Những mặt trái của việc sử dụng hormon sản xuất cá đơn tính

Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành công nghiệp có nhiều triển vọng phát triển trên toàn thế giới. Một trong những bước đầu tiên trong nuôi thủy sản đơn tính là sản xuất cá rô phi toàn đực; vì vậy, hormone được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực này.

Biểu đồ minh hoạ các khía cạnh khác nhau của Androgen trong nuôi trồng thuỷ sản (ví dụ cá rô phi) và môi trường.

Đã có một sự quan tâm ngày càng tăng trong cách các hormone tác động đến sinh học của cá. Nhiều nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đã khảo sát cách Androgen có thể tương tác với nhiều hệ thống của cơ thể; tuy nhiên, hiếm khi ai trong số họ cố gắng tìm cách cải thiện hormone hoặc tìm một phương án thay thế.

Nghiên cứu này tập trung vào những ảnh hưởng tiềm ẩn của hormone, đặc biệt là Androgens đối với hệ thống miễn dịch của cá, và các giải pháp.

Cách đây hàng thập niên, nhiều nhà nghiên cứu đã khảo sát vai trò của hormone trong việc điều chỉnh đáp ứng và chức năng các hệ thống khác nhau của cơ thể trong các động vật có xương sống. Rõ ràng là các hormone giới tính có tác động đến các hệ cơ quan khác nhau của cơ thể bao gồm cả hai nhóm hệ thống miễn dịch (bẩm sinh và thích nghi).

Trong giai đoạn đầu của sự phát triển cá con, các gen quyết định giới tính và nhiễm sắc thể giới tính thông qua steroidogene (Hình 1) đang hoàn thiện các tuyến sinh dục đối với đực và cái. Sản xuất hormone steroid có thể làm gián đoạn giai đoạn này, dẫn đến sự thay đổi giới tính mà không ảnh hưởng đến kiểu gen. Hầu hết các phương pháp sản xuất cá đơn tính đều nhắm tới sự hình thành steroid trong giai đoạn phát triển ban đầu.

Con đường steroidogenesis sản xuất cá đơn tính

Hình 1. Con đường steroidogenesis sản xuất cá đơn tính. Testosterone được chuyển thành 11-ketotestosterone (11-KT) thông qua các hoạt động của 11β-hydroxylase và 11β-hydroxysteroid dehydrogenase. 11β-hydroxysteroid dehydrogenase chuyển cortisol thành cortisone. Aromatase chuyển testosterone thành 17 β-oestradiol.

Hình 2. Các phương pháp khác nhau được sử dụng trong sản xuất cá đơn tính, trong đó kỹ thuật sử dụng các hormone là phổ biến nhất. (Các phương pháp sử dụng bên trái: cảm ứng xung điện, xử lý nhiệt, di truyền nhiễm sắc thể giới tính, lai tạo giống đặc biệt và chọn lọc tự nhiên; Bên phải: Sử dụng hormone sinh dục)

Kết quả

1. Tác động của Androgen đến tỷ lệ chết

Nhìn chung, nuôi ấu trùng cá và sản xuất thường bị cản trở bởi tỷ lệ tử vong cao. Mặt khác, bất kỳ sự gián đoạn nào trong khả năng miễn dịch của ấu trùng cá sẽ đe doạ sự sống sót của chúng. Steroid tổng hợp dùng trong sản xuất giống đơn tính gây ra tỷ lệ tử vong cao ở một số loài. Ở cá tạp, MT (Methyl-testosterol) đã ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ sống sót, và tỷ lệ tử vong trên 50% ở cá rô phi .

Gần đây, Abo-Al-Ela et al. đã chứng minh rằng MT tăng tỷ lệ tử vong của cá bột được xử lý; hơn nữa, tỷ lệ tử vong này tương quan với biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch trong suốt quá trình xử lý. Hơn nữa, tỷ lệ tử vong đã được hiển thị tăng khi tăng liều MT trong một số loài cá rô phi đã ghi nhận.

2. Ảnh hưởng của Androgens đối với môi trường

Androgens và Estrogen đã được phát hiện như là chất gây ô nhiễm trong môi trường, đặc biệt là trong các hệ thống nông nghiệp; Androgens có thể lan rộng sang các loài không phải là mục tiêu, bao gồm giai đoạn đầu của cá, gây ra độc tính tế bào, dị dạng phôi và sự chậm nở của trứng.

Rivero-Wendt et al. cho thấy nguy cơ ô nhiễm môi trường tiềm ẩn của MT ở nồng độ 0.004 mg/L đủ để gây ra sự thay đổi Vitellogenin (Vtg) như một chỉ thị về sự căng thẳng của cá hoặc ô nhiễm môi trường.

3. Tác động của Androgens lên miễn dịch

Về miễn dịch, các hormone steroid đóng một vai trò quan trọng trong điều hòa hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, có rất nhiều tranh luận liên quan đến ảnh hưởng của Androgens trong việc ngăn chặn hoặc kích thích mức độ miễn dịch. Nói cách khác, chúng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức khoẻ và sự phát triển của cá.

Trên mức androgen cho phép, các mạng lưới gen liên quan đến đáp ứng miễn dịch bẩm sinh bị ảnh hưởng bởi điều trị DHT và bằng MT ở cá Rô phi. MT là một chất phân giải nội tiết nghiêm trọng và có tác dụng độc tính trên lymphocyte của cơ thể; nó cũng làm tăng tần số trao đổi sắc tố và làm giảm động học chu trình tế bào.

Tại Ai Cập, các trang trại cá rô phi cá rô phi đã được báo cáo có mức độ RBCs và bạch huyết bào thấp. Ngoài ra, tác động phá hoại của MT đã được mở rộng đến hoạt động của enzyme chống oxy hoá và sao chép gen sau khi tiếp xúc hoặc ăn khẩu phần ăn có chứa MT. Các steroid khác, như 11-ketotestosterone (11-KT), đã được báo cáo để ức chế phản ứng miễn dịch bẩm sinh và các đường hô hấp ở cá gai ba lá và cá chép.

Kết luận

Nuôi cá và sản xuất là một sự đầu tư quan trọng. Nuôi cá đơn tính, đặc biệt là cá đực, rất cần thiết; và hormone được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp này. Tuy nhiên, các hormone sẽ làm thay đổi các hệ thống cơ thể khác nhau, có thể ảnh hưởng đến sự nhạy cảm của cá với bệnh tật và nhiễm trùng cơ hội và chúng có thể gây ô nhiễm môi trường.

Do đó, cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để tìm ra những cách an toàn hơn để đảm bảo sản xuất thủy sản đơn tính, chẳng hạn như sử dụng di truyền như nhiễm sắc thể YY (cá thể đực) hoặc bổ sung các chất như vitamin C có thể điều chỉnh tác dụng của hormone.

Nguồn:  Ssciencedirect được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thanh Chương – Nghệ An: Nuôi thành công tôm càng xanh trên ruộng lúa

Trạm Khuyến nông Thanh Chương đã xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa ở Thanh Chương và đã thành công.

Người dân xã Thanh Hưng (Thanh Chương) thu hoạch tôm càng xanh.

Mô hình được thực hiện ở ruộng của ông Trần Văn Hải ở xóm Trung Đường, xã Thanh Hưng huyện Thanh Chương. Với 1,5 ha ruộng lúa; sau 4 tháng nuôi ông Hải đã có tôm thu hoạch, loại to 6 con/kg, loại trung bình 10 con/kg. Với giá bán bình quân 220.000 đồng/kg ông thu về 235 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 100 triệu đồng, chưa kể tiền thu về từ 2 vụ lúa.

“Tôi thấy nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa có hiệu quả nhiều so với nuôi cá vụ 3. Sắp tới tôi sẽ tiếp tục mở rộng diện tích và hướng dẫn cho những ai muốn phát triển nghề nuôi tôm càng xanh” – ông Hải vui mừng chia sẻ”.

Trong những năm qua, trên địa bàn huyện Thanh Chương nghề nuôi trồng thủy hải sản phát triển đáng kể; với nhiều hình thức nuôi trồng khác nhau, song đối tượng nuôi chủ yếu là cá truyền thống mà hiệu quả lại không cao. Xuất phát từ thực tế trên, Trạm Khuyến nông huyện đã tham mưu, xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa tại xã Thanh Hưng.

Sau 4 tháng triển khai thực hiện mô hình đã mang lại giá trị thu nhập cao góp phần hạn chế sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, hạn chế ô nhiễm môi trường và tăng tính bền vững trong sản xuất.

Ông Trần Đình Bình – Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Thanh Chương đánh giá, qua quá trình nuôi cho thấy, tôm càng xanh là đối tượng nuôi mới nhưng nó phù hợp với điều kiện thời tiết của địa phương, kỹ thuật nuôi đơn giản, hiệu quả cao.

Thực tế cho thấy, trong quá trình nuôi tôm càng xanh cũng gặp không ít khó khăn nhất là về con giống và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bởi con giống phải vận chuyển từ các tỉnh Long An, An Giang về bằng đường máy bay nên chi phí rất lớn. Trong lúc đó tỷ lệ sống chỉ đạt từ 40 – 50%.

Thêm vào đó, giá của tôm càng xanh cũng cao nên đối tượng tiêu thụ cũng chỉ dành cho những người có thu nhập cao và các nhà hàng, quán ăn nên đối tượng nuôi trồng cũng phải lựa chọn cụ thể, rõ ràng.

Chính vì thế, trước khi nhân ra diện rộng, huyện đang phối hợp với nhà cung cấp giống và các nhà khoa học thực hiện nghiêm các quy trình.

Việc xây dựng thành công mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở Thanh Chương đã giúp người dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện tiếp cận được với đối tượng nuôi mới, phương thức nuôi mới có hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích; khai thác có hiệu quả các chân ruộng trũng trên địa bàn huyện, tăng tính bền vững trong sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường do dùng thuốc bảo vệ thực vật.

Nguồn: Báo Nghệ An được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Ánh sáng xanh từ đèn LED bất hoạt vi khuẩn Edwardsiella

Việc chiếu xạ ánh sáng xanh có khả năng làm bất hoạt vi khuẩn E. piscicida và làm giảm sự nhiễm bệnh của cá mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho cá.

Ánh sáng xanh từ đèn LED bất hoạt vi khuẩn Edwardsiella giúp quản lý mầm bệnh trên cá nuôi.

Mặc dù việc sử dụng ánh sáng xanh (400 – 500 nm) để giảm các mầm bệnh do vi khuẩn ở các trang trại nuôi cá có nhiều lợi thế hơn việc sử dụng thuốc hoá học nhưng đã có rất ít nghiên cứu ứng dụng ánh sáng xanh trong quản lý bệnh trên thủy sinh vật.

Mục tiêu của các nhà khoa học Trung Quốc trong nghiên cứu này là để xác minh tác động diệt khuẩn của các điều kiện ánh sáng (quang phổ và cường độ ánh sáng) trên vi khuẩn Edwardsiella piscicida nhằm chứng minh hiệu quả của việc chiếu xạ ánh sáng xanh trong việc giảm bệnh Edwardsiellosis trong cá chép và phân tích các tác động có hại tiềm tàng của ánh sáng xanh trên cá chép.

Cá bị bệnh do Edwardsiella piscicida

Thí nghiệm

E. piscicida ở nồng độ 105 CFU/ml được phơi ra với ánh sáng 405 hoặc 465 nm trong thời gian phơi nhiễm ước tính sẽ làm mất 99% vi khuẩn.

Thử nghiệm hiệu quả tác dụng của các đèn LED phát sáng đã được thực hiện bằng cách sử dụng thử thách tiếp xúc trong thời nhất định, trong đó tỷ lệ nhiễm bệnh và số lượng E. piscicida trong nước nuôi được theo dõi.

Các tác động có hại tiềm tàng của điều kiện ánh sáng được điều tra bằng cách quan sát các thay đổi mô bệnh học trong mô mắt và biểu hiện gen protein 70 và corticosteroid 11-beta-dehydrogenase isozyme 2 trong mô thận.

Kết quả

Tỷ lệ vi khuẩn E. piscicida bị bất hoạt từ các cường độ khác nhau của bước sóng xanh LED đã chứng minh một mối tương quan mạnh mẽ giữa cường độ ánh sáng và thời gian chiếu xạ. Hơn nữa, bức xạ LED xanh giảm số lượng E. piscicida trong nước nuôi cũng như tỷ lệ cá bị nhiễm bệnh.

Xét nghiệm mô bệnh học cho thấy các hạt melanin và tế bào nhạy cảm tạm thời tăng lên ở võng mạc, nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm đối chứng và nhóm chiếu xạ sau 28 ngày tiếp xúc.

Kết luận

Nghiên cứu này chứng tỏ rằng chiếu xạ ánh sáng xanh có khả năng khử bất hoạt vi khuẩn E. piscicida và làm giảm sự nhiễm bệnh của cá mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho cá.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Sáng kiến ứng phó với lũ dữ

Không để gia đình lâm vào tình cảnh trắng tay, nợ nần khi lũ dữ từ thượng nguồn ập về, nhiều nông dân ở Quảng Ngãi đã mày mò tìm ra nhiều phương cách bảo vệ sản xuất ngay giữa mùa mưa lũ…

Chiếc lồng bè nuôi cá bằng inox do ông Trần Kim Sanh (Quảng Ngãi) sáng chế.

Sau đợt lũ lớn đầu tháng 12, chúng tôi trở lại thôn Phước Lộc Tây (xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh) – nơi được xem là rốn lũ ở Quảng Ngãi. Sông Trà Khúc hết lũ đã 4 ngày, nhưng đường làng, ngõ xóm vẫn ngập nước. Những người dân nuôi cá chình trên sông Trà cho biết, nhờ sáng kiến của ông Trần Kim Sanh, Trưởng Tổ hợp tác nuôi cá lồng bè sông Trà Khúc, mà kỳ này chống lũ đỡ cực. Bằng kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn, ông Sanh đã mày mò và sáng chế ra những chiếc lồng bè nuôi cá bằng inox.

Những năm về trước, lũ thượng nguồn sông Trà Khúc đổ về cũng là lúc mọi người trong thôn Phước Lộc Tây kéo nhau ra sông, bất chấp nguy hiểm lao mình ra dòng lũ dữ, dùng dây buộc chặt các lồng bè nuôi cá làm bằng gỗ, tre, lưới… lại với nhau, nhằm níu giữ những con cá nuôi trong lồng. Nhưng nước lũ ở mức báo động 2 thì chống đỡ được, chứ lũ tiếp tục dâng cao và kéo dài thì lồng bè nuôi cá đều bị dòng lũ đánh tan hoặc cuốn trôi.

Ông Trần Kim Sanh ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn (Sơn Tịnh) là một trong những người tiên phong nuôi cá lồng bè và cũng là người đầu tiên thay đổi chất liệu lồng nuôi cá. Ông Sanh cho biết, mùa mưa lũ mang lại nguồn thủy sản tự nhiên phong phú, tuy nhiên nỗi lo đối với nhiều hộ dân nuôi cá lồng bè là thường bị thiệt hại lớn về tài sản. Lý do là những chiếc lồng bè bằng tre dễ bị mục nát, làm thất thoát cá trong lồng.

Ông Sanh mày mò cải tiến từ lồng bè bằng khung tre, gỗ sang dùng khung inox với kích thước nhỏ hình chữ nhật, gọn, có thể tích 12m³ nước, mật độ thả 500 con cá/lồng. Thay vì dùng lưới, ông lắp ghép quanh khung lồng những tấm inox đã khoan sẵn nhiều lỗ nhỏ li ti để nước sông tràn vào bên trong lồng, tạo ôxy cho cá thở. Phía trên lồng cá, ông dùng tre, ván khép nối lại để phần bè nổi trên mặt nước và bỏ thức ăn cho cá.

Ngoài ra, ông Sanh còn dùng dây neo giữ lồng cá vào tận nhà, khi nước sông dâng đến đâu dây neo kéo giữ đến đó, lồng không bị trôi. Ông Sanh chi gần 25 triệu đồng/lồng bè, cao hơn lồng bè khung tre, gỗ khoảng 1,5 – 2 lần, nhưng lồng inox sử dụng bền lâu, không bị gỉ sét trong vòng hơn 10 năm. Hiện các hộ nuôi cá lồng ở thôn Phước Lộc Tây đều học cách làm lồng bè như ông Sanh và mọi người sắp thu hoạch vụ cá sau mùa bão lũ được mùa, giá cao.

Nhờ linh hoạt trong việc thay đổi chất liệu lồng nuôi cá, trong mùa mưa bão năm nay, số lượng cá nuôi của ông Sanh ít hao hụt, 3 lồng bè nuôi cá chình và cá trắm cỏ vẫn giữ vững được năng suất. Ông Sanh cho biết, lượng cá xuất ra thị trường hằng năm khoảng 1-2 tạ, thu nhập khoảng 80 triệu đồng/năm.

Ông Nguyễn Thành Chín (cũng ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn), có kinh nghiệm gần 10 năm nuôi cá lồng bè ở sông Trà Khúc, chia sẻ: “Từ khi chuyển sang lồng inox, tôi rất yên tâm. Lồng cá được bảo đảm, không sợ cá bị hao hụt. Mỗi năm gia đình tôi thu nhập trung bình khoảng 150 triệu đồng, nhờ đó kinh tế dần cải thiện”.

Phó Chủ tịch UBND xã Tịnh Sơn Nguyễn Thành Vy, cho biết: “Nghề nuôi cá trong lồng bè, đã giúp nhiều hộ dân trên địa bàn xã ổn định cuộc sống. Chính quyền địa phương đã khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ về nguồn vốn để các hộ dân đầu tư thay lồng tre bằng lồng inox. Việc người dân chuyển từ lồng bè bằng tre sang lồng bè bằng inox đã mang lại hiệu quả rõ rệt, giảm đáng kể thiệt hại trong mùa mưa lũ”.

Nguồn: Báo Quãng Ngãi được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

12 cách người Israel thay đổi nền nông nghiệp thế giới (P2)

Từ tưới nhỏ giọt đến thuốc bảo vệ thực vật sinh học, cuộc cách mạng nông nghiệp của Israel đang mang đến những phương thức mới để thay đổi bộ mặt của sản xuất nông nghiệp.

7. Công nghệ tưới nước nhỏ giọt từ không khí

Tal-Ya là công nghệ tưới nước bằng khay nhựa dùng nhiều lần để thu thập sương, hơi nước từ không khí, giúp giảm lượng nước phải tưới cho cây trồng, nó có thể tiết kiệm lên đến 50% lượng nước tưới. Mấu chốt của công nghệ là các khay vuông có răng cưa, được làm từ nhựa tái chế với các bộ lọc tia cực tím, nó sẽ bao quanh gốc cây.

Với sự thay đổi nhiệt độ ngày – đêm, hơi nước bốc lên và sương đêm buông xuống sẽ đọng lại trên cả hai bề mặt của khay Tal-Ya, theo phễu sương và tưới thẳng vào rễ cây. Nếu trời mưa, các khay này sẽ hứng nước mưa và tưới cho cây, nó làm tăng hiệu quả hiệu quả tưới của mỗi milimet nước mưa lên 27 lần.

Ngoài ra các khay cũng còn hạn chế ánh mặt trời để cỏ dại không thể bén rễ, và bảo vệ thực vật khỏi sự thay đổi nhiệt độ khắc nghiệt tại các vùng sa mạc, đất cằn, đồng thời cũng làm giảm sự ô nhiễm nước ngầm.

8. Công nghệ bảo vệ thực vật thân thiện với môi trường

Để giải quyết vấn đề bảo vệ thực vật mà vẫn thân thiện với môi trường, công ty chuyển giao công nghệ của Đại học Hebrew hợp tác với Makhteshim Agan, công ty hàng đầu thế giới về các sản phẩm bảo vệ cây trồng đã phát triển và thương mại hóa các sản phẩm thuốc diệt cỏ chậm phát tán vào đất và thuốc trừ sâu không gây tổn hại cho côn trùng có ích.

Cách tiếp cận của Israel là sản xuất các túi thuốc diệt cỏ có tính chất vật lý giống đất sét, mang điện tích âm để cho phép phát tán vào đất chậm và có thể kiểm soát, làm giảm thẩm thấu vào các lớp đất sâu hơn trong khi vẫn duy trì tác động diệt cỏ trên lớp đất bề mặt.

Điều này làm tăng hiệu quả diệt cỏ và giảm liều lượng cần thiết. Với thuốc trừ sâu, các kỹ sư Israel chế tạo ra các loại thuốc đặc chủng chỉ tác động đến 1 hoặc một số loài sâu bệnh trong khi đó không có tác dụng đến các loài khác, điều này làm giảm tác động của thuốc trừ sâu đến các côn trùng có ích, đảm bảo đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.

9. Nuôi cá trong sa mạc

Đánh bắt quá mức là một mối đe dọa nghiêm trọng đến việc duy trì sản lượng các loại cá, cá là nguồn chính cung cấp protein cho hàng trăm triệu người trên thế giới. Rất nhiều quốc gia đang đau đầu vì muốn phát triển nguồn cung cấp cá trong nước, nhưng điều kiện về diện tích nuôi trồng lại bị giới hạn bởi điều kiện tự nhiên và nguồn nước. Những lo lắng đó có thể được giải quyết với một công nhệ của Israel khi cho phép cá có thể được nuôi tại hầu như bất cứ nơi nào, ngay cả trong sa mạc.

Đó là hệ thống GFA (Grow Fish Anywhere). Hệ thống nuôi cá này là một khu vực nuôi cá được khép kín và có thể đặt ở bất cứ đâu, không phụ thuộc vào các điều kiện về điện, nguồn nước cũng như môi trường bên ngoài, nó cho phép loại bỏ các vấn đề về làm sạch môi trường trong nuôi cá thông thường, và không phụ thuộc vào nguồn nước sẵn có. Đặc biệt, hệ thống sử dụng các vi khuẩn được phát triển làm sạch bể nuôi cũng như mầm bệnh ở cá khiến cho hầu như không có chất thải trong ao nuôi và không cần thay nước.

10. Sản xuất thực phẩm từ khí nhà kính

Công nghệ nuôi tảo từ khí thải nhà kính của các nhà máy

Khí nhà kính – CO2 là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, nhưng nếu nó được sử dụng để nuôi trồng thì sao? Đó là điều mà công nghệ seambiotic của Israel mang lại. Từ lâu con người đã biết tảo là loài thưc vật có thể mang lại giá trị cao gấp 30 lần so với bất kỳ loại cây trồng nào từng được biết đến, và nó cũng là nhân tố chủ chốt trong việc tạo ra phần lớn lượng Ôxy cho chúng ta hít thở hàng ngày. Thức ăn chính của tảo là gì? Chính là CO2 và ánh sáng, và hệ thống seambiotic sẽ đem CO2 được phát thải từ các nhà máy biến thành nguồn cung cấp thức ăn cho tảo.

Tại các vùng châu Phi và Trung Đông, thứ không bao giờ thiếu đó là ánh sáng mặt trời, với thời gian có ánh sáng hàng năm cao nhất thế giới, hai khu vực này chính là thiên đường cho việc nuôi tảo. Còn gì tuyệt với hơn khi một công nghệ vừa có thể giải quyết vấn đề phát thải CO2 ra không khí lại vừa đem lại giá trị kinh tế cao, đó là điều tuyệt vời mà người Israel đã mang lại cho thế giới.

11. Nhân giống cá chép châu Phi

Nửa thế kỷ trước, trong khu vực hồ Victoria, cá chép châu Phi là một phần quan trọng trong chế độ ăn uống của người dân Uganda gần đó. Nhưng khi cá rô sông Nile xâm nhập được vào hồ, nó đã cạnh tranh và tàn sát hầu hết các loài cá trong hồ, kể cả cá chép châu Phi. Cư sân xung quanh đó không có dụng cụ cũng như kỹ thuật đánh bắt cá rô sông Nile cũng như không có kỹ thuật nhân giống và nuôi cá nên đã xảy ra tình trạng thiếu hụt thực phẩm trầm trọng. Từ đó chế độ dinh dưỡng của cư dân bị suy giảm, các vấn đề sức khỏe đã xảy ra.

Để giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn cung, Giáo sư Berta Sivan của Đại học Hebrew đã thực hiện một dự án kéo dài nhiều năm để giúp đỡ các gia đình châu Phi. Nhóm nghiên cứu của bà đã áp dụng các kỹ thuật nhân giống, lai tạo cũng như nuôi trồng được phát triển qua nhiều năm cho người nuôi Israel để giải quyết vấn đề này.

Qua nhiều năm, dự án đã mang lại sự thay đổi to lớn cho Uganda, không chỉ nhân giống được các loại cá chép châu Phi để nuôi tại các trang trại cá Uganda, mà nó còn cung cấp các khóa đào tạo về làm thế nào để khai thác và nuôi trồng giống cá này với quy mô nhỏ. Bây giờ trẻ em địa phương có một nguồn cung cấp dồi dào protein cùng với trái cây và rau quả của họ, vấn đề dinh dưỡng đã căn bản được giả quyết.

12. Hạt giống chất lượng cao cho mùa vụ bội thu

Tại Đại học Hebrew, các nhà khoa học nông nghiệp Ilan Sela và Haim D. Rabinowitch đã phát triển công nghệ TraitUP, một công nghệ cho phép cấy ghép vật liệu di truyền vào hạt giống mà không sửa đổi cấu trúc DNA gốc của chúng. Phương pháp này đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng hạt giống cây trồng ngay trước khi chúng được gieo trồng. Với công nghệ này, các nhà khoa học có thể đưa các đặc tính về kháng sâu bệnh, tăng cường các đặc điểm thích nghi với thổ nhưỡng và khí hậu vào các hạt giống để nâng cao chất lượng cây trồng về sau.

Công nghệ này mở ra các cơ hội cho việc phát triển các giống cây trồng chuyên biệt cho từng vùng khí hậu, thổ nhưỡng nhằm tối đa hóa năng suất, đảm bảo chất lượng. Điều này mang đến cơ hội cho các quốc gia đang phát triển trong việc nang cao năng suất và chất lượng cho các sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực và tạo ra lợi thế cạnh tranh.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

12 cách người Israel thay đổi nền nông nghiệp thế giới (P1)

Từ tưới nhỏ giọt đến thuốc bảo vệ thực vật sinh học, cuộc cách mạng nông nghiệp của Israel đang mang đến những phương thức mới để thay đổi bộ mặt của sản xuất nông nghiệp.

An ninh lương thực đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu cho mọi quốc gia trong bối cảnh dân số không ngừng phát triển hiện nay. Khi mà tài nguyên đang dần cạn kiện trong khi dân số vẫn không ngừng tăng lên, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực bền vững đang là điều mà bất cứ quốc gia nào cũng khao khát. Và cho đên nay, chưa từng có một quốc gia nào có các điều kiện canh tác nông nghiệp khó khăn hàng đầu thế giới có thể đóng góp các thành tựu để thay đổi bộ mặt nền nông nghiệp thế giới tốt hơn Israel.

Từ những năm 1950, người Israel không những chỉ tìm ra phương thức tuyệt với để phủ xanh cho những sa mạc mà họ đã chia sẻ, chuyển giao những sáng kiến này đến các quốc gia khác thông qua các tổ chức hợp tác quốc tế của họ một cách rộng rãi. Và dưới đây là 12 thành tựu của người Israel đã mang đến cho nhân loại, giúp thay đổi bộ mặt của nền sản xuất nông nghiệp toàn cầu, đem đến phương thức sản xuất hiệu quả và là cách thức để giải quyết vấn đề an ninh lương thực hiện nay.

1. Công nghệ tưới nhỏ giọt

Hình: Nông dân Senegal và hệ thống tưới nhỏ giọt Tipa

Có lẽ không có thành tựu nào có được sự ảnh hưởng to lớn đến nền nông nghiệp Israel cũng như cả thế giới như phát minh này. Khái niệm tưới nhỏ giọt đã có từ trước khi nhà nước Israel ra đời, nhưng nó chỉ được thực sự trở thành cuộc cách mạng với sự phát hiện của kỹ sư tài nguyên nước Israel – Simcha Blass, người tình cờ phát hiện ra rằng sự nhỏ giọt chậm và đều đặn dẫn đến khả năng kích thích tăng trưởng đáng kể trên thực vật. Từ phát hiện trên, ông đã chế tạo ra một loại ống dẫn nước có các đầu tưới từ từ nhỏ từng giọt nước theo tỷ lệ tối ưu nhất cho từng loại cây trồng.

Từ đó đến nay, công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel và các giải pháp tưới tiêu vi thủy lợi nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới. Chúng liên tục được phát triển, làm cho tốt hơn, các mô hình tưới nhỏ giọt mới nhất là công nghệ tự làm sạch đường ống và duy trì tốc độ dòng chảy thống nhất bất kể chất lượng nước và áp suất nước trong hệ thống tưới.

Một ví dụ rất nhỏ để thấy được ý nghĩa của công nghệ này đến nền nông nghiệp của các quốc gia là hệ thống Tipa, có nghĩa là “nhỏ giọt”, một sản phẩm của Israel phát triển cho thị trường nước ngoài đã cho phép 700 hộ nông dân ở Senegal có thể canh tác ba vụ một năm thay vì chỉ một vụ mỗi năm vào mùa mưa, đối với cả những vùng đất tưởng chừng không thể trồng trọt được. Các kết quả tương tự ở Kenya, Nam Phi, Benin và Nigeria có thể chứng minh hiệu quả của hệ thống này.

2. Kén tồn trữ lương thực

 Kén tồn trữ lương thực

Người Israel đã thiết kế sản phẩm kén tồn trữ lương thực nhằm đưa ra một giải pháp đơn giản, rẻ tiền cho các nông dân châu Á và châu Phi để tồn trữ lương thực sau thu hoạch một cách hiệu quả nhất.

Sản phẩm này chỉ đơn giản là một chiếc túi khổng lồ – được thiết kế bởi Giáo sư công nghệ thực thẩm quốc tế Shlomo Navarro – giúp lương thực tránh được việc tiếp xúc với không khí và độ ẩm. Nó đang được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển tại châu Phi, Trung Đông và cả những quốc gia không có quan hệ ngoại giao với Israel như Pakistan.

Với các phương pháp tồn trữ lương thực truyền thống, 50 % lượng ngũ cốc thu hoạch được và 100% sản lượng đậu bị tổn thất là do côn trùng và ẩm mốc. Tại các quốc gia đang phát triển, nông dân chỉ tồn trữ lương thực họ thu hoạch được bằng các phương tiện thô sơ như giỏ, bồ, túi, bao tải, những thứ không thể bảo vệ lương thực của họ thoát khỏi sự đói khát của côn trùng và các tác nhân gây hại từ bên ngoài. Và sản phẩm kén tồn trữ lương thực sinh ra để giải quyết các vấn đề đó, đặc biệt là sức nóng và độ ẩm cao.

3. Kiểm soát côn trùng theo phương pháp sinh học

Các kỹ sư Israel đã lai tạo ra các giống côn trùng có ích nhằm giải quyết vấn đề kiểm soát sâu bệnh tuân theo các nguyên lý sinh thái học tự nhiên, đồng thời họ cũng lai tạo các giống công trùng chuyên biệt như giống ong vò vẽ chuyên thực hiện thụ phấn tự nhiên trong môi trường nhà kính.

Theo Tiến sĩ Shimon Steinberg của cơ quan ISRAEL21c, việc sử dụng giống nhện kích thước chỉ dài 2mm hình quả lê màu cam hiện đang là giải pháp hiệu quả nhất để kiểm soát tình trạng bọ ký sinh trên cây trồng, kể cả các loại bọ tàn phá cây trồng nông nghiệp rất khó bị loại trừ bằng các phương pháp hóa học. Ông cho biết: “60% sản lượng dâu tây của California từ năm 1990 đến nay đã được cứu bằng các giống nhện ăn thịt bọ ký sinh từ Israel”, ông cũng cho biết, tại Israel, các sản phẩm sinh học đã cho phép nông dân giảm việc sử dụng thuốc trừ sâu hóa học đi 75% trong canh tác.

4. Công nghệ chăn nuôi bò sữa công nghiệp

Israel là quốc gia đã phát triển các công nghệ chăn nuôi bò sữa tập trung theo quy mô công nghiệp đầu tiên trên thế giới, đây là những hệ thống cho phép người chăn nuôi có thể quản lý, theo dõi, giám sát và cho ăn đàn gia súc tập trung thông qua các thiết bị máy tính. SAE Afikim là một trong 10 công ty của Israel đã tham gia vào dự án 5 năm trong việc phát triển đàn bò sữa trị giá 500 USD tại Việt Nam, đó là sự án chăn nuôi lớn nhất thế giới mà họ tham gia. Trong dự án này các hoạt động sẽ bao gồm phát triển đàn bò 30.000 con tại 12 vùng chuyên canh chăn nuôi – sản xuất sữa tập trung với sản lượng 300 triệu lít mỗi năm và tăng dần qua các năm. Đến cuối năm 2012, 500.000 lít sữa đã được sản xuất hàng ngày.

5. Nông nghiệp trực tuyến

Đó là Hệ thống Kiến thức nông nghiệp trực tuyến (Agricultural Knowledge On-Line (AKOL), đây là một hệ thống tương tác trực tuyến trên toàn cầu, nó liên kết kho dữ liệu về kiến thức nông nghiệp, các chuyên gia và nông dân để giải quyết bất cứ một vấn đề gì trong nông nghiệp. Mọi nông đân giờ đây có thể truy cập vào hệ thống này, học hỏi các kiến thức, kinh nghiệm và yêu cầu sự giúp đỡ, tư vấn phương pháp, giải pháp nông nghiệp từ các chuyên gia hàng đầu, các nhà sản xuất nông nghiệp chuyên nghiệp về vấn đề của họ.

6. Giống khoai tây có thể trồng ở những nơi khắc nghiệt

Phải mất gần 30 năm nghiên cứu, Giáo sư David Levy developedstrains của Đại học Hebrew mới lai tạo được giống khoai tây có thể phát triển mạnh trong khí hậu nóng, khô, và có thể được tưới bằng nước mặn. Đây là giải pháp trồng trọt vô cùng hiệu quả và mang lại lối thoát cho việc canh tác tại các vùng cát sa mạc, ven biển.

Khoai tây là một trong những nguồn lương thực chính của hàng triệu người trên thế giới, nhưng trước đây người ta không thể trồng được một củ khoai tây nào trong các vùng sa mạc như Trung Đông. Bây giờ nông dân ở các khu vực này có thể phát triển khoai tây là một loại cây trồng đem lại lợi ích kinh tế lớn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Chế phẩm vi sinh từ nuôi cho đến bảo quản

Ở Quảng Nam mô hình sử dụng chế phẩm sinh học EM chuối và chế phẩm dịch chiết gừng bảo quản sản phẩm tôm đã chứng minh tính thiết thực và hiệu quả cao có thể hướng đến nhân rộng để ngành sản xuất tôm bền vững.

EM chuối trộn vào thức ăn tăng cường sức đề kháng cho tôm.

Nuôi tôm cho sản lượng cao, an toàn

Lâu nay, nông dân Nguyễn Xuân Cần (thôn Kỳ Trần, xã Bình Hải, Thăng Bình) nuôi tôm không nhiều nhưng được những hộ khác khâm phục vì các vụ nuôi luôn thành công. Ở vụ vừa qua, với 6 ao nuôi có tổng diện tích 18.000m2, ông Cần thu hoạch 10 tấn tôm, bán được 1,6 tỷ đồng, qua đó thu lợi 1 tỷ đồng.

Bí quyết thành công của nông dân này là ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm. “Sử dụng hóa chất và kháng sinh không phải là giải pháp nuôi tôm bền vững vì gây hại môi trường và sản phẩm không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Thay vào đó tôi sử dụng chế phẩm sinh học EM chuối – sản phẩm độc đáo xuất xứ từ Nhật Bản” – ông Cần chia sẻ.

Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm và bảo quản sản phẩm tôm nuôi đang là lựa chọn hiệu quả và hướng đến bền vững.

Chế biến EM chuối theo cách ông Cần hướng dẫn cũng khá đơn giản: xay nhuyễn 1kg chuối tây đã lột vỏ rồi khuấy đều với 1 lít EM trong bình có nắp đậy chặt. Sau 24 giờ có thể sử dụng 1 lít chế phẩm sinh học EM chuối trộn với 10kg thức ăn nuôi tôm. Nguyên tắc sử dụng chế phẩm sinh học của ông Cần là sử dụng đúng liều lượng, thời gian sử dụng vào buổi sáng, khoảng 8 – 10 giờ, lúc nắng ấm là phù hợp nhất vì hàm lượng ô xy hòa tan cao. Chế phẩm EM chuối có tác dụng tăng cường sức đề kháng và khả năng chống chịu của tôm nuôi khi có các điều kiện ngoại cảnh bất lợi, tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn cho tôm. Bên cạnh đó, EM chuối còn giúp tiêu diệt vi sinh vật có hại, hạn chế ô nhiễm môi trường.

Nuôi tôm ở vùng triều có nhiều hạn chế về nguồn nước, nhưng cũng nhờ sử dụng chế phẩm sinh học, hộ các ông Nguyễn Nam, Đỗ Văn Lành (khối phố Phú Sơn, phường An Phú, TP.Tam Kỳ) vẫn thu được sản lượng lớn, lãi hàng trăm triệu đồng sau mỗi vụ nuôi.

Ông Nguyễn Nam cho biết, ông sử dụng chế phẩm sinh học trong toàn bộ quá trình nuôi tôm, từ giai đoạn cải tạo ao nuôi đến khi thu hoạch. “Ban đầu tôi nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức quảng canh vì vùng triều ven sông không có lợi thế về quản lý môi trường nuôi tôm như trên cát. Sau đó, tôi đã chuyển sang thâm canh nhờ sử dụng chế phẩm sinh học có tính tương thích cao nên nuôi tôm rất trúng vụ” – ông Nam nói.

Ông Đỗ Văn Lành cho biết thêm, thời tiết càng khắc nghiệt nông dân càng nên dùng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm. Như chuẩn bị cho vụ nuôi mới năm 2018, ông sẽ dùng chế phẩm sinh học để xử lý bùn đáy hồ bằng cách pha với nước phun tiêu độc trong vòng 10 ngày. Tùy theo từng vụ nuôi, ông dùng các loại chế phẩm sinh học khác nhau phù hợp, được kiểm chứng kỹ càng.

Hiệu quả bảo quản

Mới đây, cơ sở thu mua tôm thương phẩm Thúy Ty (xã Tam Anh Bắc, Núi Thành) tiến hành thu mua tôm thẻ chân trắng ở ao nuôi của bà Nguyễn Thị Luận (xã Tam Hải, Núi Thành). Thay vì chỉ dùng đá ướp lạnh như mọi khi, doanh nghiệp này đã sử dụng chế phẩm sinh học gồm 50% dịch chiết gừng trong cồn 50%, cùng 50% dịch chiết riềng trong cồn 60% và các phụ gia an toàn là nisin nồng độ 200ppm, chitosan có nồng độ 0,5% để bảo quản sản phẩm theo tỷ lệ 1 lít chế phẩm sinh học pha với 2 lít nước biển và 7kg nước đá để bảo quản cho 10kg tôm thương phẩm.

Kết quả là tôm không có điểm đen nào trên thân; không bị rách vỏ; thịt tôm có màu sắc đặc trưng, săn chắc; đầu tôm dính chặt vào thân và không dập nát. Cơ sở Thúy Ty cho biết, nếu bảo quản bằng nước đá đơn thuần, chỉ sau 2 ngày tôm sẽ suy giảm chất lượng, giá bán ra bị giảm đến 30%. Trong khi đó, bảo quản bằng chế phẩm sinh học, thời gian giữ chất lượng sản phẩm tôm lâu hơn.

Nguồn: Báo Quảng Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tôm sinh thái nâng cao vị thế tôm Việt

Con tôm sinh thái không sợ hạn mặn, cũng không sợ ngọt hóa bất chợt như tôm nuôi công nghiệp. Tôm sinh thái chỉ cần nguồn nước thủy triều tự nhiên, không nhiễm bẩn.

Mô hình nuôi tôm sinh thái xuất hiện ở Cà Mau cách đây chỉ vài năm, nhưng đã nhận được hỗ trợ từ các dự án và các tổ chức quốc tế.

Nuôi tôm sinh thái theo mô hình luân canh lúa – tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao. 

Tỉnh Cà Mau có khoảng 70.000ha rừng ngập mặn tập trung chủ yếu ở các huyện Phú Tân, Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển. Trong đó, có 30.000ha nuôi tôm dưới tán rừng. Một số hộ nông dân được lâm trường cấp khoảng 4 – 5ha mặt nước và rừng để nuôi tôm sinh thái. Yêu cầu người đăng ký nuôi tôm sinh thái phải chọn mua con giống thật tốt ở những đơn vị sản xuất tôm uy tín và được kiểm định nghiêm túc. Đến nay, hơn 14.000ha đã được công nhận nuôi tôm sinh thái. Các hộ đăng ký nuôi tôm trên đã được chứng nhận vùng nuôi sinh thái. Đây là chiến lược phát triển để nâng cao vị thế tôm Việt Nam.

Ông Võ Minh Tuấn (huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) cho biết: Nuôi tôm sinh thái trong rừng ngập mặn là phương pháp nuôi tôm bền vững, hiệu quả ở chỗ giảm chi phí, ít tốn công chăm sóc vì tôm sống trong môi trường tự nhiên. Hơn nữa, ít dịch bệnh, mức độ rủi ro rất thấp, lợi nhuận cao.

Mô hình rừng – tôm mang tính chất bền vững.

Đầu ra sản phẩm được dự án MAM phối hợp với Cty CP Thủy sản Minh Phú cam kết thu mua toàn bộ với giá cao hơn giá thị trường khoảng 10 – 15% so với tôm thường. Tôm rất được thị trường ưa chuộng. Thêm một đặc điểm là tôm sống với bản năng tự nhiên nên có nhiều đặc điểm y như tôm tự nhiên. Đến những con nước triều cường, tôm lớn thường “chạy nước”, nghĩa là theo con nước mà đi.

Lãnh đạo Tập đoàn Thủy sản Minh Phú cho biết: Mô hình mà Minh Phú thực hiện được khởi đầu từ tôm nuôi sinh thái dưới tán rừng phòng hộ ven biển, tiếp đến là tôm – lúa và sau là tôm nuôi công nghiệp. Sở dĩ chọn con tôm sinh thái, tôm hữu cơ là do giá trị cao hơn từ 25 – 30% so với tôm nuôi thông thường. Nuôi trong môi trường sinh thái tự nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể dùng thức ăn hữu cơ để tăng năng suất nhưng không làm giảm đi giá trị của tôm khi chế biến xuất khẩu. Còn nuôi tôm công nghiệp, sẽ chọn nuôi theo mật độ thấp, vừa sức tải môi trường. Nuôi mật độ thấp không chỉ dễ nuôi, giảm nguy cơ dịch bệnh mà suất đầu tư cũng thấp, nông dân sẽ dễ đầu tư.

Về con giống, hiện nay các nước đã sản xuất được con giống kháng bệnh, gồm những bệnh rất nguy hiểm đối với nghề nuôi tôm là: EMS (chết nhanh) và đốm trắng, đang hướng tới kháng cả bệnh chậm lớn. Trong khi đó, Việt Nam vẫn còn loay hoay với con giống sạch bệnh.

Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cho biết: Địa phương dự kiến sẽ nâng diện tích tôm sinh thái có chứng chỉ lên 20.000ha vào năm 2020, nhằm nâng cao diện tích rừng ngập mặn được bảo vệ. Hướng đến “một vùng bờ biển sinh thái”, vừa sản xuất tôm có giá trị kinh tế cao, vừa đảm bảo diện tích rừng ngập mặn và chống nước biển dâng cao. Hiện tại, tỉnh Cà Mau tiếp tục xây dựng hoàn thiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Nuôi tôm sinh thái tạo sản phẩm tôm sạch lại thân thiện với môi trường.

Nuôi tôm sinh thái tận dụng những điều kiện tự nhiên dưới tán rừng phòng hộ ven biển. 

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi sò huyết trong vuông tôm

Nhiều nông dân ở xã Hòa Tân (TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau) khẳng định, mô hình nuôi sò huyết xen canh trên đất nuôi tôm, cua giúp họ thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Hiện toàn xã có trên 30 hộ đang đầu tư làm theo mô hình này.

Nhiều bà con thoát nghèo nhờ nuôi sò huyết trong vuông tôm

Bà Lê Thị Tới ở ấp Cái Nai kể, một lần tình cờ xem ti vi, bà phát hiện mô hình nuôi sò huyết cho thu nhập cao. Để thử nghiệm, bà tìm mua sò giống ở đầm Thị Tường về thả xen canh trên diện tích 0,2ha mặt nước nuôi tôm, cua. Thấy hiệu quả nên mở rộng và duy trì mô hình cho đến nay.

Theo kinh nghiệm của bà Tới, sò huyết là loài hải sản rất khỏe, ít bệnh, không tốn công chăm sóc. Ăn thức ăn tự nhiên có trong vuông nên sò lớn nhanh. Sau 6 tháng thả nuôi, sò đạt trọng lượng 70 – 100 con/kg, giá bán mỗi kg dao động từ 70.000 – 100.000 đồng.

Từ 10 triệu đồng ban đầu, qua 3 vụ thả nuôi, bà Tới đã tích lũy được nguồn vốn trên 150 triệu đồng và xây cất được nhà khang trang. Hiện, 600kg sò giống trong vuông tôm của gia đình bà đang phát triển rất tốt, hứa hẹn vụ mùa bội thu.

Theo Tới, cái lợi của nghề nuôi sò huyết là cứ bỏ ra 1 đồng vốn thì 6 tháng sau thu vào được 3 đồng lời. Lại thêm, nuôi sò huyết xen canh với các đối tượng cua, tôm trên cùng đơn vị diện tích thì cả 3 đối tượng nuôi đều trúng so với nuôi độc canh.

Tuy nhiên, trước mỗi vụ nuôi, người nuôi cần cải tạo ao từ 15-30 ngày. Sau đó, tiến hành bón vôi từ 10 – 15kg/1.000m² đáy ao, để hạn chế trứng các sinh vật gây hại sò huyết xâm nhập vào ao nuôi, đảm bảo ao nuôi duy trì mực nước với độ sâu từ 0,4 – 0,6m, các yếu tố môi trường như độ pH, nhiệt độ, độ mặn phù hợp.

Thời điểm thả giống nuôi sò huyết lý tưởng là từ tháng 9 – 10 dương lịch. Trong quá trình nuôi thường xuyên theo dõi, kiểm tra khả năng phát triển của sò để thay nước, bổ sung nguồn nước đảm bảo độ sâu phù hợp.

Nuôi sò huyết khá đơn giản nhưng mang lại lợi nhuận sao

Sò huyết là đối tượng có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi nên nông dân nuôi thủy sản rất hào hứng với vật nuôi này. Từ một vài hộ nuôi ban đầu, đến nay toàn tỉnh có khoảng 600 hộ nuôi sò huyết xen canh trong ao tôm, với diện tích hơn 450ha.

Bà Đặng Kim Chung, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Hòa Tân đánh giá: “Sò huyết nuôi xen canh trong vuông nuôi tôm góp phần đa dạng đối tượng nuôi, giúp nông dân nâng cao thu nhập. Theo kế hoạch, đầu năm 2018, Hội Phụ nữ xã sẽ vận động hội viên thành lập thêm hợp tác xã nuôi sò huyết tại ấp Xóm Chùa để liên kết sản xuất, tạo đầu ra thuận lợi cho sản phẩm”.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Anolit – chất khử trùng từ muối

Hiện cả nước đã có trên 600 thiết bị SX anolit được chế tạo và đưa vào hoạt động. Nhiều bệnh viện, trại chăn nuôi, xí nghiệp giết mổ chăn nuôi, cơ sở nuôi tôm giống…

Từ năm 1998, Viện Khoa học Vật liệu, sau đó là Viện Công nghệ môi trường thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã nghiên cứu chế tạo thiết bị SX anolit trên cơ sở các công nghệ được chuyển giao từ Nga và các quy trình sử dụng anolit.

Phun dung dịch anolit khử trùng, vệ sinh môi trường tại nhà lưới ở Thanh Hóa

Trong 15 năm gần đây, đã có trên 5 đề tài, dự án, nhiệm vụ cấp quốc gia và hàng chục đề tài, dự án cấp Bộ, cấp tỉnh được hàng chục đơn vị nghiên cứu thực hiện.

Hiện cả nước đã có trên 600 thiết bị SX anolit được chế tạo và đưa vào hoạt động. Nhiều bệnh viện, trại chăn nuôi, xí nghiệp giết mổ chăn nuôi, cơ sở nuôi tôm giống, nhà máy chế biến xuất khẩu thủy sản, trồng và bảo quản các loại trái cây có giá trị và khả năng xuất khẩu cao đã sử dụng chất khử trùng này.

Viện Công nghệ môi trường là nơi duy trì được tập thể khoa học chuyên nghiên cứu về anolit sâu nhất và gần đây đã có bước tiến mới trong nghiên cứu chế tạo thiết bị SX anolit, đã được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích năm 2015.

PGS.TS Nguyễn Hoài Châu, Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện Công nghệ môi trường cho biết, chỉ cần dưới 3kg muối đã có thể SX được 2.000 lít anolit, khử trùng được cho 300 – 500m3 nước đạt yêu cầu nước sạch về vi sinh theo quy định của Tổ chức Y tế thế giới và của Bộ Y tế hoặc khử trùng được cho diện tích 10.000 – 20.000m2 bề mặt sàn các phòng trong bệnh viện, trường học, nhà ở, trại chăn nuôi…

Tính ưu việt của anolit đã được khẳng định qua hàng ngàn công trình nghiên cứu về phương pháp chế tạo và mức độ ứng dụng nó tại rất nhiều nước trên thế giới. Dung dịch này diệt được rất nhiều loài vi khuẩn, nấm, virus và bào tử gây bệnh cho người, kể cả những loài có sức đề kháng cao như vi trùng bệnh lao, vi khuẩn bệnh than, virus viêm gan B.

Anolit khử trùng nhanh và mạnh, ít tác động đến sức khỏe của người và động vật vì có lượng clo hoạt động thấp và nhờ khả năng chống các chất oxi hóa của tế bào động vật cấp cao.

Anolit được tạo ra từ nước muối và dần trở về dưới dạng muối ăn thông thường có trong thiên nhiên nên không là chất tồn lưu làm ô nhiễm môi trường. Có giá rẻ do được SX chỉ từ điện và nước muối, tuy nhiên dung dịch anolit không bảo quản được lâu và hàm lượng clo hoạt động thấp nên không thuận tiện cho SX lớn vì chi phí vận chuyển cao, cần lắp đặt thiết bị tại cơ sở.

Do ảnh hưởng của áp mưa lớn trên diện rộng liên tục trong các ngày từ 9 đến 13/10/2017, nhiều địa phương ở Thanh Hóa đã bị ngập lụt nghiêm trọng. Một số nhà lưới của Cty TNHH Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn (huyện Thọ Xuân) bị ngập dài ngày. Cty đã đề nghị Viện Công nghệ môi trường hỗ trợ dung dịch anolit để khử trùng, làm vệ sinh. Với các thiết bị thế hệ mới đang được chế tạo thử nghiệm, trong thời gian gần 6 giờ, Viện SX được 1.200 lít dung dịch anolit để cung cấp kịp thời.

Ông Lê Huy Khiêm, PGĐ Cty đánh giá cao hiệu quả khử trùng, vệ sinh môi trường của dung dịch anolit và cho hay: “Đây là lần đầu tiên, chúng tôi sử dụng cùng lúc chất khử trùng này cho diện tích 5.000 – 6.000m2 trong các nhà màng, nhà lưới và tác dụng khử trùng, làm sạch môi trường của anolit thể hiện rõ rệt. Hiện dung dịch được SX tại Hà Nội, sau đó chúng tôi vận chuyển về bằng phương tiện xe tải. Về lâu về dài, Cty sẽ đầu tư thiết bị để chủ động SX tại chỗ”.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.