trùng nên tôi đã sử dụng ngay sản phẩm Tervigo kết hợp với thuốc trừ nấm. Các kỹ sư của Syngenta đã hướng dẫn tỉ mỉ cho tôi quy trình canh tác, đặc biệt là hướng dẫn cách sử dụng thuốc BVTV tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng, đảm bảo an toàn cho sức khỏe nông dân cũng như cây trồng, tránh dư lượng trên sản phẩm,” ông Hoán nói.

Ông Nguyễn Huy Cường – đại diện Công ty Syngenta cho biết hiện đang bước vào đầu mùa mưa, ẩm, thời điểm dễ phát sinh các dịch bệnh trên cây trồng. Nếu không chăm sóc sầu riêng hợp lý, dịch bệnh có thể bùng phát làm ảnh hưởng lớn đến năng suất.

Để cây sầu riêng cho năng suất, chất lượng cao bà con cần áp dụng đồng thời nhiều biện pháp trồng và chăm sóc khác nhau, cải tạo đất canh tác tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho cây sầu riêng phát triển.

Để hạn chế nấm Phytophthora palmivora lây lan, bà con cần thăm vườn thường xuyên để phát hiện nấm bệnh, chú ý vệ sinh vườn thường xuyên, sử dụng thuốc BVTV đúng liều lượng.

“Không riêng gì với cây sầu riêng, Syngenta mong muốn hỗ trợ bà con chăm sóc tất cả các loại cây trồng thông qua các sản phẩm hiệu quả, chi phí hợp lý, cho năng suất cao. Sự tin tưởng của bà con khi lựa chọn sản phẩm của Syngenta Việt Nam chính là thước đo cho những thành quả mà chúng tôi đạt được trong suốt thời gian qua. Chúng tôi mong bà con trồng sầu ai cũng giàu, mà không ai rầu cả”, ông Cường nhấn mạnh.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.