Nuôi xen ghép tôm sú – cá dìa – cua

Đầu năm 2017, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Quảng Bình phối hợp với Phòng NN-PTNT huyện Quảng Ninh triển khai mô hình nuôi xen ghép tôm sú, cá dìa và cua trên diện tích ao nuôi 3.000m2 của gia đình bà Lê Thị Lịch ở thôn Trúc Ly, xã Võ Ninh.

Nuôi xen ghép tôm sú – cá dìa – cua 

Trong quá trình thực hiện mô hình, gia đình bà Lê Thị Lịch được hỗ trợ con giống gồm 1.500 con cá dìa, 45.000 con tôm sú và 1.500 con cua và được tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật và trực tiếp hướng dẫn quy trình, theo dõi tình hình sinh trưởng, phát triển của các loại đối tượng thủy sản nuôi trồng.

Sau gần 5 tháng thực hiện, nhìn chung mô hình phát triển khá tốt. Trọng lượng bình quân cá dìa đạt 200 gram/con, tôm sú 40 con/kg và cua 200 gram/con. Theo đánh giá tại hội thảo, mô hình cho thu hoạch 2 tạ cá dìa, 1,5 tạ cua và 6,7 tạ tôm sú, tổng doanh thu ước đạt hơn 182 triệu đồng; trừ chi phí đầu tư, hộ nuôi trồng có thu nhập 90 triệu đồng.

Đây là hình thức nuôi trồng mới, nuôi xen ghép các đối tượng nhằm cải thiện môi trường, hạn chế dịch bệnh, khai thác được tiềm năng ao hồ nuôi trồng thủy sản mặn lợ, hồ nuôi tôm kém hiệu quả hoặc bỏ hoang sang nuôi theo mô hình, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập.

Nguồn: Baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đột phá giống thủy sản

Năm 2017, dù chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, thị trường tiêu thụ khó khăn… nhưng ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh Nghệ An vẫn đạt và vượt kế hoạch. Thành công trên được xác định ở khâu đột phá về giống.

Tính đến cuối năm 2017, diện tích nuôi trồng thuỷ sản tại Nghệ An đạt 21.333ha bằng 102% kế hoạch và bằng 103% so cùng kỳ năm 2016. Trong đó diện tích nuôi nước ngọt 18.926ha, nuôi mặn lợ 2.408ha.

Nuôi tôm thắng lớn

Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản 50.253 tấn bằng 101% kế hoạch và bằng 105% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, sản lượng nuôi ngọt 39.626 tấn, sản lượng nuôi mặn lợ 10.627 tấn.

Diện tích nuôi tôm đạt 2.119ha, trong đó nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) 2.072ha, tôm sú 27ha, chủ yếu là thâm canh, bán thâm canh. Sản lượng tôm 6.582 tấn, bằng 120% kế hoạch và bằng 108% năm 2016, năng suất bình quân 4,5 tấn/ha.

Trong năm 2017, ngành thủy sản Nghệ An triển khai 3 mô hình nuôi TTCT thâm canh không sử dụng kháng sinh, không sử dụng hóa chất, áp dụng VietGAP; 2 mô hình nuôi TTCT thâm canh tuần hoàn khép kín áp dụng VietGAP. Các tổ chức quản lý cộng đồng tại các vùng nuôi tiếp tục được củng cố; nhiều tiến bộ KHKT được người nuôi áp dụng.

Hiện toàn tỉnh có 7 vùng (240ha) nuôi tôm nước lợ áp dụng tiêu chuẩn VietGAP; 5/7 vùng nuôi tôm an toàn sinh học được đánh giá và cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP. Nhiều hộ nuôi trồng áp dụng quy trình sản xuất VietGAP cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn so với các vùng khác từ 20 – 25%. Nhiều vùng nuôi đạt hiệu quả cao như Nam Tiến, Quỳnh Bảng (Quỳnh Lưu) với 90% hộ nuôi có lãi từ từ 200 triệu – 2,5 tỷ đồng/hộ. Vùng nuôi Quỳnh Dị, Quỳnh Xuân (TX Hoàng Mai), Quỳnh Thanh (Quỳnh Lưu) khoảng 80% số hộ có lãi, mức lãi từ 100 – 500 triệu/hộ, có một số hộ mức lãi từ 1 – 5 tỷ đồng…

Tổng giá trị sản xuất trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản Nghệ An năm 2017 ước đạt 2.626 tỷ đồng, bằng 129% so cùng kỳ năm 2016.
Nhờ thời tiết thuận lợi, diện tích nuôi cá – lúa đạt 4.511ha bằng 101% so cùng kỳ năm 2016. Nhiều hộ dân ứng dụng lồng nuôi công nghệ vào nuôi cá lồng trên sông, hồ đập mặt nước với trên 70% số lồng nuôi. Số lượng lồng nuôi toàn tỉnh năm 2017 là 696 chiếc, tăng 246 chiếc so năm 2016, tập trung tại các huyện Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Hợp, Quỳ Châu… Các lồng nuôi phát triển mới trong năm đều lắp đặt theo công nghệ cải tiến.

Toàn tỉnh hiện có 13 cơ sở sản xuất giống thủy sản mặn lợ; 13 cơ sở sản xuất, kinh doanh cá giống, trong đó 15 cơ sở xếp loại A, 11 cơ sở xếp loại B. Năm 2017 đã có 15.073 con cá; 1.700 con TTCT; 100% số tôm sú bố mẹ được kiểm tra, đạt chất lượng. Toàn tỉnh sản xuất, ương dưỡng được 1.535 triệu con TTCT; 184 triệu tôm sú giống; 31 triệu con cua giống; 1 triệu con cá hồng mỹ, cá bống bớp, cá chim, cá đối. Việc sản xuất ương dưỡng giống thủy sản ở Nghệ An cơ bản đáp ứng được nhu cầu nuôi trên địa bàn và xuất bán các tỉnh lân cận.

Kiểm tra tôm giống TTCT tại Cty Hải Tuấn, phường Quỳnh Dị, TX Hoàng Mai

Trên địa bàn có 6 trại sản xuất cá giống cấp 1 và 7 cơ sở sản xuất giống cấp 2. Đối tượng sản xuất chủ yếu là các loại cá truyền thống như trắm, trôi, mè, chép, rô phi. Tổng số lượng cá bố, mẹ đưa vào sinh sản năm 2017 là 15.073 con, gồm 8.809 cá cái, 6.264 cá đực, tổng khối lượng 15.918kg; cá bố mẹ đáp ứng tiêu chuẩn quy định. Sản lượng cá giống sản xuất được năm 2017 đạt 704 triệu con cá bột, 54.885kg cá hương, 312.585kg cá giống.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kinh nghiệm đo độ kiềm (KH) trong ao nuôi tôm cá

Trong nuôi tôm, độ kiềm là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất tôm nuôi. Kiểm tra độ kiềm hàng tuần là cần thiết trong quản lý ao nuôi tôm. Bài viết cung cấp kinh nghiệm đo độ kiềm trong ao nuôi tôm cá.

Kinh nghiệm đo độ kiềm (KH) trong ao nuôi tôm cá

Độ kiềm trong nước là gì?

Độ kiềm là thước đo khả năng trung hòa acid của nước. Trong nuôi trồng thủy sản độ kiềm chỉ hàm lượng các ion HCO3-, CO32-, OH- trong nước, đơn vị là mg CaCO3/L .

Tầm quan trọng độ kiềm trong nước

Độ kiềm trong nước ít có tác động trực tiếp đến đời sống của các loài thủy sản nhưng lại tác động lên các yếu tố có liên quan như sự phát triển của thủy thực vật (tảo), ảnh hưởng tới pH, ảnh hưởng đến mức độ độc hại của khí độc và kim loại nặng trong nước. Năng suất sơ cấp (tảo) của ao nuôi tỉ lệ thuận với độ kiềm, vì vậy ao nuôi có độ kiềm cao dễ gây tảo hơn.

Nhiều người nuôi tôm mặc định là khi trời mưa phải bón vôi nhưng chưa thật sự hiểu được ý nghĩa thật sự của nó. Nước mưa mang theo lượng lớn acid chúng làm trung hòa lượng bicarbonate làm độ kiềm giảm kéo theo pH giảm đột ngột. Kiềm và pH giảm cùng lúc ảnh hưởng xấu đến tôm nếu không có biện pháp ngăn ngừa kịp thời tôm nuôi sẽ gặp sự cố ngay.

Lưu ý khi đo độ kiềm

Vì độ kiềm đặc biệt quan trọng trong nuôi tôm do đó người nuôi tôm thường phải đo độ kiềm ít nhất 1 lần trong ngày. Để đo độ kiềm người ta thường sử dụng 3 cách:

– Phương pháp chuẩn độ: Dùng khi cần độ chính xác cao và trong phòng thí nghiệm.

– Sử dụng máy đo: Máy đo hiện tại vẫn chưa tiện dụng nên vẫn cần những thao tác phức tạp và chi phí khá cao.

– Sử dụng bộ test kít: Đây là phương pháp được nhiều sự lựa chọn bởi thao tác thực hiện đơn giản, giá rẻ có thể áp dụng nhanh trong nuôi trồng thủy sản hiện nay.

Một số lưu ý giúp bạn đo độ kiềm ao nuôi chính xác hơn:

– Lựa chọn loại Test kít uy tín dựa trên độ chính xác và độ đơn giản thao tác: Bộ Test kH được sử dụng nhiều hiện nay là bộ test kH của Sera (Đức) với ưu điểm kiểm tra nhanh, thao tác dễ dàng và độ tin cậy cao (Bạn có thể tham khảo tại đây).

– Đọc kỹ hướng dẫn thao tác kèm theo bộ Test và thao tác đúng quy trình đó để có kết quả tốt nhất.

– Luôn bảo quản thuốc thử nơi khô ráo thoáng mát và theo yêu cầu bảo quản của nhà sản xuất. Nghi ngờ thuốc thử hỏng phải dùng mẫu mới kiểm tra đối chiếu.

– Khui nắp: Nếu nắp đậy lọ thuốc thử có đầu kim thì dùng đầu kim này để chích vào nắp nhỏ giọt. Nếu không thì dùng dao cắt lỗ nhỏ sao cho thuốc thử không tự chảy ra khi úp ngược lọ mẫu.

– Ống nghiệm luôn phải được vệ sinh bằng nước sạch trước và sau khi sử dụng.

– Lắc kỹ thuốc thử trước khi kiểm tra.

– Tuân thủ nguyên tắc lấy mẫu như: mẫu mang tính đại diện vị trí lấy mẫu phải lấy ở tầng giữa cách mặt nước 50cm, dụng cụ thu mẫu, bảo quản và vẫn chuyển mẫu phải đảm bảo sạch.

– Không thu mẫu ngay sau khi xử lý hóa chất xuống ao.

– Mẫu nước đưa lên phải được đo ngay khi có thể hoặc mẫu phải được chuyển ngay đến phòng thí nghiệm. Việc đo các thông số của mẫu nước sẽ ít sai số hơn khi thực hiện đo nhanh trong vòng 30 phút kể từ khi lấy mẫu nước.

Độ kiềm phù hợp trong ao nuôi trồng thủy sản 75mg/l – 200mg/l với tôm thẻ chân trắng độ kiềm thích hợp là 120 – 150 mg CaCO3/l, với tôm sú độ kiềm thích hợp là 80 – 120 mg CaCO3/L.

Độ kiềm trong ao nuôi tôm thấp thường do: độ mặn thấp, ao bị phèn, thực vật phù du (tảo) phát triển mạnh, 2 mảnh vỏ ốc quá nhiều. Để tăng kiềm tốt nhất kết hợp loại bỏ các tác nhân này kết hợp bón vôi CaCO3 hoặc sử dụng Sodium bicarbonate (soda), liều soda 1,68mg/l để phục hồi 1mg/L kiềm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) đã giúp nhiều nông dân thoát khỏi cảnh nợ nần do nuôi tôm.

Mô hình nuôi ghép tôm cua, cá kình, cá đối mang lại hiệu quả cao, ít xảy ra dịch bệnh

Là người gây dựng cơ nghiệp từ nghề nuôi trồng thủy sản, những sáng kiến của chị Trần Thị Hồng Vân đã giúp nông dân thoát cảnh nợ nần, có thêm sinh kế mới. Vân được T.Ư Đoàn trao giải thưởng Lương Định Của 2017.

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) là giải pháp giúp hàng trăm hộ nuôi trồng thủy sản tại H.Quảng Điền thoát cảnh nợ nần, thua lỗ.

Trần Thị Hồng Vân đã dành nhiều tháng khảo sát trên các ao nuôi, tìm đọc tài liệu về nuôi trồng thủy sản để giải mã hiện tượng tôm sú dịch bệnh. Ngoài nguồn nước, Vân cho rằng người dân chỉ nuôi tôm sú, lượng thức ăn tồn dư quá nhiều cũng làm tăng ô nhiễm nguồn nước, làm phát sinh dịch bệnh. Bằng kiến thức đã tìm hiểu và tham vấn ý kiến các nhà khoa học, chị Vân tìm cách vận động người dân chuyển đổi giống nuôi trồng, đặc biệt là đưa cá đối vào nuôi xen ghép cùng các loại thủy sản khác.

“Người dân bao năm chỉ nuôi tôm sú, tâm lý bảo thủ nên chuyển đổi sang nuôi con khác thì không mặn mà, bỡ ngỡ, mình phải đến từng nhà kiên trì vận động làm thử”, chị kể lại.

Chị Vân đã thử nghiệm nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối trên diện tích 8 ha, được chính quyền địa phương ủng hộ, hỗ trợ miễn phí giống cá đối. Qua một vài đợt nuôi thử nghiệm, các ao nuôi đều cho năng suất cao, đặc biệt là không xảy ra dịch bệnh.

“Khi thả vào ao nuôi xen ghép, con cá đối có vai trò như đối tượng xử lý môi trường khi ăn thức ăn dư thừa và các mùn bã hữu cơ, phân của các loài khác khiến môi trường nước được cải thiện, loại bỏ tác nhân ô nhiễm do thức ăn dư thừa. Chi phí cho mô hình xen ghép này thấp hơn so với chỉ chuyên nuôi tôm sú. Người nuôi có thu nhập tăng thêm từ con cá đối với mức giá bán 80.000 – 120.000 đồng/kg”, chị Vân chia sẻ.

Thành công đó nhanh chóng được người dân nhân rộng. Sau 3 năm, diện tích ao nuôi chuyển đổi, xen ghép đã lên tới 643 ha, chiếm 99% tổng diện tích ao nuôi tại địa phương. Mô hình này cũng được chọn để nhân rộng trong toàn H.Quảng Điền, vực nghề nuôi thủy sản phát triển, kinh tế nhiều hộ gia đình đã phục hồi trở lại sau một thời gian dài rơi vào cảnh nợ nần do thất bại từ việc nuôi tôm.

Nguồn: Báo Thanh Niên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cua lột trong hộp

Cua lột là một loại cua thương phẩm đặc biệt. Ở các tỉnh ven biển Nam Bộ sau mùa sinh sản tự nhiên vài tháng có nhiều cua con cỡ từ 25-60g/con. Người ta chọn loại cua đó để nuôi cua lột.

Công trình và thiết bị

– Hộp nuôi cua lột màu đen được làm từ nhựa PP chịu được va đập, nắng nóng.

– Thành hộp dày 1,2 – 2 mm. Phần nắp hộp nằm trên mặt nước cao 5 – 5,5cm

– Mặt trên có cắt lỗ 3x3cm để thuận lợi quá trình cho ăn.

– Đáy hộp có khoảng 12 lỗ, mỗi lỗ 8-10mm cho nước luân chuyển.

– Ngoài ra cần làm thêm hệ thống mái che, hệ thống cung cấp Oxy, máy quạt nước để đảm bảo môi trường tốt cho cua phát triển.

Chăm sóc và quản lý

– Cho ăn 2 lần/ngày, thức ăn là cá tạp, còng, nhuyễn thể 2 mảnh, phụ phẩm sò lông, sò điệp… Thường xuyên kiểm tra cua 2-3 lần/ngày trong suốt quá trình cua lột.

– Cua sau khi nuôi từ 28-30 ngày sẽ tiến hành lột. Cua lột vỏ nhiều nhất từ 34-40 ngày sau khi nuôi sau đó giảm dần. Thời gian cua lột từ 8h-0h. Cua lột sau khi bắt phải tiến hành thả vào nước ngọt 15-20 phút rồi mới đem đi bảo quản.

– Các chỉ số môi trường phù hợp để cua phát triển: Độ mặn: 15-25 ‰, Nhiệt độ: 26-30 ºC, DO: >3ppm, pH: 7.8 – 8.5

Các mô hình nuôi cua trong hộp nhựa

Nuôi cua lột công nghiệp

Nuôi cua lột kết hợp cá rô phi

Nuôi cua lột kết hợp nuôi tôm quảng canh

Nuôi cua lột kết hợp trồng rong biển

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tổng kết tình hình sản xuất muối và artemia

Ngày 15-11, tại Nhà văn hóa xã Vĩnh Tân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp UBND TX. Vĩnh Châu tổ chức Hội nghị tổng kết tình hình sản xuất muối, artemia năm 2017 và triển khai kế hoạch năm 2018.

Sản xuất artemia ở Vinh Châu.

Theo báo cáo, tổng diện tích sân nền sản xuất muối là 50,3ha, sản lượng thu hoạch 2.400 tấn, năng suất bình quân 47,7 tấn/ha và sản lượng muối mà diêm dân sau thu hoạch tiêu thụ được 63%, giá muối dao động từ 600 đồng – 750 đồng/kg; hiện số muối còn dự trữ tại hộ khoảng 880 tấn. Theo bà con diêm dân, sau thu hoạch trừ các khoản chi phí thì sản xuất muối mang lại lợi nhuận 3 triệu đồng/ha.

Đối với artemia, diện tích thả nuôi là 694ha, đạt 100% kế hoạch, có 302 hộ tham gia, sản lượng trứng bào xác thu hoạch gần 13.400kg, năng suất bình quân ước 19kg/ha, sau khi artemia hết cho trứng thì thu sinh khối bán với số lượng 117.950kg, giá trứng bình quân từ 1 – 1,1 triệu đồng/kg, ước giá trị hơn 14,7 tỉ đồng, người dân lợi nhuận đã trừ chi phí là 18 triệu đồng/ha.

Trong quá trình sản xuất, bà con gặp thuận lợi trong chỉ đạo sản xuất của các ban ngành địa phương nên đã ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật do ngành chuyên môn chuyển giao trong kỹ thuật sản xuất muối, nuôi artemia, kể cả đầu tư cơ sở hạ tầng, cải tiến các quy trình sản xuất, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm…

Bên cạnh thuận lợi đã nêu, tình hình sản xuất tại hộ dân được các đại biểu chia sẻ còn gặp một số khó khăn, như: thời tiết diễn biến phức tạp, mưa nhiều làm ảnh hưởng đến làm muối, việc thả nuôi artemia; hiện các kênh thủy lợi nội đồng bị bồi lắng làm ảnh hưởng trong việc lấy nước lên ruộng nuôi, nguồn vốn hỗ trợ còn hạn hẹp, khó tiếp cận vốn ngân hàng, đầu ra sản phẩm phụ thuộc thương lái.

Trong năm 2018, kế hoạch sản xuất muối trên địa bàn TX. Vĩnh Châu dự kiến 100ha, sản lượng 5.000 tấn và artemia sản xuất 650ha, sản lượng trên 30 tấn, năng suất khoảng 50kg/ha.

Để vụ mùa thành công cũng như tiêu thụ tốt sản phẩm sau thu hoạch, đồng chí Trương Văn Đúng nêu giải pháp trọng tâm, gồm: đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông nội bộ ở các hợp tác xã về nạo vét kênh cấp thoát nước bị bồi lắng, sạt lở, gia cố đường vận chuyển muối; tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật; mở các lớp chuyển giao kỹ thuật mới trong sản xuất muối, artemia; đề xuất các chính sách đầu tư vốn tín dụng, hỗ trợ lãi suất cho các hộ dân và hợp tác xã, xúc tiến thương mại mở rộng thị trường; nâng cao chế biến tạo sự ổn định trong khâu tiêu thụ.

Nguồn: Báo Sóc Trăng được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

 

Nuôi cua đá lợi nhuận cao trên đảo Phú Quý

Cua đá khỏe, dễ nuôi, năng suất cao, ít dịch bệnh nên người nuôi không cần phải tốn nhiều kinh phí đầu tư và ít tốn công chăm sóc. Hiệu quả từ mô hình nuôi cua đá đang mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho người dân đảo Phú Quý.

Ông Nguyễn Ngọc Phi ở thôn Triều Dương xã Tam Thanh đã mạnh dạn thử nghiệm mô hình nuôi cua đá. Ông dùng tôn xi măng dựng thành vòng khép kín trên 300 m2 đất, dùng lưới bao xung quanh để cua không thoát ra ngoài. Trên diện tích này, ông thả 1.000 con cua giống mua từ đảo Hòn Tranh với giá 3.000 đồng/con.

Cua đá rất dễ nuôi, điều kiện chủ yếu là đất nuôi phải có độ ẩm, nhiều hang đá và rác khô để cho cua ẩn nấp, thức ăn của chúng là các loại rau xanh, chuối cây băm nhỏ hoặc ruột trái dừa khô nạo nhỏ. Đặc biệt trong thời kỳ cua mang trứng thì phải thường xuyên tưới nước đảm bảo độ ẩm để cua sinh sản hiệu quả, cho năng suất cao.

Ông Nguyễn Ngọc Phi – người dân nuôi cua đá xã Tam Thanh cho biết: “Từ lúc nuôi đến giờ chưa thấy loài cua này bị bệnh tật gì, khâu chăm sóc cũng không mất nhiều thời gian, cua này có sức sống mạnh, thích hợp cho những gia đình nuôi mà có nguồn vốn ít”.

Cua đá thường sinh sản từ tháng 6 đến tháng 9. Trong mùa sinh sản con cái thường di chuyển đến những nơi có nước để đẻ trứng. Từ tháng 10 đến tháng 12 , cua lột xác trong hang, theo thông tin từ Cổng TTĐT huyện Phú Quý.

Cua đá khỏe, dễ nuôi, ít dịch bệnh nên người nuôi không cần phải tốn nhiều kinh phí để đầu tư chuồng trại, mua thức ăn và ít tốn công chăm sóc. Hiệu quả bước đầu từ mô hình nuôi cua đá đang mở ra thêm một hướng phát triển kinh tế mới cho người dân Phú Quý.

Bên cạnh đó, bộ môn kỹ thuật nuôi hải sản – Khoa Thủy sản- Trường Đại học Cần Thơ đã nghiên cứu ương nuôi thành công ấu trùng cua đá ( Myomenippe hardwickii) cho năng suất cao. Cua cái có khối lượng trung bình 120 -150 g, đã mang trứng từ tự nhiên được chọn để nghiên cứu sản xuất giống.

Trứng cua sau khi cho nở thành ấu trùng được ương trong hệ thống nước xanh. Sau 25- 27 ngày ương nuôi, ấu trùng trải qua 5 giai đoạn Zoae và 1 giai đoạn Megalopa và chuyển thành cua con với kích cở cua đầu tiên ( cua 1) khoảng 2,5- 3mm. Tỷ lệ sống từ ấu trùng đến giai đoạn cua 1 khá tốt, đạt 4- 14%.

Cua đá loài đặc sản vùng ven biển và có giá trị kinh tế cao. Cua đá sống chủ yếu trong các hốc cây, hốc đá ở vùng rừng ngập mặn, vùng nước lợ mặn ven biển hay các đảo. Cua phân bố phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Vùng ĐBSCL, cua đá phân bố và được khai thác nhiều ở Kiên Giang và Cà Mau. Hiện nay chưa có nghiên cứu nào về sản xuất  giống và nuôi loài cua đá này.

Với thành công này, Bộ môn Kỹ thuật nuôi hải sản đang tiếp tục nghiên cứu để xây dựng qui trình sản xuất giống cua đá, góp phần phát triển mô hình nuôi cua đá thương phẩm, giúp đa dạng hóa nghề nuôi thủy sản, theo thông tin từ Trung tâm Khuyến nông Tp. HCM.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật ương cua xanh bột lên cua giống

Cua bột 1,2 có thể thả trực tiếp xuống ao nuôi cua thịt nếu như đáy ao nuôi được cải tạo triệt để, có lưới chắn xung quanh bờ, nước nuôi được xử lý từ ao chứa và phải được loại bỏ tôm cá tạp… trước khi lấy vào ao nuôi. Tuy nhiên, phần lớn các ao nuôi cua khó có thể làm được điều đó nhất là việc nuôi cua trong hệ sinh thái rừng ngập mặn. Vì vậy, cua thả nuôi phải đạt kích cỡ lớn hơn để bảo đảm tỉ lệ sống cao hơn.

Tuỳ theo điều kiện môi trường ao nuôi, số lượng và giá cả con giống, kỹ thuật quản lý và mật độ thả mà kích cỡ cua giống thả nuôi khác nhau.

Ương cua bột

Có nhiều hình thức để ương nuôi cua bột thành cua giống: ương trong hồ xi măng, ương trong giai, ương trong ao đất.

Dưới đây là một số kinh nghiệm ương cua bột thành cua giống xin mời bà con tham khảo qua:

I. Ương cua bột trong hồ xi măng

1. Chuẩn bị hồ ương

Hồ xi măng dùng để ương cua thường có kích thước lớn, có thể từ 40-70 m².

Chuẩn bị hồ ương theo các bước sau:

– Tháo cạn nước và phơi đáy hồ.

– Vệ sinh tẩy trùng bể bằng chlorin.

– Chà sạch lại bể bằng xà phòng và rửa lại bể bằng nước sạch.

– Đáy hồ có thể thực hiện một trong các cách sau:

+ Rải đều, dày vỏ hến hoặc vỏ sò, nghêu…

+ Đổ một lớp cát mịn, sạch, dày từ 3 – 5 cm

+ Rải đều các cành san hô nhỏ, ống nước Ф 21.

– Cấp nước biển vào hồ, nước đã để lắng hoặc qua lọc thô có độ mặn từ 20 – 23‰. Chiều cao mực nước từ 40 – 60 cm.

– Bắt sục khí đều khắp hồ, cứ 2 m² thì một viên đá bọt.

– Treo hoặc thả đều vật bám bằng lưới phong lan trong hồ.

– Mật độ thả ương từ 200 – 300 con/m².

– Thời gian ương từ 7 – 15 ngày thì kích cỡ giống có thể đạt từ 1 – 1,7 cm với tỉ lệ sống khoảng 60 – 80%.

2. Quản lý và chăm sóc

Trong những ngày đầu cua ương còn nhỏ, do đó việc chuẩn bị thức ăn ở thời gian 3 – 5 ngày đầu cơ bản giống như thức ăn chế biến trong giai đoạn Megalop, cua bột 1.

Nguyên liệu chế biến thức ăn cơ bản như sau:

– Trứng gà: 5 quả, lấy lòng đỏ.

– Cá thu tươi: 300 g, lóc lấy thịt, bỏ da, xương.

– Tôm nhỏ: 200 g bóc bỏ vỏ.

– Hến hoặc hầu: 350 g.

Xay nhỏ riêng biệt từng nguyên liệu trên, sau đó trộn thật đều cho vào tô sứ lớn đem hấp cách thuỷ, để nguội và giữ trong tủ lạnh cho ăn dần.

Hàng ngày cho ăn 3 lần: 6 giờ sáng, 3 giờ chiều, 11 giờ đêm. Kiểm tra lượng thức ăn mà chúng sử dụng để điều chỉnh tăng giảm, tránh dư thừa làm ô nhiễm môi trường nước. Đặc biệt là không để thiếu thức ăn sẽ tăng nguy cơ ăn thịt lẫn nhau, tỷ lệ sống rất thấp, khả năng phân đàn cao.

Sau ngày thứ 5, có thể sử dụng cá tươi, cá tạp, cua ghẹ, giáp xác nhỏ… đem hấp cách thủy, loại bỏ xương, lọc qua rổ nhựa có mắt lưới phù hợp, khi cho ăn dùng ca tạt đều khắp hồ.

Sau 3 ngày từ lúc thả ương, nên cấp thêm 1/3 nước mới và giảm độ mặn từ 2 – 3 ‰ giúp chúng lột xác và chuyển đồng loạt hơn. Sau 7 – 8 ngày thay 1/3 lượng nước, kích thích cua lột xác phát triển, sau 11 – 12 ngày thay 1/2 – 2/3 lượng nước trong hồ ương, có thể tiếp tục giảm độ mặn 1 – 2‰.

Sau 15 ngày ương, cua bột 1có thể trải qua 3 – 5 lần, lột xác để trở thành cua 5 – 6. Số lần lột xác phụ thuộc vào chế độ cho ăn, hàm lượng dinh dưỡng có trong thức ăn và việc xử lý nước trong hồ ương. Khi đạt kích cỡ mong muốn ta có thể tiến hành thu hoạch và vận chuyển đến ao nuôi cua thương phẩm.

II. Ương nuôi cua bột trong ao đất

Ao đất dùng để ương cua bột phải nằm trong khu vực có độ mặn thấp như vùng cửa sông, nơi có nguồn nước ngọt, vùng đầm phá… phù hợp đặc tính sinh học của chúng. Ao phải có cống cấp thoát nước và chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, thuận tiện cho việc thay nước, kích thích sự lột xác của chúng.

Cua bột ương trong ao đất thường có 2 hình thức:

– Ương cua bột trực tiếp ao ương giống như ương tôm post, ương kiểu này thường chi phí thấp, tỷ lệ sống cao hơn nhưng lại khó thu hoạch. Do vậy ương trong ao đất khi nhu cầu con giống có kích thước lớn với thời gian ương dài.

– Ương cua bột trong giai: giai này cắm trong ao ương, kích thước giai: 2m x 10 m, có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn tuỳ theo người sử dụng. Chiều cao từ 80 – 100 cm. Đáy giai đặt chìm trong lớp đất bùn của ao ương từ 2 – 3 cm. Miệng giai cao hơn mặt nước 20 – 30 cm. Hình thức ương này có những ưu điểm sau:

– Chủ động trong việc thu hoạch

– Môi trường nước thông thoáng nên có thể nuôi mật độ dày hơn.

– Thay nước thuận tiện nhờ dựa trên chế độ thuỷ triều.

– Cua ương có thể sử dụng một phần thức ăn tự nhiên có trong ao ương.

* Quản lý và chăm sóc:

– Chế độ cho ăn giống như ương cua trong bể xi măng. Tuy nhiên khó xác định chính xác lượng thức ăn mà chúng sử dụng. Vì vậy, phải đặt nhá trong giai để kiểm tra thức ăn và tốc độ tăng trưởng của chúng.

– Thường sau 3 ngày thả giống thay 1/4 lượng nước trong ao.

– Sau 7 ngày thay 1/3 lượng nước trong ao.

– Sau 12 ngày thay1/2 lượng nước trong ao.

Việc thay nước này sẽ kích thích sự lột xác diễn ra dễ dàng hơn, cường độ bắt mồi tốt hơn và khả năng tăng trưởng nhanh.

Sau 15 ngày có thể nhắc giai thu hoạch toàn bộ cua ương, xác định tỉ lệ sống, khả năng tăng trưởng, vận chuyển cua ương bằng phương pháp vận chuyển hở đến ao ương thương phẩm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bảo vệ thủy sản mùa mưa lũ

Đối với những đối tượng nuôi trong ao , đầm, hồ ( ao nuôi vỗ cá bố mẹ, ao ương giống và ao nuôi thương phẩm )

– Kiểm tra và tu bổ lại bờ ao chắc chắn đảm bảo giữ được nước. Cần phát quang những cành, cây xung quanh bờ, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi.
– Tại cống xả tràn đặt lưới chắn hình chữ V để tăng diện tích thoát nước nhằm tránh cá thoát ra ngoài khi có lũ lụt lớn xảy ra.
– Tháo bớt nước trong ao, chuẩn bị đăng chắn, dụng cụ cọc tre, cuốc xẻng để gia cố sửa chữa hệ thống bờ, cống, có lưới chắn phòng tràn bờ gây thất thoát thủy sản nuôi khi mưa to, gió lớn. Rải vôi xung quanh bờ ao phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi.
– Bổ sung vitamin C vào thức ăn để giúp cá, tôm tăng sức đề kháng. Đối với tôm 1 kg Vita – C/ 500 kg thức ăn, đối với cá 2g Vita – C/1kg thức ăn
– Sau mỗi đợt mưa bão cần tiến hành thu dọn kịp thời cành, lá cây trong ao; đồng thời tiến hành kiểm tra chất lượng nước trong ao nuôi để có các biện pháp điều chỉnh phù hợp như bón vôi (1 – 3 kg/100m2) để ổn định môi trường, điều chỉnh màu nước hoặc có thể thay nước khi cần thiết.
Những ao nuôi đạt cỡ thương phẩm nên thu hoạch để hạn chế thiệt hại.Đối với những ao nuôi tôm thương phẩm bà con cần chú ý theo dõi và bổ xung oxy hợp lý bằng quạt nước hoặc máy bơm đồng thời tránh phân tầng nước trong ao nuôi. Chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng điện lưới bị cắt. Bờ ao phải đắp cao hơn mức nước cao nhất ít nhất 0,4-0,5m trở lên, Ao nuôi cần có hệ thống thu gom nước mưa xung quanh, tránh nước mưa xung quanh đổ dồn xuống ao, làm pH giảm đột ngột, có thể làm cá chết hàng loạt.

Đối với những mô hình nuôi cá lúa

– Gia cố bờ ruộng chắc chắn và đắp bờ cao hơn mực nước 0,5 m để vượt lũ, xung quanh ruộng nuôi phải bố trí nhiều cống thoát nước.
– Phải căng lưới bao xung quanh bờ ruộng và thường xuyên kiểm tra để khắc phục trường hợp lưới rách hoặc nước chảy làm trống dưới chân lưới sẽ thất thất thoát
– Thường xuyên kiểm tra lưới, hệ thống cống, bờ và đắp lại những nơi xung yếu chống tránh tình trạng vỡ bờ. Dọn sạch đăng cống, mương rãnh để nước thoát nhanh.
– Chuẩn bị máy bơm tiêu úng khi cần thiết.( chuẩn bị thêm máy phát điện nếu có để đề phòng điện lưới bị mất )
– Phương án phòng tránh lũ lụt cần phải được tính toán cho cả vùng nuôi.

Đối với những mô hình nuôi lồng bè trên sông và hồ nước lớn

– Kiểm tra lại lồng bè, gia cố lại hệ thống dây neo, phao lồng và di chuyển vào nơi kín gió, có dòng chảy nhẹ để tránh gió bão làm hỏng lồng
– Trong trường hợp lồng không thể di chuyển cần hạ độ sâu của lồng để giảm bớt sóng, gió.
– Thường xuyên vệ sinh lồng sạch sẽ, thông thoáng để thoát nước và treo túi vôi trước dòng chảy để phòng bệnh cho cá.
– Chuẩn bị thuyền máy, phao cứu sinh hỗ trợ khi cần thiết.
– Đối với người nuôi trồng thủy sản.Tuyệt đối không ở lại chòi canh, lồng bè nuôi khi có mưa bão lớn đổ vào nhằm đảm bảo an toàn tính mạng cho người nuôi thủy sản.Có kế hoạch sơ tán dụng cụ thiết bị, vật tư, thức ăn…Theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết: mực nước lũ trên các con sông và tình hình mưa bão trên các phương tiện thông tin đại chúng để chủ động đối phó nhằm bảo vệ thuỷ sản nuôi một cách có hiệu quả.

Đối với nuôi tôm nước lợ

– Những vùng nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh trong vùng đầm hiện nay, người nuôi cần kiểm tra hoạt động của tôm nuôi và môi trường nước trước và sau mưa để có biện pháp xử lý kịp thời, tăng cường gia cố, tu sửa bờ ao, cống lấy nước để hạn chế hư hỏng, sạt lở làm thất thoát sản phẩm.
– Thường xuyên theo dõi, cập nhật dự báo thời tiết để có biện pháp thu hoạch trước khi lũ lụt xảy ra.
– Để hạn chế hiện tượng giảm độ mặn đột ngột trong ao nuôi tôm, người nuôi phải có kế hoạch điều tiết nước như trước khi mưa to cần phải lấy nước có độ mặn thích hợp vào ao và để mực nước trong ao cao nhất. Trong khi mưa nên tránh các hoạt động làm xáo trộn nước trong ao nuôi và sau khi mưa cần nhanh chóng rút bớt nước ở tầng mặt của ao bằng cách tháo các cánh phai của cống thoát.
– Những vùng nuôi tôm quảng canh cải tiến thân thiện môi trường, nuôi theo hình thức đánh tỉa thả bù, người nuôi khẩn trương tận thu các sản phẩm: tôm; cua; cá, tránh thất thoát sản phẩm khi bão lụt xảy ra
– Đối với các vùng đất bị chua phèn, rắc vôi quanh bờ phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Đồng thời cần chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi điện lưới bị mất
– Các vùng nuôi tôm trên cát chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão từ biển đổ vào, người nuôi cần phải quan tâm đến việc củng cố ao nuôi vững chắc, chủ động nguồn nước phục vụ cho sản xuất. Tích cực áp dụng các biện pháp phòng bệnh cho tôm khi thời tiết thay đổi bất thường.

Đối với nuôi thủy sản trên biển

Tiến hành thu hoạch trước mùa mưa lũ nếu cá, tôm đạt kích cỡ thu hoạch. Nếu không thể thu hoạch trước mùa mưa lũ, cần kiểm tra lại lồng bè, tu sửa lại những chỗ xung yếu, củng cố lại các dây neo, tìm vị trí an toàn để di chuyển lồng, bè vào những nơi kín gió, nơi không bị ảnh hưởng nước ngọt, dòng chảy nhẹ để tránh khi bão gió lớn xô đẩy làm vỡ lồng, bè.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Liều dùng và vai trò của Vitamin C trên cá

Một nghiên cứu đầu tiên từ trước đến nay về hàm lượng Vitamin C (Ascorbic acid) bổ sung vào thức ăn cá chạch bùn giúp nâng cao hiệu suất tăng trưởng, hệ thống miễn dịch và hoạt tính enzyme chống oxy hóa.

Vitamin C với động vật thủy sản

Động vật thủy sản thường phải chịu sự căng thẳng từ các yếu tố vượt quá khả năng của chúng về sự chịu đựng, chẳng hạn như mật độ nuôi cao, chất lượng nước kém, nhiệt độ cao và sự xâm nhập của vi khuẩn và virus. Tất cả những yếu tố bất lợi này có thể gây ra phản ứng sốc cho cá, dẫn đến năng suất thấp.

Đối với nuôi trồng thủy sản, để giảm phản ứng căng thẳng nhiều tác đã bổ sung vào thức ăn các chất chống oxy hóa (ví dụ như vitamin C và vitamin E), probiotic, prebiotic, B-glucans và các chất kích thích miễn dịch khác, có thể giúp cá giảm sự nhạy cảm đối với những yếu tố gây căng thẳng.

Vitamin C (acid L-ascorbic, ASA) đóng một vai trò quan trọng trong các chức năng sinh lý bình thường và kích thích phản ứng miễn dịch của cá (Lim & Lovell 1978), và nó là một chất chống oxy hóa tan trong nước quan trọng. Vitamin C cũng tăng cường hiệu ứng trên hoạt tính diệt khuẩn ở huyết thanh (Ren, Koshio & Uyan 2008), hoạt động thực bào (Misra, Das & Mukherjee 2007), nồng độ kháng thể (Misra et al. 2007) và chất nhầy trong phản ứng miễn dịch (Roosta, Hajimoradloo & Ghorbani 2014).

Trong nuôi trồng thủy sản, vitamin C thường được sử dụng với mức độ cao khi bổ sung vào thức ăn. Tuy nhiên, những ảnh hưởng ở liều cao của việc bổ sung vitamin C  vào thức ăn trên cá vẫn chưa được xác định chắc chắn.

Nghiên cứu liều lượng bổ sung Vitamin C vào cá chạch bùn

Cá chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus) là một cá sống tầng đáy phân bố rộng rãi ở Châu Á. Trong những năm gần đây, giá trị của chúng trên thị trường đã tăng lên bởi vì giá trị dinh dưỡng và dược liệu cao được công nhận bởi người tiêu dùng (Wang, Hu & Wang 2010;. Gao et al 2012). Cho đến nay, không có nghiên cứu nào về nhu cầu vitamin C trên cá chạch bùn được thực hiện. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành để làm rõ những ảnh hưởng của chế độ ăn khác nhau có bổ sung vitamin C đối với về hiệu suất tăng trưởng, đáp ứng miễn dịch từ chất nhầy, hoạt tính của enzyme chống oxy hóa và biểu hiện gen chống oxy hóa trên cá chạch bùn.

Một thử nghiệm cho ăn trong 60 ngày đã được tiến hành để xác định những ảnh hưởng của vitamin C ở chế độ ăn khác nhau về hiệu suất tăng trưởng, đáp ứng miễn dịch và khả năng chống oxy hóa của cá chạch bùn.

Sáu mức độ Vitamin C bổ sung vào thức: 0 mg/kg (VC0), 100mg/kg (VC100), 200mg/kg (VC200), 500mg/kg (VC500), 1000mg/kg (VC1000) và 5000 mg/kg (VC5000) của VC (35% acid ascorbic) với ba lần lặp lại. Kết quả cho thấy cá ăn với mức độ  VC200 cho sự tăng trưởng tối ưu và có tác dụng ngăn ngừa sự oxy hóa cao (cụ thể là hơn 207,4 mg/kg), đồng thời hệ miễn dịch của cá chạch bùn hoạt động mạnh mẽ hơn rất nhiều. Hơn nữa, liều cao của việc bổ sung VC không cho thấy bất kỳ tác động bất lợi đến hiệu suất tăng trưởng của cá chạch bùn.

Do đó, thí nghiệm của nhóm nghiên cứu gợi ý rằng bổ sung từ 200 mg/kg Vitamin C là điều cần thiết để gia tăng sự tăng trưởng và miễn dịch của cá chạch bùn, mức độ này cao hơn nhiều so với hầu hết các loài cá khác, ví dụ 47,6 mg/kg đối với cá chẽm Nhật Bản – Lateolabrax japonicus (Ai, Mai, Zhang, Xu, Duan & Tân 2004), 23,8 mg/kg  cho cá đù vàng lớn – Pseudosciaena crocea (Ái, Mai, Tân, Xu, Zhang, Ma & Liufu 2006) và 35,7 mg/kg đối với cá Cirrhinus mrigala (Zehra & Khan năm 2012). Điều này có thể gợi ý rằng các chạch bùn là loài nhạy cảm hơn nhiều với các yếu tố stress so với các loài cá khác.

Lưu ý khi sử dụng Vitamin C

Mặc dù Vitamin C là một chất chống oxy hóa, nó có thể tạo điều kiện cho quá trình oxy hóa trong điều kiện nhất định (Hininger et al. 2005). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng Vitamin C gây độc với một số loại tế bào (Bhat, Azmi, Hanif & Hadi 2006; Ullah, Khan & Zubair 2011). Thêm vào đó, Vitamin C ở mức cao sẽ ức chế mạnh mẽ của sự hấp thụ Đồng hoặc các enzym phụ thuộc vào Đồng và dễ bị ngộ độc sắt (Prasad 1978). Vì thế khi bổ sung Vitamin C vào thức ăn cá chạch bùn cần phải cân nhắc ở mức hợp lý.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.