Nuôi trăn trên sân thượng

Tận dụng khoảng diện tích hơn 40m2 trên sân thượng, ông Võ Ngọc Ân (71 tuổi, phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang) đã xây dựng thành công mô hình nuôi trăn thịt, sinh sản, mỗi năm mang về cho gia đình ông thu nhập hơn 100 triệu đồng.
Sau khi bỏ nghề đi biển, ông Võ Ngọc Ân đã tìm đến nghề nuôi tôm hùm, cá biển lồng. Thế nhưng, do thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật nên đều thất bại. Năm 2009, sau khi xem một phóng sự về phong trào nuôi trăn ở miền Nam, ông quyết định vào Củ Chi để tham quan và mua giống về nuôi thử. Ông Ân kể: “Thời điểm đó, ở Khánh Hòa chưa có ai nuôi trăn nên tôi chỉ mua 4 con về nuôi thử. Tôi tự thiết kế chuồng trại và đọc sách, báo để học thêm cách chăm sóc. Chỉ khoảng nửa năm, trăn phát triển khá tốt và không mất quá nhiều công sức, thời gian chăm sóc. Do vậy, tôi mua thêm vài chục con và mở rộng chuồng trại để nuôi”.
Qua vài năm, ông Ân dần phát hiện ra những điểm hạn chế trong kỹ thuật chăm sóc của mình, từ đó khắc phục dần như: nuôi mỗi con một chuồng và lập sổ ghi chép lịch cho ăn của từng con; thay thế toàn bộ chuồng làm bằng lưới sắt sang bằng các phuy nhựa hình vòm, bên dưới lót ván gỗ để đảm bảo da trăn không bị trầy xước; làm chuồng trại hình tầng để có thể nuôi được nhiều trăn hơn. Đến bây giờ, ông vẫn đang áp dụng những biện pháp này và rất hiệu quả.
Theo ông Ân, trăn là đối tượng rất dễ chăm sóc và không bị bệnh tật; thức ăn sử dụng để nuôi trăn rất dễ kiếm, giá lại rẻ như: đầu gà công nghiệp, chuột. Với một con trăn trưởng thành có trọng lượng từ 5 đến 10kg thì mỗi lần ăn khoảng 1kg thức ăn, nhưng 15 ngày mới cho ăn/lần. Gần 10 năm nuôi trăn, ông Ân chỉ cho trăn ăn chuột là chủ yếu, còn đầu gà ông chỉ mua vào những thời điểm mưa bão. Để có đủ chuột làm thức ăn cho trăn, ông đã mày mò, tự thiết kế ra chiếc bẫy chuột 2 ngăn rất hiệu quả. Nhờ đó, ông có đủ thức ăn cho hơn 100 con trăn, tiết kiệm được chi phí mua thức ăn rất lớn.

Mô hình nuôi trăn đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình ông Võ Ngọc Ân

Hiện nay, mỗi đợt, ông Ân chỉ thả nuôi khoảng 100 con trăn theo hình thức cuốn chiếu, bán mỗi năm 2 lứa. Thời gian nuôi đến lúc xuất chuồng khoảng 12 tháng, thời điểm này, trăn đạt trọng lượng khoảng 10kg/con. Bên cạnh nuôi trăn thịt, để tiết kiệm chi phí mua giống, ông còn nuôi thêm 2 cặp trăn bố mẹ cho sinh sản.
Ông Ân cho biết: “Trăn thịt hiện nay bán với giá 300.000 đồng/kg. Tôi chủ yếu bán cho một số công ty ở TP. Hồ Chí Minh. Khi nào bán, chỉ cần gọi điện thoại là họ đưa xe ra tận nơi để thu mua nên rất an tâm. Nuôi trăn khá nhàn, mỗi tháng chỉ cho ăn 2 lần, mỗi ngày mất 30 phút để kiểm tra, vệ sinh chuồng trại và bổ sung nước vào khay”.
Ông Nguyễn Văn Phú – Chủ tịch Hội Nông dân phường Vĩnh Nguyên (TP. Nha Trang) cho biết, mô hình nuôi trăn của ông Ân đã và đang phát triển khá tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao và đã được Chi cục Kiểm lâm tỉnh cấp giấy phép. Mô hình này đã đạt giải khuyến khích tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh trong lĩnh vực chăn nuôi lần thứ VII năm 2016 – 2017; đồng thời được các cấp, ngành đánh giá cao và phổ biến rộng rãi cho người dân trong toàn tỉnh. Từ hiệu quả của mô hình đã có rất nhiều hộ trong và ngoài tỉnh tìm đến học hỏi kinh nghiệm và được ông Ân tận tình truyền đạt.

Theo báo Khánh Hòa, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nhân rộng mô hình nuôi gà nhiều cựa

Xuân Đài là xã nằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ) có nhiều hộ nuôi gà nhiều cựa. Gia đình chị Phùng Thị Mơ là một trong những hộ nông dân chăm sóc số lượng gà nhiều cựa với hàng trăm con.

Gia đình chị Phùng Thị Mơ là một trong những hộ nuôi gà nhiều cựa với số lượng lớn

Theo chị Mơ, để đàn gà phát triển tốt và không bị dịch bệnh, cần chăm sóc, tiêm phòng đầy đủ từ khi gà còn nhỏ. Gà nhiều cựa ở Tân Sơn là giống bản địa, được nuôi theo phương thức chăn thả tự nhiên, số trang trại, gia trại có quy mô lớn không nhiều. Thông thường giống gà này được nuôi từ 10 – 12 tháng mới xuất chuồng, giá bán từ 300.000 – 350.000 đồng/kg.

Trước đây người dân nơi đây chưa biết rõ về giá trị loài gà nhiều cựa, chỉ chăn thả tự nhiên, không chăm sóc đúng kỹ thuật và phòng bệnh nên giống gà này có nguy cơ tuyệt chủng. Những năm qua, việc bảo tồn, phát triển giống gà quý này được các sở, ban ngành địa phương triển khai bằng nhiều dự án, giống gà quý đã được phục hồi, nhân đàn. Tại thời điểm này, giá gà đủ 9 cựa lên đến 450.000 – 500.000 đồng/kg. Nhiều khách hàng tìm những con gà trống lâu năm, khỏe khoắn, mào đỏ như hoa chuối rừng, 9 cựa, không ngại ngần trả vài triệu đồng 1 con.

Mô hình gà nhiều cựa của anh Hà Thế An ở khu Vượng, xã Xuân Đài nuôi từ 300 – 400 con gà nhiều cựa, đã vươn lên thành hộ khá giả… Cách nhà anh An không xa là hộ anh Hà Văn Điểm. Anh Điểm kể: “Thấy gia đình anh An, chị Mơ và một số hộ gia đình khác nuôi gà nhiều cựa khá nhàn hạ lại cho thu nhập khá, tôi bàn với vợ quyết định đầu tư nuôi gà 9 cựa, cho chúng ăn thóc, ngô, rau lá… nên thịt chắc, ngon được khách hàng rất ưa chuộng…”.

Gà 9 cựa

Khởi đầu nuôi vài chục con một lứa, hiện quy mô của anh Điểm nuôi mỗi lứa từ 300 – 400 con, mỗi năm xuất bán từ 2 – 3 lứa, trừ chi phí mỗi năm thu lãi gần 60 triệu đồng.

Thời gian qua, Trạm Khuyến nông huyện Tân Sơn đã thực hiện dự án hỗ trợ mô hình nuôi gà 9 cựa tại các xã Xuân Sơn, Xuân Đài, Minh Đài, Văn Luông… nhằm bảo tồn và phát triển nguồn gen quý, tiến tới sản xuất hàng hóa.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Khánh Hòa: Tan hoang trại gà sau bão con Voi

Hầu hết các trại gà trong tỉnh đều thiệt hại nặng do cơn bão số 12. Hiện nay, bên cạnh nỗ lực khắc phục khó khăn, đưa trại gà hoạt động trở lại, các chủ trại đều mong muốn Nhà nước có chính sách hỗ trợ để giảm bớt khó khăn.

Thiệt hại nặng nề

Khu vực trại gà thôn Đồng Bé (xã Diên Thọ, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa), có 5 chủ nuôi gà với hàng chục dãy chuồng trại lợp bằng mái tôn đều bị bão cuốn phăng, xếp thành dãy dài, bẹp dúm. Phờ phạc sau nhiều đêm mất ngủ và nỗi buồn vì phút chốc gia sản tiền tỷ tan theo mây khói, ông chủ trại gà Phạm Hữu Nghĩa mếu máo: “Nhà sập, toàn bộ 4 dãy chuồng tổng diện tích 3.200m2 cũng sập, đè chết hơn 2.000 con gà mái. Mấy ngày nay tôi chẳng thiết ăn uống, làm gì nữa”.

Tổng thiệt hại do bão đối với trại gà của ông Nghĩa lên tới 1,2 tỷ đồng. Để cứu 8.000 con gà còn lại (4.000 gà đẻ, 4.000 gà hậu bị), ông che tạm 2 lán nhỏ, mỗi lán gần 200m2 để có nơi cho gà ở. Vì làm tạm nên việc cho ăn, uống, vệ sinh, thu trứng và quản lý gặp nhiều khó khăn. “Lán trại tuềnh toàng, nên nguy cơ dịch bệnh rất cao do gà tiếp xúc trực tiếp với đất, môi trường gió lạnh, vệ sinh kém. Tôi mong muốn Nhà nước hỗ trợ cho vay vốn (300 triệu đồng) để sớm khắc phục thiệt hại”, ông Nghĩa nói.

Trại gà của ông Võ Đông Anh (Cẩm Sơn, Diên Thọ, Diên Khánh) cũng tan tành do bão. Hơn 1.000m2 chuồng trại chỉ trơ lại khung sắt, 1.000 con gà hậu bị bị đè chết trong tổng đàn 5.000 gà đẻ và 3.500 gà hậu bị. Đồng thời, dàn cây sưa 8 năm tuổi của ông cũng bị gãy, đổ hư hỏng hết 200 cây. Tổng thiệt hại hơn nửa tỷ đồng.

Trại gà của ông Trần Văn Hiếu (Vạn Thuận, xã Ninh Ích, thị xã Ninh Hòa) cũng đổ nát như một bãi chiến trường. Đây là trại gà điển hình của thị xã Ninh Hòa được cấp giấy chứng nhận trang trại an toàn vệ sinh thú y và an toàn thực phẩm. Nhặt nhạnh những gì còn sót lại, ông Hiếu cho biết, trước bão trang trại có 6.000 gà đẻ và 3.000 gà hậu bị (4,5 tháng tuổi). Sau bão, số gà đẻ, gà hậu bị do thiếu nước, đè nhau chết chỉ tận thu bán được 1.800 con, còn lại phải đốt bỏ tiêu hủy. Bên cạnh đó, bão còn làm tốc mái, sập tường nhiều diện tích nơi làm việc và nhà ở của công nhân, thiệt hại hơn 3,8 tỷ đồng. “17 – 18 năm tâm huyết, tích cóp vốn nuôi gà nay tay trắng. Bây giờ tôi chỉ biết cố gắng khắc phục làm lại 1 – 2 dãy chuồng kiếm lợi tức sống qua ngày và mong Nhà nước sớm có chính sách hỗ trợ”, ông Hiếu nói.

Trại gà của ông Anh chỉ còn trơ khung sắt

Đang thống kê thiệt hại

Theo Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn huyện Cam Lâm, TP. Cam Ranh, thiệt hại các trang trại gà tại 2 địa phương này không lớn. Tại huyện Vạn Ninh, ông Nguyễn Ngọc Ý – Trưởng phòng Kinh tế cho hay, trang trại gà trên địa bàn huyện không nhiều, chỉ có vài trại nuôi theo hình thức gia trại, không phải quy mô doanh nghiệp, chủ yếu tại 2 xã Vạn Thắng và Vạn Bình, mỗi trại vài ngàn con nhưng đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức. Huyện đã giao Trạm Chăn nuôi và Thú y phối hợp với các địa phương thống kê, rà soát, bổ sung để có kế hoạch hỗ trợ bà con theo quy định.

Thị xã Ninh Hòa cũng đang triển khai việc thống kê, tổng hợp số liệu. Đến ngày 12-11, toàn thị xã có 50.166 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Theo lãnh đạo Phòng Kinh tế thị xã, việc thống kê thực hiện theo biểu quy định, không tách từng đối tượng gia súc, gia cầm (trâu, bò, gà, vịt) nên không có số liệu riêng về gà.

Ông Nguyễn Lương Thao – Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, hiện nay, các địa phương vẫn đang triển khai việc rà soát, thống kê số lượng gà bị thiệt hại do bão. Về hỗ trợ thiệt hại do thiên tai, Trung ương có Nghị định 02/2017 về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh; UBND tỉnh có Quyết định 2229/QĐ-UBND (4-8-2017) quy định mức hỗ trợ cụ thể giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trên địa bàn tỉnh. “Tuy nhiên, theo Quyết định 2229, để có phương án hỗ trợ, việc thống kê, rà soát phải hết sức cụ thể, bởi văn bản quy định việc hỗ trợ theo lứa tuổi gia súc, gia cầm. Ví dụ: gà đến 15 ngày tuổi hỗ trợ 10.000 đồng/con; 28 ngày tuổi hỗ trợ 20.000 đồng/con; 28 – 60 ngày tuổi hỗ trợ 30.000 đồng/con và trên 60 ngày tuổi hỗ trợ 35.000 đồng/con. Vì thế, việc thống kê phải tỉ mỉ, mất nhiều thời gian, hiện nay, các địa phương vẫn đang triển khai”, ông Thao cho biết.

Nguồn: Baokhanhhoa.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tác hại của việc sử dụng kháng sinh tăng trọng trong chăn nuôi heo

Trong chăn nuôi heo, việc sử dụng kháng sinh với mục đích kích thích tăng trưởng, phòng trị bệnh không đúng cách có thể dẫn đến sự tồn dư kháng sinh làm ảnh hưởng đến chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm và sức khỏe người tiêu dùng.

Việc tồn dư kháng sinh trong thực phẩm gây nên những tác hại sau:

– Sử dụng thường xuyên kháng sinh trong thức ăn sẽ làm phá vỡ cân bằng tự nhiên của hệ vi sinh vật trong đường ruột gây rối loạn tiêu hóa

– Gây phản ứng đối với người nhạy cảm kháng sinh hoặc gây dị ứng sau khi tiêu thụ sản phẩm có tồn dư kháng sinh

– Giảm hiệu quả điều trị của kháng sinh và có thể tạo ra thể vi sinh vật kháng thuốc, gây khó khăn cho công tác điều trị nhiễm khuẩn trong thú y và nhân y, do đó tốn kém về mặt hiệu quả kinh tế

– Một số kháng sinh có thể gây ung thư cho người tiêu thụ

– Trên bản thân thú nuôi giảm sự đáp ứng miễn dịch cơ thể, con giống sẽ bị yếu ớt.

Chính những tác hại trên, nên nhiều quốc gia đã cấm sử dụng kháng sinh kích thích tăng trọng (Các nước Liên minh châu Âu đã cấm sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi từ ngày 1-1-2006).

Việc sử dụng thuốc kháng sinh kích thích tăng trọng vô cùng có hại cho heo

Để thay thế sử dụng kháng sinh kích thích tăng trọng trong chăn nuôi cần áp dụng những biện pháp sau:

– Con giống: chọn giống nuôi tốt được bắt từ các trại an toàn dịch bệnh.

– Quản lý chuồng trại: Chuồng trại và khu vực chăn nuôi cần quy hoạch xây dựng phù hợp; xây dựng nơi cao ráo, thoát nước tốt, không bị mưa tạt gió lùa, thoáng mát vào mùa hè, ấm áp về mùa đông, diện tích và mật độ nuôi phù hợp với từng giai đoạn nuôi dưỡng. Chuồng trại có tường rào bao quanh nhằm đảm bảo kiểm soát được người ra vào, ngăn chặn động vật truyền bệnh (chuột, chim…) từ ngoài xâm nhập vào khu vực chăn nuôi.

– Nuôi heo an toàn sinh học: nhằm giảm thiểu mầm bệnh xâm nhập chuồng nuôi, ngăn ngừa sự phát tán của bệnh dịch, ngăn ngừa phát sinh dịch bệnh bằng sát trùng toàn bộ chuồng nuôi định kỳ, vệ sinh thiết bị chăn nuôi, áp dụng quy tắc cùng vào cùng ra, kiểm soát các loại động vật vào trại,…

– Vaccin: tiêm phòng đầy đủ các loại vaccin do ngành Thú y quy định.

– Dinh dưỡng: chọn nguyên liệu thức ăn có chất lượng tốt, thức ăn cung cấp đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng cho thú nuôi, đặc biệt là acid amin, vitamin và chất khoáng để vật nuôi có thể trạng tốt.

– Dùng các chế phẩm sinh học để ức chế vi khuẩn có hại, tạo điều kiện vi khuẩn có lợi phát triển từ đó nâng cao sức tăng trưởng của heo.

– Axit hóa khẩu phần thức ăn bằng cách dùng các loại axit hữu cơ như: Lactic, Butyric, Propionic, Acetic,…

– Sử dụng Enzymes cải thiện sự tiêu hóa thức ăn, ảnh hưởng tốt cho bộ máy tiêu hóa vật nuôi.

– Dùng thảo dược (như tỏi, gừng,cỏ nhọ nồi, xuyên tâm liên,…) ức chế vi khuẩn có hại phòng bệnh cho vật nuôi.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Bổ sung Betaine cải thiện năng suất ở lợn

Trong chăn nuôi lợn, đặc biệt là lợn con, hợp chất này hoạt động như một osmolyte và như một chất cho methyl. Betaine tốt nhất có thể được mô tả như là một dẫn xuất trimethyl của glycine axit amin xảy ra một cách tự nhiên với số lượng tương đối lớn ở động vật thuỷ sinh và củ cải đường. Làm thế nào để các phương thức hoạt động của các dạng betaine tự nhiên được chiết xuất từ mật củ cải đường và bã rượu, mang lại lợi ích đặc biệt ở các giai đoạn sản xuất chính? Và làm thế nào dạng betaine tự nhiên bổ sung được thêm nhiều giá trị hơn so với dạng tổng hợp của nó?

Dạng kép của betaine

Hoạt động bổ sung giá trị từ lúc thụ thai, mang thai và cho con bú qua các giai đoạn phát triển-vỗ béo của lợn. Trong thời gian cai sữa, hiện tượng mất nước gây ra bởi stress sinh lý là một thách thức lớn cho các nhà sản xuất. Thông qua chế độ hoạt động như một osmolyte, betaine tự nhiên giúp tăng cường giữ nước/hấp thu và giảm chi phí năng lượng thông qua các tác động tích cực của nó tới cân bằng nước và ion trong tế bào. Là một osmolyte, nó cũng đặc biệt hiệu quả trong việc thúc đẩy năng lượng trong những tháng hè nóng bức khi khả năng sinh sản ở lợn nái có thể bị suy giảm.

Betaine có ở động vật thuỷ sinh và củ cải đường

Tác dụng của việc bổ sung betaine

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc bổ sung betaine tự nhiên có thể dẫn đến những cải thiện sức khỏe đường ruột – nơi có thể bị suy yếu bởi những trở ngại như stress nhiệt. Khi nhiệt độ môi trường tăng, lưu thông máu sẽ ưu tiên cho da để giải phóng nhiệt. Điều này làm giảm lưu lượng máu đến dạ dày và ruột, do đó dẫn đến suy giảm tiêu hóa và làm giảm khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng.

Căng thẳng có thể dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc ruột của lợn đang trong giai đoạn phát triển, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của ruột nếu không được kiểm soát. Bổ sung betaine tự nhiên có tác dụng tích cực tới cấu trúc đường ruột và hệ thống miễn dịch của con vật. Lợi ích cho đường ruột có thể giúp bảo vệ vật nuôi chống lại điều kiện khử nước liên quan đến các tình trạng chẳng hạn như bệnh cầu trùng hoặc sự gia tăng của vi sinh vật không mong muốn khác trong ruột, có thể góp phần làm giảm hiệu suất.

Một lợi ích bổ sung cho sản xuất trong tăng cường sức khỏe đường ruột là giảm hiện tượng nứt ruột và khả năng rò rỉ đường tiêu hóa vào thịt trong quá trình chế biến ở các lò mổ khi lấy ruột ra.

Ngoài ra, đóng góp của betaine cho những yêu cầu methyl hóa cũng làm tăng đáng kể giá trị sản xuất. Bổ sung cho lợn nái có thể giúp giảm tổn hại đến thai, nâng cao hiệu suất sinh sản và tăng quy mô lứa đẻ. Nó cũng giúp dự trữ năng lượng duy trì cho lợn ở mọi lứa tuổi, để lại nhiều năng lượng chuyển hóa hơn cho tạo nạc và cải thiện sức sống của vật nuôi. Lợi ích này là đặc biệt quan trọng trong quá trình cai sữa khi nhu cầu năng lượng duy trì là cao hơn.

Bổ sung betaine nâng cao hiệu suất sinh sản và tăng quy mô lứa đẻ

Tác động tích cực của betaine tự nhiên tới hiệu suất khiến cho nó rất có giá trị ở các thị trường như Mỹ – nơi dự trữ lợn đã bị ảnh hưởng bởi đợt bùng phát dịch tiêu chảy do vi rút ở lợn (PED). Tăng trưởng nhanh, sớm là có giá trị kinh tế – mỗi kg tăng thêm trong giai đoạn cai sữa cũng sẽ làm giảm 4-5 ngày cho chu kỳ sản xuất.

Các nhà dinh dưỡng cũng nên xem xét sự sẵn có của các công cụ hỗ trợ nhằm đảm bảo rằng định lượng betaine hỗ trợ thay thế chính xác và an toàn cho methionine và choline tốn kém để tiết kiệm được tiền bạc trong khi lại cải thiện được hiệu suất.

Như vậy có nhiều bằng chứng về vai trò quan trọng của betaine trong khẩu phần ăn của lợn. Nghiên cứu cũng cho thấy những lợi ích của việc sử dụng betaine tự nhiên so với dạng tổng hợp.

Cải thiện thành phần thịt, tốc độ tạo nạc, giảm nhu cầu về năng lượng duy trì, cải thiện khả năng chịu stress nhiệt và hỗ trợ cấu trúc đường ruột là một số trong những lợi ích chính đã được thể hiện trong các thử nghiệm betaine tự nhiên. Thực tế là những lợi ích này đã được chứng minh ở lợn nái, lợn con và lợn nuôi vỗ béo cho thấy một ứng dụng rộng rãi trên đàn lợn và chỉ có rất ít nghi ngại về sử dụng betaine tự nhiên có thể giúp cải thiện hiệu suất và giảm chi phí sản xuất trong chăn nuôi lợn.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất sinh sản và sữa ở bò (Phần 2)

Ngành sữa Israel đã phát triển các phương pháp giảm stress nhiệt trong hơn 30 năm qua, nhằm giúp bò để phát huy tối đa tiềm năng của chúng. Ở Israel, làm mát được dựa trên sự bốc hơi nước từ bề mặt của con vật bằng việc kết hợp làm ẩm và thông gió cưỡng bức. Bò được làm mát tích cực vào mùa hè cho ít hơn 0,6 kg/ ngày so với các con vật nuôi cùng đàn trong mùa đông. Tuy nhiên, khi không được làm mát vào mùa hè, khoảng cách giữa mùa đông và mùa hè là 3,6 kg / ngày. “Tỷ lệ sản xuất hè -đông” là 98% đối với bò được àm mát tích cực và là 90% đối với bò không được làm mát.

Tỉ lệ thụ thai của bò được thụ tinh đạt 45%. Bò đươc làm mát tích cực có tỷ lệ đậu thai là 34% trong mùa hè, so với chỉ 17%, ở bò không được làm mát. Bò làm mát cần 0,55 kg thức ăn để sản xuất 1 kg sữa, trong khi bò không làm mát cần 0,61 kg thức ăn, cải thiện 10% hiệu quả cho ăn.

Các kinh nghiệm thu được ở tại Israel chỉ ra rằng trong mùa hè nếu làm mát thì cả năng suất sữa và sinh sản được cải thiện. Kết quả tương tự có thể được dự kiến ​​trong ngành sữa khác từ các khu vực nóng của thế giới trong tương lai. (Từ Báo cáo tóm tắt của các ngành công nghiệp sữa của Israel cho năm 2011 bởi ICBA).

Vào mùa hè nếu làm mát thì cả năng suất sữa và sinh sản được cải thiện

Tính mùa vụ trong việc cung cấp sữa cho các ngành công nghiệp chế biến và thị trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế hầu hết các ngành sản xuất sữa của Israel. Do ảnh hưởng của khí hậu, sản xuất sữa mùa hè không đạt được nhu cầu thị trường, và, do đó, sữa mùa đông đang “di chuyển” để được tiêu thụ trong mùa hè. Mỗi năm, gần 40 triệu lít sữa là “di chuyển” ở Israel từ mùa đông sang mùa hè, với một chi phí hàng năm bổ sung 8 triệu US $ (0,2 US $ một lít).

Từ các số liệu chúng ta có thể thấy rằng tỷ lệ thụ thai của bò tơ hậu bị đạt trung bình là 62%. Gần 20% số bò cái được thụ tinh dưới 13 tháng tuổi và tỷ lệ thụ thai ở lần phối đầu tiên (65%), không có sự khác biệt với bọn phối giống muộn hơn. Chỉ 5% số bò cái được phối giống được thụ tinh sau hơn 18 tháng tuổi. Ở lớp bò cái mang thai, 20% có thai trước 13 tháng tuổi, 75% trong số chúng có thai cho đến khi 15 tháng tuổi và chỉ có 7% lượng bê hậu bị có thai trên 18 tháng tuổi. Tỷ lệ thụ thai của bê cái hậu bị suy giảm theo lần phối. Gần 60% số bò cái được hình thành để phối giống đầu tiên và gần 80% số bò cái thai sau hai lần phối giống.

Tỷ lệ thụ thai tương đối tốt của bò tơ cho phép một bộ phận lớn nông dân Israel thu được nhiều bò thụ thai để có được nhiều lứa đẻ hơn vào mùa xuân và đầu mùa hè trong mục đích “thu hẹp khoảng cách” thiếu sữa trong mùa hè.

Khác với trước đây, nông dân Israel phối giống cho bê hậu bị sớm hơn và trong năm 2010, gần 75% lượng bò sữa lứa 1 được thụ tinh trong 00 ngày đầu chu kỳ.

Trong góc độ thực hành thụ tinh sớm cho bò lứa 1 đã không giúp được gì nhiều, khi ít hơn 10% số bò như thế có thai trong 75 ngày đầu chu kỳ sữa và chỉ có 45% có thai trong 110 ngày. Gần 30% số bò lứa 1 có thai quá 150 ngày đầu chu trong sữa và trung bình số ngày chửa lại đầu tiên là 129 ngày.

Bò sữa trưởng thành được thụ tinh lại từ ngày thứ 50 sau khi đẻ. Gần 90% loại bồ này được thụ tinh lại từ 50 đến 110 ngày đầu chu kỳ sữa và chỉ có 10% sau hơn 150 ngày. Tỷ lệ thụ thai của bò được làm mát tích cực cao hơn đáng kể so với bò không được (59% so với 17% và 57% Vs 17%), trong phối lần đầu và tất cả các lần phối giống, tương ứng. Tỷ lệ mang thai sau 90, 120 và 150 ngày sau khi đẻ khác biệt đáng kể giữa các nhóm (44%, 59% và 73% và 5%, 11% và 11%) tương ứng cho các các nhóm được làm mát và không. Trong một bài giảng trong sự kiện này, công trình nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Khoa học động vật của Đại học Hebrew, Jerusalem đã được trình bày. Trong hơn hai thập kỷ các nhà khoa học đã nghiên cứu để phát triển các phương pháp điều trị nội tiết tố hỗ trợ để cải thiện khả năng sinh sản vào mùa hè bò. Trong số các điều trị đó ta có thể tìm thấy những điều sau đây:

Những nỗ lực đó nhằm điều khiển lượng progesterone trong máu sau khi thụ tinh để hỗ trợ mang thai, điều trị hormon GnRH trong giai đoạn phối giống để cải thiện điêu khiển thời gian hợp lý (timing) giữa rụng trứng và thụ tinh, sự cải thiện của trứng chất lượng thông qua điều trị nội tiết tố để loại bỏ nang già tuổi được sản xuất trong điều kiện stress nhiệt và sử dụng kỹ thuật thụ tinh mùa hè có ấn định thời gian và cấy phôi. Một phần lớn các phương pháp điều trị đã được phát hiện để cải thiện tỉ lệ thụ thai trong mùa hè cùng việc làm mát cho vật nuôi.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất sinh sản và sữa ở bò (Phần 1)

Ravagnolo et al. (2000) báo cáo rằng nhiệt độ tối đa và độ ẩm tương đối tối thiểu là các biến quan trọng nhất để định lượng stress nhiệt, và cả hai biến được dễ dàng kết hợp thành một chỉ số gọi là THI.

Sản lượng sữa giảm 0,2 kg theo THI tăng 1 đơn vị khi THI vượt quá 72. Các tác giả kết luận rằng THI có thể được sử dụng để ước lượng ảnh hưởng của stress nhiệt đến sản xuất.

Rõ ràng với kích thước cơ thể tương tự và diện tích bề mặt, con bò đang cho sữa chứa nhiều hơn đáng kể lượng nhiệt để giải tỏa hơn so với một con bò không cho sữa và sẽ gặp khó khăn lớn hơn để làm việc này trong môi trường nóng, ẩm ướt. Nếu so sánh bò không cho sữa, hoặc cho sữa ít (18,5 kg / ngày) hoặc cao (31,6 kg / ngày), con bò có năng suất cao và thấp tạo ra nhiệt nhiều hơn 27 và 48% so với bò không cho sữa bò mặc dù có thấp hơn về khối lượng cơ thể (752, 624, và 597 kg cho tương ứng 3 loại bò không vắt sữa, thấp, và cao, tương ứng) (Purwanto et al., 1990).

Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sữa của bò

Thở nhiều và đổ mồ hôi tăng sự phụ thuộc vào mức tăng làm mát bay hơi. Thở làm giảm CO2 qua thông qua phổi, làm giảm nồng độ trong máu của axit carbonic và làm xáo trộn sự cân bằng quan trọng của axit carbonic để bicarbonate cần thiết để duy trì độ pH trong máu, dẫn đến nhiễm kiềm hô hấp (Benjamin, 1981). Việc bồi thường cho các nhiễm kiềm hô hấp liên quan đến việc tăng tiết niệu bài tiết bicarbonate (Benjamin, 1981), dẫn đến một sự suy giảm nồng độ bicarbonate huyết.

Beede và Collier (1986) đã xác định ba chiến lược quản lý để giảm thiểu những ảnh hưởng của stress nhiệt:

1) thay đổi vật lý của môi trường (bóng, làm mát)

2) Tăng cường cải tiến di truyền tạo nên các giống/dòng chịu nhiệt

3) cải thiện dinh dưỡng. Dựa trên kiến ​​thức hiện nay, sự kết hợp các hoạt động này có thể tối ưu hóa để tối ưu hóa khả năng sản xuất sữa trong khí hậu nóng ẩm.

Lợi ích từ phun nước và quạt đã được nghiên cứu ở môi trường ôn đới và khí hậu ẩm ướt (Bang Kentucky, Mỹ) cho thấy, tại đó bò cho hơn 3,6 kg sữa (15,9%) trong khi tiêu thụ hơn 9,2% thức ăn mỗi ngày so với nhóm đối chứng (Turner et al., 1992). Công trình Missouri và Israel cho thấy sữa tăng 0,7 kg / ngày ở nhiệt độ vừa phải (Igono et al., 1985) và 2,6 kg kg trong môi trường nóng ẩm (Her et al., 1988. Tần suất làm ướt và thời gian làm mát là rất quan trọng đối với hiệu quả của hệ thống làm mát. Bò được làm ướt 10 giây ít hiệu quả so với bò được làm ướt 20 hoặc 30 giây (có tác dụng tương tự) (Flamenbaum et al., 1986)

Tương tự, bò được làm lạnh bằng vòi phun nước và quạt trong thời gian cạn sữa duy trì nhiệt độ cơ thể thấp hơn và bê được đẻ ra nặng hơn 2,6 kg và cho thêm 3,5 kg sữa / ngày trong 150 ngày đầu của chu kỳ so với bò chỉ được ở trong bóng mát (Wolfenson et al. , 1988).

Tuy nhiên nghiên cứu từ miền nam Hoa Kỳ và vùng Caribbean chỉ ra rằng bò cái giống Holstein được nuôi ở vĩ độ thấp hơn 34°N có khối lượng sơ sinh bé hơn 6-10%, và lúc trưởng thành bé hơn 16% so với bò được nuôi ở các vĩ độ phía bắc, ngay cả khi chúng là con của một bò đực giống (NRC, 1981).

Bởi vì bê cái hậu bị sinh ra ít nhiệt cơ thể và có thể giải tỏa nhiệt dễ dàng hơn so với bò cho sữa, vậy làm mát chúng sẽ có lợi gì?

Tại Ai Cập, bê được cho tiếp xúc với 3 môi trường: mùa đông (17,3 ° C, 54,5% RH), mùa hè (36 ° C, 47% RH), và mùa hè có phun nước phun cùng với cho uống thuốc gây thoát mồ hôi (oral diaphoretic) (Marai et al., 1995). Thuốc thuốc gây thoát mồ hôi (trong thí nghiệm này acetate) là một hợp chất được cho gia súc ăn để tăng tiết mồ hôi. Bê hậu bị được phun nước bảy lần mỗi ngày trong khoảng thời gian nóng nhất trong ngày. Bê hậu bị được làm lạnh có nhiệt độ trực tràng và tần suất thở đều thấp hơn và tăng trọng thêm 26,1% nhờ được làm mát trong mùa hè, một sự gia tăng mạnh mặc dù bê chỉ được phun nước trong thời gian nóng nhất trong ngày mà không sử dụng quạt.

Phân hủy protein thức ăn có thể đặc biệt quan trọng trong điều kiện stress nhiệt. Chế độ ăn với hàm lượng đạm thô thấp (31,2%) và cao (39,2%) đạm không phân hủy (undegraded feed protein – RUP) trong điều kiện thời tiết nóng không tác động đến thu nạp vật chất khô (Dry Matter Intake – DMI); tuy nhiên năng suất tăng thêm 2,4 kg/ngày và lượng Ure trong máu giảm từ 17,5 xuống 13,3 /100 ml đối với chế độ ăn uống có chứa đạm không phân huy cao hơn (Belibasakis et al., 1995).

Công trình nghiên cứu tại bang Arizona được tóm tắt bởi Huber et al. (1994) cho thấy rằng một khi bò được đưa vào môi trường nóng thì đạm có thể phân hủy trong dạ cỏ (Rumen Degradable Protein – RDP) không được vượt quá 61% protein thô trong khẩu phần, và tổng số protein không được vượt so với khuyến nghị của tiêu chuẩn NRC (Mỹ) quá 100 g Nito /ngày. Một trăm gram N tương đương với khoảng 3,1% đạm thô trong khẩu phần ăn, với giả sử là 20 kg lượng vật chất khô thu nạp / ngày. Lysine trong khẩu phần cao (241 g/ ngày, 1% vật chất khô) tăng sản lượng sữa thêm 3 kg so với khẩu phần có chứa 137g lysin /ngày (= (0,6% vật chất khô) (Huber et al., 1994).

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh viêm mắt ở dê

Bệnh viêm mắt là một trong những bệnh lây lan và gây thiệt hại lớn trên đàn dê, để phòng và trị bệnh hiệu quả cần nắm vững một số kiến thức về nguyên nhân và cách phòng trị như sau:

 1. Nguyên nhân và đặc điểm truyền lây của bệnh

– Dê bị viêm mắt do nguyên nhân cơ học, sau đó nhiễm khuẩn kế phát trong quá trình chăn thả hoặc nuôi nhốt tại chuồng bị dị vật như que, gai hoặc các loại lông, lá cây, bụi bẩn và chất thải rơi vào mắt.

– Viêm mắt do các vi khuẩn kế phát từ các bệnh gây viêm vú, viêm phổi, viêm khớp, viêm phế mạc…

2. Triệu chứng lâm sàng

– Ban đầu bệnh nhẹ thì thấy vùng lông, da dưới mắt cạnh mắt bị ướt do nước mắt chảy nhiều sau đó kết mạc mắt đỏ và sưng.

– Sau vài ngày niêm mạc mắt xung huyết nặng, giác mạc mắt bị mờ một phần ở giữa hoặc mờ đục hoàn toàn nếu nặng hơn thì có thể thấy loét giác mạc, con vật đau mắt khó chịu, mắt nhắm hờ và hay nháy mắt. Nếu cả hai mắt bị mờ hoặc loét thì thấy dê sút cân rõ rệt do dê không ăn được.

– Một số con viêm mắt nhưng mắt không bị loét thì có thể tự khỏi trong khoảng 1 – 2 tuần.

3. Phòng và trị bệnh

– Chăm sóc và quản lý đàn dê khi chăn thả nhằm tránh dê ngã, lăn dốc hoặc húc nhau.

– Loại bỏ dị vật ở bãi chăn và chuồng nuôi tránh tổn thương cho dê, giữ vệ sinh chuồng nuôi.

– Khi dê có triệu chứng viêm cần tiến hành rửa mắt cho dê bằng dung dịch nước muối loãng nồng độ 15‰ hoặc dùng nước sôi để nguội rửa sạch bụi bẩn, ngoại vật và các chất nhầy.

– Dùng các loại thuốc nhỏ mắt dạng mỡ như Tetracyclin bôi vào mắt dê sẽ đem lại hiệu quả tốt, các loại thuốc nhỏ mắt nhóm Chloramphenicol có tác dụng rất tốt nhưng không dùng cho dê nuôi lấy sữa vì kháng sinh sẽ tồn lưu trong sữa gây hại cho người.

– Trường hợp mắt kéo màng, dùng sulphát kẽm 10% nhỏ 2 – 3 lần/ngày.

– Nếu đàn dê mắc nhiều hoặc mắc các bệnh như viêm vú hay viêm phổi thì cần phải điều trị triệt để bằng kháng sinh cho khỏi các bệnh trên và kết hợp với vệ sinh và dùng thuốc nhỏ mắt.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Một số lưu ý khi chăn nuôi dê

1. Chọn phương thức chăn nuôi hợp lý

Tùy theo điều kiện đất đai, diện tích đồng cỏ, khả năng kinh tế,… mà chọn phương thức chăn nuôi quảng canh, bán thâm canh hoặc thâm canh.

Những vùng trung du, miền núi; những nơi còn đất hoang hóa rộng nên chăn nuôi dê theo phương thức quảng canh. Phương thức này phù hợp với nuôi dê thịt. Lợi ích của phương thức chăn nuôi quảng canh là tiết kiệm được chi phí thức ăn, nhân công và chi phí chuồng trại… Nhưng bất lợi là khó quản lý đàn, khó kiểm soát được dịch bệnh và quá trình sinh sản của dê.

Những khu vực ven đô, những vùng đất hẹp không có điều kiện chăn thả nên nuôi dê theo phương thức bán thâm canh hoặc thâm canh. Phương thức này phù hợp với chăn nuôi dê sữa hoặc kiêm dụng sữa – thịt. Chăn nuôi dê thâm canh hoặc bán thâm canh đòi hỏi chi phí lớn về thức ăn, xây dựng chuồng trại và nhân công nhưng lại dễ kiểm soát và quản lý về sinh sản và dịch bệnh.

2. Quan tâm đến công tác giống

Chọn dê đực, dê cái làm giống rất quan trọng. Phải chọn những con có lý lịch rõ ràng, có bố mẹ, ông bà thuộc loại chất lượng tốt.

Bản thân dê đực hoặc dê cái chọn làm giống phải có các đặc điểm đặc trưng của giống, phải là những con ưu tú trong đàn, linh hoạt, khoẻ mạnh; ăn khỏe. Thân hình phải cân đối. Bộ phận sinh dục phát triển bình thường.

Không chọn làm giống những con:

– Lý lịch không rõ ràng hoặc bố mẹ, ông bà thuộc loại còi cọc, năng suất thấp.

– Có các đặc điểm ngoại hình như: đầu dài, trụi lông tai; cổ ngắn; sườn thẳng; bụng nhỏ.

– Tứ chi không thẳng, vòng kiềng, yếu ớt, không chắc chắn. Móng chân không gọn, đều và thẳng.

Cần bỏ thói quen lưu giữ một đực giống trong đàn một thời gian dài. Thông thường chỉ nên sử dụng dê đực giống đến 6 năm tuổi. Điều cũng không tốt là một số người chăn nuôi chọn ngay một con đực trong đàn để làm giống, phối cho cả đàn, dẫn đến tình trạng bố nhảy con, ông nhảy cháu, anh em nhảy lẫn nhau gây nên hiện tượng đồng huyết, làm cho đàn dê còi cọc, lưỡng tính dục, khả năng sinh sản kém, tỷ lệ chết cao và chăn nuôi kém hiệu quả.

Không nên cho dê cái sinh sản sớm. Thông thường dê phát dục vào lúc 5- 6 tháng tuổi. Nhưng để bảo đảm cho dê sinh sản tốt thì chờ đạt 8 tháng tuổi mới nên cho phối giống. Nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến con mẹ, đời con sinh ra bị còi cọc, chất lượng giống giảm sút.

Muốn làm tốt công tác giống cần có sổ sách theo dõi phối giống và sinh sản của dê.

3. Xây dựng chuồng nuôi dê đúng quy cách kỹ thuật

Bản tính của dê là thích ở nơi cao ráo, sạch sẽ, vì vậy chuồng nuôi dê phải làm sàn, cao cách mặt đất khoảng 40 – 80cm, có thang cho dê lên xuống dễ dàng. Có thể làm sàn bằng nan gỗ, tre hoặc vầu nhưng phải bảo đảm chắc chắn, nan sàn phải đều, nhẵn, khe rộng 1,5 – 2,0 cm để dễ lọt phân nhưng không làm dê bị kẹt móng.

Chuồng dê được xây dựng thoáng mát, sạch sẽ

Dê thích ăn ở độ cao, không gặm và nhặt thức ăn trên mặt đất như trâu bò, do đó cần phải treo máng ăn cách mặt đất 0,2 – 0,5 m. Máng ăn phải đủ dài, bảo đảm tất cả dê có thể ăn cùng một lúc và không rơi vãi, tránh lãng phí thức ăn.

4. Khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn thức ăn nuôi dê

So với trâu, bò, cừu, dê ăn được nhiều loại lá hơn và có biên độ thích ứng rộng đối với mùi vị của cây lá. Nó có thể ăn được cả các loại lá có chứa độc tố, các loại lá cay, đắng mà các loài gia súc khác không ăn được như lá xà cừ, lá xoan, lá chàm tai tượng… Vì vậy khi nuôi dê nên tận dụng và khai thác tối đa các loại cây lá này. Đồng thời cần tận dụng tối đa các loại phế phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp chế biến để nuôi dê, nhằm giảm giá thành sản phẩm và nâng cao hiệu quả kinh tế chăn nuôi.

5. Tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh

Phải chăm sóc và nuôi dưỡng dê hợp lý. Thức ăn, nước uống phải đầy đủ, chất lượng tốt. Thường xuyên làm vệ sinh chuồng nuôi, sân chơi, máng ăn, máng uống. Bảo đảm chuồng nuôi luôn khô ráo, sạch sẽ.

Thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ tránh dịch bệnh xảy ra

Dê có thể mắc một số bệnh truyền nhiễm như tụ huyết trùng, dịch tả, lở mồm long móng, nhiệt thán … Đây là những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, thường gây tỷ lệ chết cao. Để đề phòng các bệnh này phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tiêm vắc-xin của các cơ quan thú y.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Khánh Hòa: Bão số 12 gây thiệt hại trên 13.500 tỷ đồng

Theo báo cáo mới nhất của BCH PCTT – TKCC tỉnh Khánh Hòa, cơn bão số 12 khiến toàn tỉnh có 44 người chết cùng nhiều thiệt hại về tài sản, cây trồng, gia súc gia cầm và thủy hải sản, ước tính thiệt hại trên 13.500 tỷ đồng.

Theo đó, Khánh Hòa có 44 người chết, 1 người mất tích; 212 người bị thương; có 2.792 nhà sập hoàn toàn, 114.098 nhà tốc mái; 29.381 ha cây trồng bị thiệt hại. Trong đó có hơn 4.374 ha lúa, 2.066 ha rau màu, 668 ha cây lâu năm, 15.072 ha cây hàng năm, hơn 7.200 ha cây ăn quả.

Về gia súc, gia cầm và thủy hải sản, toàn tỉnh có khoảng 153.204 con gia cầm, 286 con heo và 626 con bò bị cuốn trôi và chết. Diện tích nuôi trồng thủy sản các loại là 133.023 ha, 68.864 lồng nuôi thủy sản bị cuốn trôi, 1.141 tàu thuyền bị đánh chìm.

Ngoài ra, nhiều công trình thủy lợi, giao thông, điện, thông tin liên lạc, trường học, trạm y tế, trụ sở cơ quan, cơ sở sản xuất và cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn tỉnh bị hư hỏng nặng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.