Kỹ thuật nuôi Artemia trên ruộng muối

Khu vực nuôi Artemia nằm trên khu vực làm muối là thích hợp hơn để có thể vận dụng kỹ thuật sản xuất muối vào kỹ thuật chuẩn bị nước mặn cho hệ thống nuôi.

1. Thiết kế, xây dựng ao

– Địa điểm tốt nhất phải gần nguồn nước biển và phải là khu đất thịt.

– Khu vực nuôi nằm trên khu vực làm muối là thích hợp hơn để có thể vận dụng kỹ thuật sản xuất muối vào kỹ thuật chuẩn bị nước mặn cho hệ thống nuôi.

– Hướng ao nuôi trùng với hướng gió chính của địa phương, diện tích ao nuôi thích hợp nhất từ 2.000 – 3.000 m2/ao.

– Bờ phải cao để giữ được mực nước tối thiểu trong ao là 50 cm. Có thể lắp đặt thêm hệ thống sục khí để phòng ngừa sự thiếu hụt oxy.

– Riêng đối với ao bón phân gây màu thì diện tích thường chiếm ít nhất 20% tổng diện tích mặt nước ao nuôi; độ sâu mực nước tối thiểu trong ao bón phân nên giữ  khoảng 60 cm.

2. Cải tạo ao nuôi

a) Ao mới

– Tiến hành sên vét lớp bùn đáy và phơi khô trong vòng 5 – 10 ngày.

– Bón vôi: Chỉ bón vôi khi pH của nước ao nuôi nhỏ hơn 7,5 và khó gây màu.  Liều  dùng khoảng 500 – 1.000 kg CaCO3/ha.

– Diệt tạp: Có thể dùng Rotenon (0,05 – 2,0 mg/l), bột hạt trà (15 mg/l) kết hợp urê và Chlorine (5 mg/l “N” và 24 giờ sau dùng 5 mg/l “OCl”), CaO (vôi bột), hoặc dây thuốc cá (1 kg/100 m3). Rotenone, Chlorine và CaO sẽ mất đi tính gây độc sau 24 – 48 giờ, nếu dùng bột hạt trà thì nên rửa ao trước khi thả  nuôi. Thực hiện tốt nhất vào buổi trưa.

– Lấy nước vào qua lưới lọc và tuân thủ nguyên tắc thả nuôi ở đúng độ mặn yêu cầu là 80‰.

b) Ao đã sử dụng

Vệ sinh sạch sẽ đáy ao, nếu ao có rong cỏ tạp phát triển thì phải được dọn sạch, lớp bùn đáy trong ao phải được sên vét ra, thường vào đầu vụ nuôi khi thấy mùa mưa đã kết thúc thì tiến hành bơm tháo nước ra khỏi ao nuôi để phơi ao và nuôi nước mặn (chuẩn bị nước mặn).

Chuẩn bị nước mặn bằng cách cho nước vào ao với mực nước khoảng 2 – 5 cm, sau 1 – 3 ngày thì nước sẽ bốc hơi và độ mặn tăng dần lên khoảng 5 – 10‰ sẽ được gom lại cho 1 ao. cứ  tiếp tục phơi nước như thế cho đến khi độ mặn ở ao trữ đạt 80‰ và mực nước tối thiểu 10 – 15 cm thì bắt đầu thả giống.

3. Thả giống

a) Kỹ thuật ấp nở

– Điều kiện ấp nở:

+ Ánh sáng: đặt đèn neon cách mặt nước bể ấp khoảng 20 cm.

+ Nhiệt độ: 28 – 30oC.

+ Độ mặn: 30 – 35‰

+ pH: 8,0 – 8,5

+ Mật độ ấp: 3 – 5g trứng cho mỗi lít nước.

– Cách làm: Nước được lọc sạch cho vào bể ấp; cân trứng vào bể theo mật độ trên, sục khí mạnh để cung cấp oxy và đảo trộn đều trứng. Sau 20 – 24 giờ trứng nở trên 90%, Artemia mới nở hay còn gọi là con non được chuyển trực tiếp ra ao (nếu thời gian vận chuyển ngắn hơn 30 phút) hoặc phải đóng oxy nếu thời gian vận chuyển kéo dài.

b) Kỹ thuật thả giống

– Khi nước mặn trong ao đạt độ mặn 80‰ và mực nước trong ao nuôi đạt tối thiểu 3-5 cm (trên mặt trảng) thì bắt đầu thả giống.

– Thời gian thả giống: Vào sáng sớm (6 – 7 giờ) hoặc chiều tối (17- 19 giờ).

– Mật độ thả: Mật độ thả giống lúc ban đầu là 100 con/l là thích hợp nhất  (tương đương với 3 lon trứng/ha)

– Vị trí thả giống: Bờ ao phía trên hướng gió hoặc đầu nguồn nước cấp.

4. Chăm sóc, quản lý ao nuôi

– Môi trường nước ao nuôi thích hợp

+ Độ mặn: 80 – 120‰

+ Nhiệt độ: 22 – 35oC

+ Oxy hòa tan: không thấp hơn 2 mg/l

+ pH: 7,0 – 9,0.

– Hàng ngày cần theo dõi một số yếu tố môi trường và quần thể Artemia. Mỗi buổi sáng và chiều nên theo dõi sức khỏe Artemia bằng cách dùng vợt vải mịn vớt mẫu cho vào chai thủy tinh trong suốt để quan sát sự tăng trưởng và phát triển quần thể Artemia. Quan sát tình trạng thức ăn trong ao thông qua quan sát đường ruột và hoạt động bơi lội cũng như màu sắc và các biểu hiện khác của chúng.

Artemia tập trung thành đàn, bơi lội nhanh và liên tục là quần thể khoẻ mạnh, tăng trưởng đồng  đều.

+ Thức ăn trong đường ruột đầy, không đứt đoạn là tốt, nếu có hiện tượngArtemia có “đuôi dài” (thực tế đây là sợi phân còn bám trên cơ thể) là doArtemia không tiêu hoá được thức ăn.

+ Con non Artemia (nauplii) sau khi thả sẽ phát triển qua các giai đoạn con non – thiếu niên –  tiền trưởng thành – trưởng thành, sau đó con cái sẽ tham gia sinh sản (đẻ con và đẻ trứng); con non thế hệ sau tiếp tục phát triển để gia tăng mật độ của quần thể, tùy thuộc vào điều kiện ao nuôi mà thành phần, mật độ và tình trạng quần thể sẽ thay đổi. Thông thường, một quần thể Artemia khỏe mạnh sẽ có sự hiện diện đầy đủ các thành phần trên. Khi trong ao nuôi xuất hiện các điều kiện không thuận lợi như nhiệt độ cao, thiếu thức ăn, ô nhiễm… thì quần thể có sự mất cân đối giữa các thành phần nói trên (ví dụ có sự thiếu hụt con non, con đực hoặc con cái có buồng trứng nhỏ, hay túi ấp rỗng… đa số bơi lội lờ  đờ, màu sắc nhợt nhạt…)

– Cấp nước: Bù đắp sự thất thoát nước trong ao, đồng thời để cung cấp tảo (nước xanh) làm thức ăn cho Artemia. Lượng nước cấp vào ao đảm bảo độ muối khoảng 80‰ và độ trong 25 –   35 cm.

– Cung cấp thức ăn bổ sung

+ Sử dụng một số loại thức ăn cho tôm giống tôm sú có hàm lượng đạm gần 40%, hoặc một số loại thức ăn công nghiệp tương đương.

+ Lượng cho ăn tùy theo nhu cầu thực tế, thường 4 – 6 kg/ha/ngày.

+ Thời gian cho ăn buổi chiều mát hay buổi tối. Ngâm thức ăn vào trong nước 15-20 phút trước khi cho ăn. Khi cho ăn nên rải đều nơi Artemia tập trung.

– Bón phân trong ao

Các loại phân bón thường sử dụng:

+ Phân đạm (N): 1 – 10mg/l tùy theo môi trường ao nuôi.

+ Phân lân (P2O5): Bón phân lân 2 lần/tuần, khi bón vào ao nuôi thì lượng phân lân ít hơn phân đạm từ 3 – 5 lần.

+Phân bón vô cơ: Hoà tan phân bón trong nước ngọt trước khi bón. Không bón phân vào ngày trời u ám. Nên bón phân trong ao có độ mặn thấp (30 – 50‰). Các điều kịên trong ao bón phân nên được giữ càng ổn định càng tốt. Không nên bón phân vô cơ trực tiếp trong ao nuôi Artemia (trừ trường hợp trước khi thả giống).

+ Khi quần thể tảo phát triển ổn định, duy trì bón phân ít nhất 1 lần/tuần. Khi sử dụng phân gà để gây màu, nên bón ở liều lượng 500 – 1.000 kg/ha/tháng, phân Urê 50 – 100 kg/ha/tháng để kích thích tảo phát triển trước khi đưa vào ao nuôi. Thông thường nên duy trì độ trong của ao nuôi trong khoảng 20 – 30 cm là tốt nhất.

– Chế độ bừa trục: Vừa có tác dụng đảo trộn phân bón và thức  ăn trong ao,  vừa có tác dụng diệt các mầm rong đáy (lab-lab). Khi độ đục thích hợp hoặc nền đáy ao đã tơi mềm thì có thể giảm chế độ bừa trục.

Hàng ngày cần phải thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường để xử lý kịp thời, kiểm tra bờ bọng tránh rò gỉ thẩm lậu, kiểm tra lưới lọc để tránh sự xâm nhập của cá dữ…

5. Thu hoạch và sơ chế sản phẩm

Thời gian thu hoạch trứng bào xác Artemia khoảng sau 2 tuần nuôi từ lúc bắt đầu thả giống, trứng Artemia trong ao thường có màu vàng nâu nổi trên mặt nước và tập trung ở góc ao cuối hướng gió. Sử dụng vợt vải có kích thước mắt lưới khoảng 100 micromet để vớt trứng.

Việc thu hoạch nên được thực hiện 2 – 3 lần mỗi ngày (sáng, chiều mát, buổi tối). Thời gian thu hoạch trứng có thể kéo dài từ 1 đến 2 tháng nếu ao được quản lý tốt.

Trứng được thu phải lọc và rửa sạch qua túi lưới (0,5 mm) để tách rác và tạp chất lẫn, sau đó được rửa sạch và ngâm trong nước muối bão hòa (>250 ‰), hàng ngày nên đảo trộn trứng và rút bỏ cặn bẩn dưới đáy bể chứa, định kỳ hàng tuần nên chuyển trứng cho sấy khô và bảo quản.

6. Một số trở ngại có thể gặp trong ao nuôi và cách phòng ngừa

Địch hại

Thông thường cá rô phi, giáp xác chân chèo, chim là địch hại nguy hiểm đối vớiArtemia. Để ngăn ngừa các đối tượng trên cần: giữ độ mặn trong ao nuôi từ 80‰ trở lên, dùng lưới lọc nước có mắt lưới 0,5 mm khi bơm nước vào ao và giăng lưới, cờ…

Một số hiện tượng khác

– Ao bị rong mền: Sự xuất hiện rong mền khi độ mặn trong ao thấp. Cách khắc phục là duy trì độ mặn ao nuôi từ 80‰ trở lên.

– Ao bị rò rỉ làm thất thoát nước và Artemia thoát ra ngoài: Cần khắc phục đầm nén bờ ao thật kỹ.

– Ao bị đục bùn: Thường do sử dụng thức ăn là cám gạo hay phân gà trực tiếp trong ao quá nhiều hay nền đáy ao có lớp bùn đáy dày. Khắc phục bằng cách tăng cường cấp nước xanh, hạn chế bừa trục nền đáy ao. Tuy nhiên, cách tốt nhất là cải tạo lại  ao nuôi và lấy nước mới để thả giống lại.

– Artemia có hiện tượng đuôi dài do thức ăn không phù hợp hay khó tiêu hóa: Cần thay nước và sử dụng nước tảo có thành phần loài thích hợp cho ao gây màu.

– Không tham gia sinh sản: Thiếu ăn hay ao bị đục bùn làm cho Artemia không đủ năng lượng cho tái phát dục hoặc để đẻ trứng.

– Nổi đầu vào sáng sớm, màu sắc chuyển sang đỏ thẫm: Khi ao bẩn, hoặc tảo phát triển dày đặc, hậu quả làm thiếu oxy về đêm nên Artemia nổi đầu vào sáng sớm hôm sau. Nếu độ mặn tăng cao và ao thường xuyên nhiễm bẩn thì Artemia sẽ chuyển sang màu đỏ thẫm do thiếu hụt oxy nghiêm trọng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Khuyến cáo nuôi tôm hùm sông Cầu

Kết quả quan trắc môi trường các vùng nuôi tôm hùm tại TX Sông Cầu của Trung tâm Giống và Kỹ thuật thủy sản tỉnh Phú Yên cho thấy một số chỉ tiêu nằm ngoài ngưỡng cho phép.

Nhiều vùng nuôi tôm hùm ở Sông Cầu có các chỉ tiêu ngoài ngưỡng cho phép

Trung tâm đã khuyến cáo người nuôi tôm hùm vùng Phú Dương – Xuân Thịnh dịch chuyển lồng nuôi đến nơi có dòng chảy hoặc nâng lồng nuôi lên từ 0,5 – 1m, bảo đảm độ mặn tối thiểu 30‰.

Bên cạnh đó, hàm lượng DO tại vùng này (nước tầng đáy 4,9mg/l) cũng thấp dưới ngưỡng cho phép. Vì vậy, đề nghị các hộ di dời lồng bè đến nơi có dòng chảy, độ sâu thích hợp hoặc nâng lồng nuôi cách tầng đáy 1,5m.

Tại vùng nuôi Phước Lý – Xuân Yên chỉ tiêu H2S (nước tầng đáy) vượt ngưỡng giới hạn cho phép. Các hộ nên dịch chuyển lồng nuôi đến nơi có dòng chảy, nâng lồng nuôi tôm cách tầng đáy 1 – 1,5m, bảo đảm độ mặn tối thiểu 30‰.

Ngoài ra, hàm lượng Vibrio spp tổng số vượt ngưỡng giới hạn cho phép tại nuôi Phước Lý – Xuân Yên (nước tầng đáy). Cần tăng cường vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, không để hàu, hà… bám vào lồng.

Đồng thời Trung tâm lưu ý các hộ thu gom vỏ tôm lột, vỏ nhuyễn thể làm thức ăn cho tôm hùm, hệ thống cây làm bè đã hư hỏng nên thu gom, các bao đựng thức ăn đưa vào đất liền không nên xả thải vào Vịnh. Tăng cường sức khỏe của tôm hùm nuôi bằng cách sử dụng thức ăn tươi, đảm bảo chất lượng và bổ sung các chế phẩm sinh học, vitamin, khoáng chất nhằm giúp tôm giảm stress và tăng sức đề kháng trong điều kiện thời tiết thay đổi và tác nhân gây bệnh.

Hiện thời tiết vẫn còn đang phức tạp, nước ngọt từ thượng nguồn vẫn tiếp tục đổ vào vịnh. Do đó, các hộ nuôi cần chú ý dòng chảy, có khả năng độ mặn xuống thấp cục bộ một số vùng nuôi làm ảnh hưởng đến tôm hùm, cần thường xuyên kiểm tra độ mặn để có giải pháp ứng phó.

Đề nghị UBND các xã, phường và các tổ đồng quản lý thông báo kết quả quan trắc môi trường qua hệ thống loa phát thanh để các hộ nuôi tôm hùm biết và có giải pháp xử lý kịp thời.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá lồng đặc sản theo VietGAP ở Tuyên Quang

Nhờ phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, hơn 10 năm qua, giá trị sản xuất của ngành thủy sản tỉnh Tuyên Quang liên tục tăng bình quân trên 20%/năm.

Nuôi cá lồng đặc sản theo VietGAP ở Tuyên Quang

Đặc biệt, 5 loài cá đặc sản quý hiếm (ngũ quý xứ Tuyên) được nuôi bằng lồng trên sông Lô, sông Gâm theo quy trình VietGAP đã chinh phục khách hàng khắp nơi.

Địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch

Tháng 5/2016, tỉnh Tuyên Quang có 2 đơn vị là Công ty TNHH Lâm sản và Dịch vụ Long Giang và Trang trại Trương Thị Hoài Linh vinh dự nằm trong tốp 69 đơn vị dẫn đầu được Bộ NN-PTNT công bố, công nhận “Địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch”. Đây cũng là hai đơn vị nuôi trồng thủy sản nước ngọt tiên phong đầu tư tại Tuyên Quang. Các loại đặc sản gồm cá lăng, chiên, bỗng, dầm xanh và anh vũ.

Nuôi cá lồng theo quy trình VietGAP là đòi hỏi thiết yếu và mang lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi.

Bà Nguyễn Thị Vĩnh An, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Tuyên Quang cho biết, một mục tiêu quan trọng trong phát triển thủy sản tại Tuyên Quang là khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư phát triển nuôi cá lồng theo hướng VietGAP với các loại lồng nuôi có kích thước lớn (lồng kích thước 108m3) nhằm nâng cao năng suất, sản lượng cá lồng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.

Theo đó, Chi cục thường xuyên hướng dẫn người nuôi kiểm tra các yếu tố môi trường nước quan trọng như oxy hòa tan, pH, H2S, NH3… để có giải pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, hướng dẫn người nuôi cá theo dõi và chăm sóc cá nuôi hàng ngày để có biện pháp xử lý khi có hiện tượng bất thường xảy ra.

Khuyến cáo người nuôi không thả cá giống khi các yếu tố môi trường nước chưa đảm bảo, thực hiện nuôi theo đúng mật độ hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, khoảng cách giữa các cụm lồng/bè và mật độ lồng bè phải đảm bảo theo quy định.

Người dân không được cho cá ăn thức ăn hết hạn sử dụng, thức ăn không có trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, đối với thức ăn tươi sống phải cho ăn theo đúng khẩu phần ăn hàng ngày, không để thức ăn dư thừa làm ô nhiễm môi trường vùng nuôi…

Anh Nguyễn Trường Minh, Phó Giám đốc Công ty TNHH Lâm sản và dịch vụ Long Giang cho biết, công ty tổ chức nuôi trồng thủy sản trên hồ sinh thái Na Hang và hồ thủy điện Chiêm Hóa với số lượng 30 lồng nuôi cá đặc sản.

Theo anh Minh, giá cá giống rất đắt nên việc chọn nuôi theo quy trình VietGAP cũng là cách để hạn chế rủi ro. Theo đó, ngoài môi trường chăn nuôi sạch thì thức ăn chăn nuôi cũng phải đảm bảo an toàn. Hàng năm, công nhân công ty đều tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá. Công nhân thường xuyên kiểm tra thức ăn và lượng cá ăn hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp, vệ sinh lồng cá định kỳ tạo sự thông thoáng nước trong lồng để tăng hàm lượng oxy trong nước và chống ký sinh trùng trên cá, bổ sung khoáng chất, thuốc phòng ngừa dịch bệnh cho cá khi cần thiết.

Nhờ làm tốt quy trình, sau khi được Bộ NN-PTNT công nhận là “địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch” trên toàn quốc, tháng 3/2017, công ty đã được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) công nhận cơ sở nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn VietGAP. Sản lượng cá sản xuất ra không đủ cung cấp cho các đơn đặt hàng khắp nơi. Công ty đã lập kế hoạch tiếp tục mở rộng sản xuất, ngoài cung cấp thực phẩm tươi, sẽ mở thêm dịch vụ chế biến sẵn để tiêu thụ sản phẩm ở các chuỗi nhà hàng, siêu thị thực phẩm an toàn…

Bà Trương Thị Hoài Linh (chủ trang trại Trương Thị Hoài Linh) cho biết, trang trại của bà có quy mô chăn nuôi 40 lồng cá đặc sản tại huyện Na Hang. Làm VietGAP, ngoài nguồn nước thì việc chăm sóc là yếu tố quyết định hiệu quả chất lượng cá sạch. Hàng ngày, công nhân phải giặt lồng, giặt lưới để loại bỏ rong, rêu, loại bỏ các nguy cơ có thể gây bệnh cho cá; kiểm tra, phân loại cá để có cách chăm sóc phù hợp, bởi cá bé thì phải nghiền nhỏ thức ăn trước khi cho ăn.

Để đảm bảo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá, trang trại đã ký hợp đồng thu mua cá tạp với 30 hộ đánh bắt cá trên hồ thủy điện Na Hang. Đồng thời, đầu tư hệ thống kho lạnh với sức chứa 20 tấn, qua đó, nguồn thức ăn cho cá luôn đảm bảo yêu cầu. Từ nỗ lực thực hiện đúng quy trình chăn nuôi, sản phẩm cá sạch Na Hang của trang trại được khách hàng từ nhiều nơi đặt mua từ trước.

Bà chủ trang trại cho hay, việc mở rộng sản xuất khi trang trại hoạt động hiệu quả là đương nhiên nhưng điều quan trọng và liên tục phải nỗ lực thực hiện là chủ động kỹ thuật chăn nuôi để duy trì, phát triển thương hiệu, khẳng định uy tín, giữ vững niềm tin của khách hàng.

Đổi đời nhờ cá lồng sạch

Tháng 8/2015, trong chuyến làm việc tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đã đặc biệt ấn tượng với mô hình nuôi cá lồng tại xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên. Quan trọng nhất là sản phẩm có đến đâu đều được tiêu thụ hết đến đó với giá bán tại thời điểm đó đã lên đến 450 ngàn đồng/kg.

Đầu năm 2015, Hợp tác xã Sản xuất – kinh doanh cá đặc sản Thái Hòa được thành lập. Đây cũng là hợp tác xã nuôi cá lồng đặc sản theo quy trình VietGAP đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang. HTX hiện có 10 thành viên, với 57 lồng nuôi cá, trong đó có 11 lồng nuôi cá bỗng, còn lại đều nuôi cá chiên.

Theo các thành viên của HTX tính toán, 1 con cá chiên giống trọng lượng 200 gram khi mua có giá 150 nghìn đồng, chỉ sau hơn 1 năm nuôi cá có trọng lượng từ 2,5 – 3 kg, giá mỗi kg cá chiên thương phẩm là 450 nghìn đồng/kg. Như vậy, chỉ sau 1 năm nuôi, 1 con cá chiên trừ chi phí lãi gần 1 triệu đồng. Mỗi lồng nuôi cá sẽ cho lãi gần 50 triệu đồng.

Ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc HTX Sản xuất – kinh doanh cá đặc sản Thái Hòa cho biết, nghề nuôi cá lồng xuất hiện ở Thái Hòa cách đây khoảng 10 năm. Từ một vài hộ đầu tiên, giờ Thái Hòa đã có gần 40 hộ nuôi trên 100 lồng cá chiên, cá bỗng. Nhờ nuôi cá lồng, các hộ có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên. Chắc chắn, nghề nuôi cá lồng sẽ ổn định và phát triển mạnh hơn nữa khi con giống được đảm bảo ổn định về chất lượng và sự thích nghi.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tác hại thuốc chống nấm trong nông nghiệp đến động vật giáp xác

Theo một nghiên cứu mới của các chuyên gia từ Đại học Barcelona và Đại học Portsmouth (Anh) thuốc chống nấm và thuốc trầm cảm phát hiện trên các hệ thống sông làm giảm lượng thức ăn tôm ăn vào và tăng tốc độ bơi của tôm.

Thuốc chống nấm được dùng trong nông nghiệp ảnh hưởng đến giáp xác ngoài tự nhiên.

Ở châu Âu, châu Á, Australia và Nam Mỹ nguồn nước có hàm lượng cao các chất chống nấm được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp. Thuốc chống trầm cảm cũng được tìm thấy trong các con sông ở thủ đô nơi có hệ thống nước thải có hàm lượng thuốc cao.

Các sản phẩm hóa học này được đưa vào môi trường nước do không được loại bỏ hoàn toàn ở các nhà máy xử lý; chúng có thể tích lũy trong não của một số loài cá.  Và những ảnh hưởng của sự kết hợp của các chất độc khác nhau đã không được biết đến. Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phân tích ảnh hưởng của thuốc chống trầm cảm và thuốc diệt nấm tới sinh vật phù du và các loài giáp xác như tôm cua.

Giáo sư Alex Ford cho biết: “Hầu hết các con sông trên thế giới đều tiếp nhận chất gây ô nhiễm từ nước thải ngành nông nghiệp và các hệ thống nước thải có nồng độ thuốc cao. Dung dịch hỗn hợp các chất này có thể không gây chết người, nhưng gây tổn hại đến hệ sinh thái và thủy sinh vật.”

Giảng viên Isabel Muñoz từ Đại học Barcelona cho biết: “Nghiên cứu này cho thấy tác động của 2 chất này với hàm lượng thấp làm thay đổi hành vi của tôm Gammarus pulex, làm giảm lượng thức ăn ăn vào và tăng tốc độ bơi khi có độc tố. “

Nghiên cứu về hành vi bơi lội đã chứng minh rằng động vật bơi nhanh hơn sau khi tiếp xúc với thuốc diệt nấm và thuốc chống trầm cảm, tuy nhiên, khi chúng tiếp xúc với cả hai yếu tố, như trong nguồn nước bị ô nhiễm ngoài tự nhiên, sự phối hợp 2 chất này làm cho chúng bơi chậm hơn và dễ dàng trở thành con mồi cho những loài ăn thịt khác.

“Sự thay đổi hành vi bơi lội và ăn uống tác động tới sự phát triển, sinh sản và sự sống còn của động vật giáp xác, một thành phần quan trọng trong chuỗi thức ăn.” Tác giả cảnh báo.

Nguồn: Báo cáo của: University of Barcelona được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giải bài toán giống cá tra

Dù giá trị XK đã đạt gần 2 tỷ USD, đứng thứ 2 trong số các sản phẩm thủy sản XK chủ lực của Việt Nam, nhưng ngành hàng cá tra vẫn luôn ở trong tình trạng khi thiếu, lúc thừa cá tra nguyên liệu, gây khó khăn lớn cho hoạt động XK.

Để giải quyết vấn đề này, ổn định sản xuất cá tra nguyên liệu đang là vấn đề cấp thiết, nhất là giải quyết bài toán giống.

Nuôi cá tra ở ĐBSCL

Giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL hiện vẫn đang ở mức rất cao. Tuy nhiên, không mấy người nuôi cá tra được hưởng lợi từ mức giá này, bởi không còn cá mà bán.

Theo ông Nguyễn Văn Đời, một chủ trại cá tra lớn, với diện tích 10ha ở cù lao Tân Phong (Tiền Giang), phần lớn các ao nuôi cá tra ở cù lao này đã thu hoạch và bán hết khi cá tra nguyên liệu ở mức giá 24.000 – 25.000 đ/kg. Hiện dưới ao chỉ có cá mới thả nuôi chưa lâu. Ông Nguyễn Hữu Nguyên, GĐ HTX Thủy sản Châu Phú (An Giang), cho biết, hầu hết các ao nuôi ở đây cũng không còn cá để thu hoạch.

Điều đáng nói là tình trạng thiếu hụt nguồn cung cá tra nguyên liệu trong năm 2017 đã được nhiều DN cảnh báo từ năm ngoái, nhưng vẫn cứ xảy ra. Nguyên nhân trước hết là do trong 3 năm từ 2014 – 2016, giá cá tra nguyên liệu thường ở mức thấp, khiến nhiều người nuôi bị thua lỗ, phải treo ao hay chuyển nghề nuôi khác. Bên cạnh đó, là việc mất mùa cá tra giống cuối năm 2016 cũng ảnh hưởng không nhỏ tới thả nuôi cá tra của nhiều trang trại trong năm nay.

Mặt khác, chất lượng cá tra giống cũng đang khiến cho nhiều DN, trang trại không yên tâm thả nuôi. Theo báo cáo của TS Dương Nhựt Long (Khoa Thủy sản, ĐH Cần Thơ), tại Lễ tổng kết Dự án xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam, tỷ lệ sống của cá tra trong quá trình ương giống rất thấp, hiện chỉ từ 6 – 10%. Sau khi thả giống, tỷ lệ cá chết khá cao, từ 10 – 30%, tỷ lệ sống của cá tra nuôi thịt hiện mới chỉ đạt 69 – 80%.

Chính vì vậy, để ổn định nghề nuôi cá tra, việc nâng cao chất lượng con giống đang được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Một thông tin đáng chú ý là mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận Đề án “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng ĐBSCL tại An Giang”.

Cụ thể: cấp 1 gồm các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, trường ĐH và DN có đủ điều kiện cung cấp đàn cá tra bố mẹ tuyển chọn các tính trạng tốt để chuyển giao cho đơn vị cấp 2; cấp 2 gồm Trung tâm giống thủy sản An Giang, trung tâm giống thủy sản cấp 1 của các tỉnh, các DN có cơ sở sản xuất giống, các trại giống liên kết sản xuất, cung cấp cá tra bột; cấp 3 là các cơ sở ương dưỡng từ cá bột lên cá hương giống. Mục tiêu là đến năm 2020, diện tích tham gia chuỗi liên kết đạt 1.000ha, chiếm 50% diện tích ương giống cá tra khu vực ĐBSCL; cung cấp cho toàn vùng khoảng 50% con giống (tương đương 1,75 tỉ con giống); đến năm 2025 cung cấp 70% con giống (tương đương khoảng 2,8 tỉ con giống).

Điều đáng chú ý của Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp là đã thu hút được sự tham gia của các DN. Chẳng hạn, Tập đoàn Việt – Úc đã quyết định đầu tư vùng sản xuất cá tra giống chất lượng cao với diện tích 100ha ở thị xã Tân Châu (An Giang).

Bộ NN-PTNT cũng đánh giá cao vai trò quan trọng của DN trong hệ thống sản xuất giống cá tra, nhất là những DN đã khẳng định được năng lực trong nghiên cứu, chọn tạo giống thủy sản. Mới đây, tại Lễ công bố Chương trình tôm giống bố mẹ của tập đoàn Việt – Úc, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám, sau khi biểu dương những thành công của Tập đoàn Việt – Úc trong việc chọn tạo tôm giống bố mẹ, đã đề nghị tập đoàn này tận dụng kinh nghiệm sẵn có, phát triển nghiên cứu chọn giống sang các đối tượng nuôi quan trọng, trong đó có cá tra.

Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VASEP, trong 10 tháng đầu năm nay, XK cá tra đạt gần 1,48 tỷ USD. Trong mấy tháng cuối năm đã ghi nhận tín hiệu tích cực từ một số thị trường nhập khẩu quan trọng như Trung Quốc, Mỹ, ASEAN… Tuy nhiên, do cá tra nguyên liệu bị thiếu hụt nặng nề, kế hoạch XK cuối năm của nhiều DN sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giá dịch vụ “ăn theo” nuôi tôm siêu thâm canh tăng mạnh

Với năng suất cao, ít rủi ro, đem lại lợi nhuận gần như gấp đôi so với các hình thức nuôi khác, loại hình nuôi tôm siêu thâm canh hiện nay đã và đang gây “bão” đối với người dân nuôi tôm trên địa bàn. Diện tích tôm nuôi tăng đột biến, kéo theo đó là những dịch vụ phục vụ nuôi tôm cũng có cơ hội “ăn theo”, nhiều nguy cơ tăng chi phí cho người nuôi.

Người nuôi tôm huyện Đầm Dơi đang chuẩn bị mở rộng diện tích nuôi siêu thâm canh khi bước vào chính vụ.

Là địa phương có diện tích nuôi tôm siêu thâm canh chiếm nhiều nhất hiện nay, huyện Đầm Dơi đã tăng lên 322,5 ha với 357 hộ nuôi. Trong khi diện tích đăng ký kê khai ban đầu chỉ 16,7 ha.

Ông Nguyễn Quốc Thống, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Đầm Dơi, chia sẻ: “Hiện nay, diện tích này đang tăng lên, đặc biệt chuẩn bị bước vào mùa nắng, mùa thuận của nuôi tôm, diện tích này sẽ mở rộng ồ ạt. Theo đó, dịch vụ xe cuốc, xe ủi để chuẩn bị ao đầm có thể sẽ đẩy giá lên cao”.

Được biết, hiện tại giá xe ủi, xe cuốc cho mỗi héc-ta khoảng 80-100 triệu đồng, tăng 20-40 triệu đồng/ha so với đầu năm. Đó là chưa kể tuỳ vào địa hình, kết cấu đất, nếu đất khó ủi thì chi phí này có khả năng tăng hơn.

Ông Hồ Chí Khanh, ấp Tân An Ninh B, xã Tạ An Khương Nam, huyện Đầm Dơi, than thở: “Vụ rồi gia đình đã nuôi được 1 ao với diện tích 1.600 m2, năng suất đạt khoảng 70%, vụ này dự tính sẽ mở rộng thêm 4 ao với diện tích 1,2 ha. Giá xe cuốc, ủi tăng nhiều, trước đây chỉ 60-70 triệu đồng/ha, giờ tăng lên 100 triệu đồng/ha, còn phải đặt cọc trước”.

Theo Phòng NN&PTNT huyện Đầm Dơi, số lượng xe cơ giới để ủi đầm trên địa bàn không nhiều, không đủ phương tiện, giá có thể đội lên 150 triệu đồng/ha.

Là chủ phương tiện xe cuốc, ủi hoạt động trên địa bàn xã Tạ An Khương Nam, huyện Đầm Dơi 17 năm qua, anh Huỳnh Trung Sơn cho biết: “Giá cuốc hiện nay đang tăng do nhu cầu nuôi tôm siêu thâm canh đang mở rộng, hiện đã kín lịch, người dân đã đặt trước để vào vụ sẽ bắt đầu ủi đầm. Lo là xe cuốc vùng trên xuống sẽ phá giá. Vì xong vụ họ đi nơi khác, giá nào họ cũng làm được, không lo sợ bị tẩy chay do làm việc không chất lượng”.

Đang chuẩn bị cột bê-tông, ống nhựa, lưới mành cho vụ nuôi tôm sắp tới, anh Hứa Văn Cường, ấp Tân Thành A, xã Tạ An Khương Nam, lo lắng: “Hiện nay mỗi hộ nuôi tôm muốn phát triển loại hình nuôi tôm siêu thâm canh thì hầu hết là tự liên hệ với một công ty nào đó để cung cấp vật tư, quy trình nuôi. Hiện nay, bắt đầu xuất hiện nhiều công ty mới như: Trúc Anh, Nam Á cung cấp bạt, các thiết bị, vật tư khác cho người dân. Giá xe cuốc tuy tăng giá nhưng giá bạt hiện giảm 4.000 đồng/m2 do các công ty cạnh tranh với nhau”.

Biến động về giá vật tư đang là nỗi lo, gánh nặng cho người nuôi tôm, nhưng lo lắng nhất của địa phương vẫn là môi trường nuôi sắp tới đây nhiều khả năng bất ổn nếu như diện tích cứ tăng ồ ạt mà quy trình nuôi không đảm bảo, kiểm soát chặt chẽ.

Ông Thống chia sẻ: “Hiện nay huyện đang tăng cường kiểm tra, thống kê lại các hộ nuôi tôm siêu thâm canh không đủ điều kiện nuôi sẽ không cho tiến hành nuôi mà phải cam kết thực hiện đúng theo quy trình của Sở NN&PTNT đề ra. Đồng thời, để hạn chế sự phát triển quá nhanh diện tích nuôi tôm siêu thâm canh, các ngành của huyện còn tăng cường tuyên truyền, vận động các hộ dân nuôi tôm tìm hiểu kỹ về quy trình kỹ thuật, nguồn vốn, con giống và thực hiện đúng theo hướng dẫn của Sở NN&PTNT tỉnh về quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh năng suất cao và quy trình nuôi tôm thâm canh năng suất cao theo công nghệ Semi-Biofloc”.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Lão nông 83 tuổi “mắc màn” nuôi ếch

Dù đã 83 tuổi nhưng ông Chu Trọng Tại (ngụ tại tổ 1, phường Hòa Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng) vẫn say mê làm trang trại với nhiều sáng kiến nổi tiếng trong vùng.

Ông Chu Trọng Tại bên màn ếch của mình.

Khi chúng tôi đến gặp, ông Tại đang hì hục đổ cát san vườn để nuôi gà Đông Tảo. Nhìn bề ngoài, không ai nghĩ ông Tại đã 83 tuổi vì ông vẫn làm việc nhanh thoăn thoắt. Ông Tại là cựu chiến binh, từng chiến đấu ở chiến trường Điện Biên Phủ. Sau khi rời quân ngũ, ông công tác ở Điện lực Hải Phòng rồi nghỉ chế độ. Lão nông này cũng từng đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Hợp tác xã Hòa Nghĩa (thuộc huyện Kiến Thụy cũ ở Hải Phòng). Từ năm 2001, ông Tại là 1 trong 10 người đi tiên phong trong việc phát triển mô hình trang trại chăn nuôi tổng hợp ở huyện Kiến Thụy.

“Việc nuôi ếch tôi từng triển khai từ năm 2004, lúc đó tôi có 5.000 con, nuôi theo kiểu bán hoang dã. Ếch được thả tự do trong vườn, lớn nhanh như thổi, nhưng không hiểu tại sao sau một đêm, 5.000 con ếch, đã to bằng cái chén uống nước, biến đâu hết. Buồn quá, tôi bỏ, cho đến năm 2016 mới bắt đầu lại”, ông Tại vừa dẫn chúng tôi ra ao nuôi ếch, vừa kể chuyện.

Khi bắt đầu nuôi ếch trở lại, ông Tại đi tìm hiểu nhiều nơi để học hỏi kinh nghiệm. “Tôi thấy người ta chủ yếu nuôi ếch trong bể xây bằng bê tông. Như thế khá tốn kém mà ếch dễ thoát ra ngoài, hoặc bị chuột, chim tấn công. Tôi nghĩ ra việc nhờ người ta may lưới thành 1 cái màn kín rồi mắc xuống ao. Trong màn thả vài miếng xốp, bèo cho ếch sống, thế mà ổn”, lão nông này chia sẻ.

Trong thửa ao rộng 300 m2, ông Tại dựng 4 chiếc màn, nuôi hơn 6.000 con ếch. Mỗi màn có chiều dài 7 m, rộng 3 m, cao 2,5 m. Ếch giống mua về được chia ra các màn khác nhau, tùy theo con to, con nhỏ cho ếch khỏi bắt nạt nhau. Lúc nhỏ ếch được ăn lòng đỏ trứng gà sao khô trong 1 tuần, sau đó mới cho ăn cám gia súc. Trung bình 1.000 con ếch cần 4 kg thức ăn, chia thành cho 2 bữa một ngày. Ếch trong 4 màn của ông Tại đã nuôi được gần 3 tháng, mỗi con nặng khoảng 3 lạng. Đây là lứa ếch cuối trong năm của ông. “Ít ngày nữa, ếch nặng 3,5 lạng mỗi con là có thể xuất chuồng, với giá khoảng 55.000 đồng/kg và đã có người đặt hàng từ lâu rồi. Ếch là đặc sản và dễ bán hơn vịt gà”, ông Tại tự tin nói.

Lão nông 83 tuổi cũng cho biết, ếch dễ nuôi nhưng cũng dễ mắc bệnh nấm, cần phải phòng ngừa. “Vết loét cứ to dần ra làm ếch chết hàng loạt nên tôi phải chủ động phòng bệnh hơn là chữa bệnh, bằng cách vài ngày lại phun thuốc tím vào màn để sát trùng. Nếu màn nào mà ếch có bệnh thì phun dày hơn”, ông Tại chia sẻ.

Doanh thu tiền tỉ

Từ ao ếch, ông Tại dẫn chúng tôi đi thăm một vòng khu trang trại rộng hơn 10.000 m2 mà ông đã gây dựng 16 năm nay. Để xây dựng chuồng trại, ông Tại đi tìm nhà cung cấp vật liệu thân quen, xin họ bán chịu rồi trả dần. Những thứ có thể tự túc, ông Tại cùng các con làm ngày, làm đêm. “Như cái chuồng gà 2 tầng này cần đến 10 cột thì tôi chỉ thuê thợ mộc làm 1 cái cột thôi, rồi bố con tôi tự đóng theo mẫu đó”, ông Tại kể.

Trang trại của ông Tại đang nuôi hàng nghìn con gà theo hợp đồng bao tiêu với Công ty cổ phần chăn nuôi Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có 2 ao cá rộng 5.000 m2, mỗi năm cho 7 tấn cá rô phi, trắm, mè… Một năm, trang trại của ông Tại có doanh thu khoảng 4 tỉ đồng. Trừ các loại chi phí, bố con ông có lãi khoảng 400 triệu đồng. “Ở nông thôn, đây là nghề bền vững chú ạ”, ông nói. Ổn định là thế, nhưng ông Tại chưa thỏa mãn và đang âm thầm phát triển việc nuôi gà Đông Tảo và lên cả kế hoạch nuôi đà điểu. “Làm cái này như một đam mê đấy. Mỗi lần nuôi thành công một con gì đấy, tôi vui lắm”, ông cụ 83 tuổi nói về dự định của mình sôi nổi như chàng trai mới đôi mươi.

Khi chúng tôi đề cập đến chuyện tuổi già, sức yếu, ông Tại tự hào nói: “Hàng ngày tôi thức dậy từ 5 giờ, làm đến 18 giờ mới thôi, nhưng 10 năm qua chưa đi viện lần nào”.

Nguồn: Báo Thanh niên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi giữ cá qua mùa đông

Tầm quan trọng

Đối với người nuôi cá, cá giống là yếu tố quan trọng trong sản xuất, nhất là tại các tỉnh miền Bắc bị ảnh hưởng bởi không khí lạnh và mùa đông kéo dài. Mùa đông đến, nhiệt độ xuống thấp, thậm chí một số tỉnh vùng núi phía Bắc nhiệt độ xuống 0°C gây khó khăn cho việc lưu giữ cá giống cho vụ nuôi năm sau.

Nhiệt độ thấp cũng ảnh hưởng đến khả năng thành thục và sinh sản của cá bố mẹ. Vì vậy, miền Bắc thường sản xuất giống muộn, ảnh hưởng không nhỏ đến thời vụ nuôi. Do vậy, việc lưu giữ được cá giống cho vụ sau là điều rất cần thiết.

Ngoài ra, sử dụng cá giống lưu qua đông sẽ tăng được thời gian nuôi cá, thu hoạch sớm hơn và cá bán được giá tốt hơn.

Những kỹ thuật cần lưu ý 

Chuẩn bị ao nuôi

Đối với ao cá giống và cá thương phẩm thì cần tránh dùng những ao bị ảnh hưởng trực tiếp hướng gió đông bắc.

Ao có bờ chắc chắn, không rò rỉ. Độ sâu mực nước 1,5 – 2 m, nguồn nước cấp vào ao phải sạch, không bị ô nhiễm.

Cải tạo ao: Trước mùa đông thường thu hoạch hết cá giống, cá thịt phân loại để lưu giữ và nuôi qua đông. Sau khi thu hoạch cần tát cạn nước ao, vét bớt bùn đáy, chỉ để lại một lớp bùn sâu 15 – 20 cm. Tu sửa bờ ao, cống. Xử lý ao bằng vôi bột, liều lượng 8 – 10 kg /100 m² ao. Sau đó, cấp nước vào ao từ 1,8 – 2,2 m.

Thả cá: Sau khi cải tạo ao xong, gây màu tạo nguồn thức ăn là động thực vật phù du đối với ao nuôi cá giống. Trước khi thả cá giống cần phân loại, đong đếm để tiện cho việc chăm sóc và quản lý sau này.

Với cá nuôi thương phẩm cũng phân loại kích cỡ, số lượng để tiện chăm sóc. Thả cá vào những ngày thời tiết nắng ấm.

Chăm sóc quản lý

Thời điểm trước khi đưa cá vào lưu giữ cần tăng cường dinh dưỡng cho cá để cá béo khỏe, có sức đề kháng với bệnh tật và có khả năng chịu đựng được thời tiết lạnh giá. Cho cá ăn đầy đủ thức ăn đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Đối với cá giống và cá thương phẩm trong thời gian lưu giữ, vẫn cho cá ăn vào lúc thời tiết ấm, 9 – 10h sáng hoặc 14h chiều.

Tăng cường kiểm tra, bổ sung dinh dưỡng cho cá để cá béo khỏe, có sức đề kháng với bệnh tật 

Lượng thức ăn bằng 1 – 1,5% trọng lượng cá trong ao. Thức ăn cần đảm bảo có hàm lượng đạm 18 – 22%. Có thể cho ăn bằng thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự phối chế với thành phần: bột cá 10% + bột đậu tương 20% + bột cám gạo 70%. Đối với cá trắm cỏ cho ăn thêm thức ăn xanh với lượng 20 – 25 kg/100 kg cá/ngày.

Khi cho ăn cần đảm bảo nghiêm túc yêu cầu 4 định: định chất lượng, số lượng, thời gian, địa điểm. Bổ sung thuốc, chất dinh dưỡng vào thức ăn để phòng các bệnh và tăng khả năng chống rét cho cá như tỏi, Vitamin C.

Khi nhiệt độ nước thấp, cá dễ bị mắc bệnh nấm thủy mi. Vì vậy, khi nuôi cá trong ao nên hạn chế đánh bắt, giữ mực nước ổn định 1,5 – 2 m.

Chú ý: Không dùng phân hữu cơ bón trực tiếp xuống ao để tránh các mầm bệnh phát triển gây bệnh cho cá nuôi. Định kỳ, hàng tháng xử lý môi trường ao nuôi khoảng 2 lần, bằng vôi bột hòa nước té đều khắp ao với lượng 2 – 3 kg/100 m³ nước. Hằng ngày kiểm tra hoạt động của cá, khả năng sử dụng thức ăn, môi trường ao nuôi và tình hình dịch bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời.

Kỹ thuật chống rét

Đối với cá giống: Khi thời tiết lạnh giá kéo dài nhiệt độ nước xuống dưới 8 -14ºC nên dừng cho cá ăn, chủ động nâng cao mực nước từ 1,5 – 2 m. Có thể thả bèo tây, rau muống phủ kín 1/3 (hoặc 2/3) diện tích mặt ao. Dùng rơm, rạ cuộn thành từng bó cho xuống các góc ao để cá trú rét. Với ao nhỏ có thể dùng nylon phủ trên ao, tạo thành ngôi nhà chống rét cho cá giống.

Vào thời điểm nhiệt độ trên 18ºC, tập trung cho cá ăn thức ăn tinh giàu đạm để tăng cường khả năng chịu rét cho cá. Trong suốt thời gian trú đông không được dùng lưới kéo cá để kiểm tra, đánh bắt tránh cá bị xây xát dẫn đến nhiễm bệnh và chết. Sau khi hết rét, cần cho cá ăn tích cực đảm bảo đủ chất lượng, số lượng để cá sinh trưởng và phát triển tốt.

Đối với cá thịt: Sau khi tiến hành thu hoạch, cần tuyển chọn lại cá (cá chim trắng, rô phi, trắm cỏ…) chưa đủ cỡ thu hoạch để tiến hành chống rét và nuôi lớn tiếp để bán vào thời điểm sau tết âm lịch hoặc đầu năm.

Cần chọn ao có diện tích khoảng 300 – 1.000 m², độ sâu 1,2 – 1,5 m, kín gió. Sau khi thả cá vào, tiếp tục cho ăn bằng thức ăn công nghiệp, thức ăn tinh vào những ngày ấm để cá tăng khả năng chịu rét. Dùng sọt đựng rơm thả xuống đáy ao để cá chui vào trú đông. Trên mặt ao thả bèo kín 1/2 ao về phía bắc, nếu có điều kiện có thể dùng nilon phủ kín mặt ao.

Tăng cường bổ sung dinh dưỡng, thức ăn có độ đạm cao để giúp cá chống rét tốt hơn.

Phòng và trị một số loại bệnh

Bệnh ngoại kí sinh: Cá bị bệnh, màu sắc cá trở nên nhạt, cá thích tập trung ở nơi có đường nước chảy vào. Bệnh xuất hiện khi mật độ nuôi dầy, điều kiện vệ sinh kém, mưa kéo dài thời tiết lạnh.

Phòng, trị bệnh: Thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao bị ô nhiễm, dùng formol tạt đều khắp ao với nồng độ 20 – 25 ml/m³.

Bệnh đốm đỏ: Thân và vùng bụng bị xuất huyết, vảy dựng lên, các gốc vây xuất huyết và ứ nước vàng. Bụng cá trương to chứa dịch và đỏ bầm, cá bơi lội lờ đờ chậm chạp, ít ăn hoặc bỏ ăn.

Phòng bệnh: Không nuôi mật độ quá dày, cho ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng, môi trường ao nuôi luôn giữ ổn định và sạch sẽ. Định kỳ 15 ngày tạt vôi bột CaCO3 với lượng 3 kg/1.000 m³ (vôi hoà tan trong nước tạt đều khắp ao).

Trị bệnh: Sử dụng kháng sinh Neomycine 4g/100 kg cá bệnh và Vitamin C, liều lượng 3g/100 kg cá bệnh, thuốc được trộn vào thức ăn, cho ăn liên tục 5 – 7 ngày.

Bệnh nấm thủy mi: Khi nấm mới ký sinh, mắt thường khó nhìn thấy, phần cuối của sợi nấm đâm sâu vào thịt cá, phần đầu của sợi nấm lơ lửng trong nước. Khi bệnh phát triển nhiều xuất hiện những đám bông màu trắng, gây cho cá ngứa ngáy, cá thường tập trung ở những nơi có nước chảy.

Phòng bệnh: Luôn giữ môi trường sống thuận lợi cho cá, nhất là vào những lúc trời lạnh, không để cá suy dinh dưỡng (thiếu ăn), không nuôi mật độ quá dày hoặc làm cá xây xát.

Trị bệnh: Dùng thuốc tím (KMnO4) tạt đều xuống ao liều 3 – 5 g/m³ nước, hoặc dùng muối ăn tắm cho cá trong 15 phút.

Chú ý: Đối với một số vật nuôi khác như lươn, ếch cũng cần phải có biện pháp chống rét: Che kín bể nuôi bằng bạt nilon, lá dừa… Mặt ao, bể nuôi thả bèo tây chiếm 2/3 diện tích về phía hướng gió. Dùng lá dừa khô tạo thành những ụ ở những chỗ ếch thường nằm để ếch vào tránh rét. Lươn, ếch phải được chăm sóc kỹ, cho ăn bình thường, bổ sung thêm Vitamin C vào khẩu phần ăn giúp ếch tăng sức đề kháng. Vào những ngày nắng ấm hoặc buổi trưa trời nắng cần cho vật nuôi ăn đầy đủ. Lượng cho ăn phải tùy thuộc vào sức ăn mà tăng hoặc giảm để lươn, ếch khỏe mạnh, có khả năng chống rét.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Lá chuối và lá ngô giúp bảo vệ da cá

Việc bổ sung thêm chất bổ sung lá chuối và ngô không có tác dụng làm tăng hiệu quả tăng trưởng của cá nhưng lại có tác dụng bảo vệ biểu bì của da cá chống lại tác nhân gây bệnh Aeromonas hydrophila.

Bổ sung lá chuối (Musa nana) và lá ngô (Zea mays) vào thức ăn giúp bảo vệ da cá
Cơ sở khoa học

Hiện nay, các chủng vi khuẩn Aeromonas hydrophila đang gây bệnh trên khắp mọi nơi có liên quan đến ở viêm loét da cá, đặc biệt trong điều kiện căng thẳng. Nó có thể gây tổn thất nghiêm trọng đối với nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và đặc biệt phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Lá tươi từ ngô và chuối đã được các nông dân nuôi cá ở Việt Nam sử dụng làm thức ăn bổ sung và người ta đã báo cáo rằng họ có thể có lợi ích phòng bệnh từ nguồn gốc thực vật.

Trong nghiên cứu này, một thử nghiệm cho ăn được tiến hành để đánh giá các lợi ích của việc cung cấp ngô và lá chuối như là thức ăn bổ sung: để xác định xem chúng đã tác động như thế nào đối với hệ thống miễn dịch và tiêu hóa bởi cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella), nếu sự hấp thu này dẫn đến hiệu suất tăng trưởng tốt hơn, và nếu bổ sung lá có thể bảo vệ cá khi gây nhiễm thực nghiệm với vi khuẩn A. hydrophila bằng phương pháp tiêm thì đây là một nguyên liệu hết sức gần gũi với người nông dân.

Kết quả

Kết quả tất cả cá đều được cho ăn một tỷ lệ giống nhau về thức ăn viên thương phẩm có liên quan đến sinh khối. Tuy nhiên, 12/18 bể cá có khẩu phần này được bổ sung bằng lá chuối tươi hoặc lá ngô tươi cho thấy việc bổ sung lá làm tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tổng thể (FCR).

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm cá không có ý nghĩa thống kê (P<0,005). Những thay đổi đối với thành phần đồng vị của cá thể hiện sự hấp thu dinh dưỡng của lá. Tác dụng bảo vệ cá bằng việc cho ăn lá chuối hoặc lá ngô được phát hiện chống lại nhiễm trùng với A. hydrophila nhưng cao hơn không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng, và khẩu phần ăn không làm thay đổi hematocrit cá.

Tuy nhiên, việc bổ sung lá ngô làm giảm đáng kể mức độ tổn thương của da ở cá, dấu hiệu lỡ loét cũng được quan sát có dấu hiệu giảm rõ rệt, có thể cải thiện giá trị thương phẩm thị trường của cá.

Kết luận

Việc bổ sung thêm chất bổ sung lá chuối và ngô không có tác dụng làm tăng hiệu quả tăng trưởng của cá nhưng lại có tác dụng bảo vệ biểu bì của da cá chống lại tác nhân gây bệnh Aeromonas hydrophila.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nơi duy nhất ở Việt Nam sở hữu đàn cá song vua bố mẹ

Cùng với sự bứt phá mạnh mẽ của ngành thủy sản, nhiều giống hải sản có nguồn gốc từ tự nhiên đã và đang được nghiên cứu, từng bước chủ động nguồn giống bằng biện pháp sinh sản nhân tạo cũng như hoàn thiện về quy trình nuôi…

Trại lưu giữ giống cá biển bố mẹ của Trung tâm QG GHSMB

Trong đó, điển hình là loài cá song lai do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 nghiên cứu chọn tạo.

Triển vọng cá song

Nghề nuôi hải sản lồng bè ở các tỉnh Quảng Ninh – Hải Phòng trước đây đa số khởi phát từ nghề nuôi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ như hàu, ngao hoa, tu hài… Tuy nhiên, do những tác động suy thoái môi trường nước nên nghề nuôi lồng bè nhuyễn thể 2 mảnh vỏ ngày một thu hẹp, hiện chỉ còn phát triển được ở một số vịnh xa.

Tại Hải Phòng, khoảng 5-7 năm trở lại đây, các lồng bè chủ yếu đã chuyển sang nuôi các loại cá có giá trị kinh tế cao. Trong đó, cá song vẫn là đối tượng nuôi truyền thống và đã vươn lên là đối tượng nuôi chủ lực, thường xuyên chiếm từ 50-60% trong cơ cấu nuôi của người dân nhờ nhiều ưu thế về khả năng sinh trưởng và có giá trị cao.

Ở vùng nuôi hải sản lồng bè tập trung ở đảo Cát Bà (Hải Phòng), có rất nhiều giống cá song đang được chọn nuôi như cá song chấm nâu, cá song hổ, cá song chuột, cá song da báo, cá song chanh… Nếu như trước đây, cá song chấm nâu, song chuột, song hổ… từng là đối tượng nuôi chủ yếu thì khoảng 2-3 năm trở lại đây, cá song lai đang ngày càng khẳng định vị thế số một so với tất cả các đối tượng nuôi khác. Cá song nói chung có nhiều ưu điểm có thể nuôi được mật độ rất dày (tới 500 con thương phẩm/lồng), dễ tính, không đòi hỏi môi trường nước phải quá khắt khe. Tuy nhiên, để vừa có chất lượng tốt, lại sinh trưởng nhanh thì chỉ có cá song lai.

Thạc sỹ Nguyễn Đức Tuấn, Phòng Nghiên cứu SX giống và Nuôi cá biển thuộc Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Bắc (Trung tâm QG GHSMB) cho biết, hiện Trung tâm đã gây dựng được đàn cá bố mẹ và chủ động được quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo cũng như nuôi đối với rất nhiều loài cá song.

Trong đó, một số giống cá song rất có giá trị như cá song hổ, cá song chấm nâu, đặc biệt là cá song chuột có giá bán trên thị trường rất cao, có thời điểm lên tới 900.000 – 1.200.000 đ/kg. Song chuột có chất lượng thịt thơm ngon đặc biệt, lại sở hữu một số axit amin quý mà con người không thể tổng hợp được nên các thị trường như Hồng Kông, Trung Quốc và một số thị trường cao cấp tại Hà Nội và TP.HCM hết sức ưa chuộng. Tuy nhiên, song chuột nói riêng cũng như các loài cá song giống thuần truyền thống như song hổ, song chấm có nhược điểm là sinh trưởng quá chậm, bình quân chỉ khoảng 700-800 g/năm, trong khi hệ số tiêu tốn thức ăn lại khá lớn (từ 6-7kg/kg tăng trọng).


Tắm xử lí nấm bệnh, ký sinh trùng cho đàn cá sống mẹ.

Làm thế nào để vừa có được giống cá song chất lượng cao như song chuột, lại có thể nhanh lớn là bài toán mà các nhà chọn tạo giống hải sản đã đặt ra hàng chục năm về trước. Thạc sỹ Nguyễn Đức Tuấn cho biết, mặc dù không có đề tài lai tạo giống cá song lai được phê duyệt, tuy nhiên suốt từ năm 2008 đến nay, các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc đã âm thầm thực hiện, và đến nay đã thành công ngoài mong đợi. Theo đó, cá song lai ra đời là sự kết hợp rất bất ngờ giữa con mẹ là loài cá song hổ truyền thống và bố là loài cá song vua – một loài cá được mệnh danh là “vua của các loài cá song”.

Cá song vua giống

Ngoài tự nhiên, cá song vua đã từng được ghi nhận với trọng lượng lên tới 500-600 kg, ngư dân Việt Nam cũng đã đánh bắt được những con cá song vua nặng từ 50-60kg tới hàng tạ. Trong chiến lược nghiên cứu loài cá song khổng lồ này, từ năm 2000 – 2003, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 đã cho NK một số cá thể giống cá song vua từ Đài Loan và chuyển đổi thành công sang giới tính đực.

Bên cạnh cá song lai, Trung tâm QG GHSMB cũng có thể SX được giống cá song vua (thuần chủng). Cá song vua lớn rất nhanh, mỗi năm có thể tăng trọng hàng chục kilogam, cá nuôi từ có chất lượng rất tốt, được thị trường Trung Quốc rất ưa chuộng. Tuy nhiên, cá chỉ có thể thu hoạch thương phẩm từ kích cỡ 25 kg/con trở lên, tương đương thời gian nuôi 2,5 đến 3 năm, trong khi chi phí SX khá lớn nên đòi hỏi người nuôi phải trường vốn. Vì vậy, cá song vua hiện được nuôi rất ít, chỉ thả xen lác đác ở một số bè.

Những năm sau đó, một số cá thể cá song vua khác do ngư dân các tỉnh của nước ta đánh bắt được cũng đã được sưu tập về nuôi dưỡng ở trại giống cá bố mẹ tại vịnh Lan Hạ (thuộc Trung tâm QG GHSMB, đảo Cát Bà). Đến nay, trại giống ở Cát Bà của Trung tâm QG GHSMB là nơi duy nhất ở Việt Nam đã sở hữu được đàn cá song vua bố mẹ với tổng số khoảng 100 con, trong đó có khoảng 20 con cá song vua đực, con lớn nhất ước nặng tới 120kg.

Vua cá song “sang chảnh”

Những con cá song vua đực ở đây to lớn sồ sồ tới hàng tạ, con bé cũng 50-60kg, mỗi con phải nuôi riêng ở mỗi ô lồng với chế độ chăm sóc đặc biệt.

Chúng chỉ tha thẩn trong lồng, tới đúng giờ ăn mới nổi lên. Do được chăm bẵm từ bé nên chúng rất “sang chảnh”, thức ăn phải là cá nục cỡ lớn 300 – 500 g/con, và phải là cá nục tươi, hễ gặp thức ăn hơi ươn một chút thôi chúng đã đánh được hơi, ngậm vào rồi nhè ra ngay.

Môi trường nước xung quanh ô lồng cũng phải thật yên tĩnh, người lạ phải hết sức hạn chế ghé thăm nơi ở của nó để tránh làm kinh động. Cá song vua đực đã từng được thử nghiệm cho lai tạo với cá song cái thuộc nhiều loài khác nhau, nhưng chỉ có sự kết hợp giữa song vua đực và song hổ cái mới cho ra thế hệ cá song lai F1 có khả năng thành công cao, đặc tính sinh trưởng và chất lượng tốt hơn cả.

Về kỹ thuật lai, kỹ sư Phạm Văn Thìn, Trưởng phòng Bảo tồn, lưu giữ giống gốc và nguồn gen hải sản (Trung tâm QG GHSMB), người đã gắn bó với đàn cá song vua từ gần chục năm nay cho biết: Thông thường, cá song vua đực có từ 7 năm tuổi trở đi mới có thể lấy tinh để SX cá song lai F1. Cá song vua đực có kích cỡ lớn hàng tạ, trong khi cá song hổ cái chỉ khoảng 7-8 kg, lại khác nhau về đặc tính sinh sản nên muốn lai tạo, phải áp dụng biện pháp can thiệp bằng kích dục tố.

Mùa sinh sản của cá song thường từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm. Đến kỳ sinh sản, những con cá song vua bố được cáng lên bởi cáng chuyên dụng với 2 người lực lưỡng mới xuể, sau đó chúng sẽ được vuốt tinh trùng. Mỗi lần vuốt tinh, mỗi con có thể cho ra tới 300-350 ml tinh trùng. Con cá song mẹ là song vua dù chỉ nặng 7-8kg nhưng cũng có khả năng vuốt được tới hàng kilogam trứng.

cá song vua, nơi lưu trữ giống cá, giống cá song vua, cá giống
Một con cá song vua đực được đưa lên cáng chuẩn bị đi vuốt tinh. Ảnh: Quỳnh Trang

Trứng và tinh trùng sẽ được trộn lẫn với nhau, sau đó đưa ra bể ươm với nhiệt độ phải đảm bảo từ 28-30 độ C, trong vòng 20-24h sau khi thụ tinh, trứng sẽ nở ra cá bột. Cá bột nuôi thêm khoảng 2 tháng sẽ trở thành cá song lai giống F1, có thể đưa ra ô lồng để nuôi thương phẩm.

Cá song lai F1 ra đời có sự hội tụ những đặc tính ưu việt của cả bố và mẹ của chúng: Vừa lớn nhanh, vừa có chất lượng thịt thơm ngon nên giá cũng khá cao. Song lai trung bình nuôi 2 năm có thể xuất bán với trọng lượng từ 2,5 đến 3 kg/con, giá dao động từ 200-220 nghìn đồng/kg, lại ít hao hụt và bị bệnh trong quá trình nuôi nên hệ số lợi nhuận có thể lên tới 40%. Với những ưu thế đó mà chỉ sau 3-4 năm có mặt, cá song lai được mở rộng rất nhanh ở hầu hết các vùng nuôi hải sản lồng bè khắp các tỉnh phía Bắc, nhất là các tỉnh ven biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình…

Tại vùng nuôi hải sản lồng bè tập trung ở đảo Cát Bà (Hải Phòng), cá song lai chỉ mới bung ra mạnh nhất trong 2 năm gần đây nhưng hiện đã chiếm cơ cấu tới 40-50% trong tổng đàn nuôi và ngày càng tăng mạnh.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.