Tôm Hùm giống tăng giá

Nếu vào thời điểm trước Tết Nguyên đán Mậu Tuất giá tôm hùm giống ở Bình Định chỉ có 220 ngàn đồng/con tôm sao thì hiện đã tăng đến 260 ngàn đồng/con. Tuy nhiên, đang vào cuối mùa nên sản lượng đánh bắt giảm mạnh.

Tôm hùm tăng giá do vào cuối mùa sản lượng khai thác ít.

Ngư dân Huỳnh Văn Sỹ (43 tuổi), chủ tàu cá BĐ 01187 TS chuyên đánh bắt tôm hùm giống ở thôn Hải Nam, xã Nhơn Hải (TP Quy Nhơn) cho biết, thời điểm trước tết tôm hùm giống chỉ xuất hiện nhiều do biển động mạnh. Những con thuyền đánh mành lớn ở xã Nhơn Hải sau một đêm ra khơi đánh bắt được từ 40 – 60 con tôm hùm giống cả tôm sao lẫn tôm xanh, cá biệt có thuyền đánh bắt được trên 100 con. Đặc biệt năm nay tôm sao là loại tôm có giá trị kinh tế cao xuất hiện nhiều nên ngư dân có thu nhập khá.

Cả ở xã Nhơn Lý (TP Quy Nhơn) vào thời điểm trước tết ngư dân cũng trúng đậm tôm hùm giống. Ông Nguyễn Xuân Thọ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Nhơn Lý cho biết: “Từ đầu vụ đến trước tết, ngư dân trong xã khai thác được 7.000 con tôm sao, trị giá trên 1,4 tỉ đồng”.

Tương tự, ngư dân xã Cát Tiến (huyện Phù Cát) cũng đã khai thác được khoảng 3.000 con tôm sao, 20.000 con tôm xanh.

Do sản lượng đánh bắt cao, sức mua lại yếu đi do các vùng nuôi tôm hùm trọng điểm ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa bị “vỡ trận” do cơn bão số 12 xảy ra vào cuối năm 2017 vừa qua, nên năm nay giá tôm hùm giống ở Bình Định vào thời điểm trước tết bị mất giá đến hơn 100.000 đồng/con.

Theo ngư dân Huỳnh Văn Sỹ, nếu cùng kỳ năm trước giá tôm sao bán được 320.000 đồng/con thì thời điểm trước tết chỉ có 220.000 đồng/con; còn tôm hùm xanh năm trước có lúc bán được 70.000 đồng/con thì năm nay chỉ có giá 25.000 đồng/con.

“Năm nay ngoài nguyên nhân tôm hùm giống được mùa mất giá đã đành, thời gian gần đây tôm hùm giống nhập về từ Malaysia, Indonesia và Philippines cũng nhiều, do đó càng kéo giá tôm hùm giống tuột thấp. Nhiều ngư dân Việt Nam sang định cư các nước nói trên cũng đánh bắt tôm hùm giống, đánh bắt xong họ nuôi ủ đến khi tôm to bằng ngón tay mới đưa về Việt Nam bằng được hàng không bán với giá rẻ hơn tôm của ngư dân mình vừa đánh bắt từ biển về từ 40.000 – 60.000 đồng/con”, ngư dân Huỳnh Văn Sỹ cho biết.

Nguồn: Báo Nông Nghiệp kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thủy sản thời 4.0

Nhờ bắt kịp xu thế và áp dụng những công nghệ thông minh trong thời đại nông nghiệp 4.0 mà ngành nuôi trồng thủy sản đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Dưới đây là một số ứng dụng thông minh đang mang lại những hiệu quả thiết thực, mở ra nhiều triển vọng cho ngành thủy sản.

Công nghệ điện hóa – siêu âm

Tác giả của công nghệ này là TS Lê Quang Tiến Dũng và cộng sự thuộc bộ môn Vật lý chất rắn – Khoa Vật lý, Trường ĐH Khoa học Huế. Với ưu điểm không phải sử dụng bất cứ hóa chất nào khác trong quá trình nuôi, đây là giải pháp được trao giải Ba Giải thưởng Khoa học công nghệ Việt Nam năm 2016. Công nghệ đã được ứng dụng thành công ở các tỉnh ĐBSCL như Đồng Tháp, Kiên Giang, Cà Mau… giúp giải được bài toán lớn về xử lý các chất dư thừa đọng lại dưới đáy ao nuôi. Thiết bị xử lý nước trong hồ tôm dựa trên nguyên lý chuyển hóa mật độ bọt khí của dung dịch điện hóa thành vi bọt khí. Dung dịch vi bọt khí được điều chế bằng phương pháp điện hóa – siêu âm đã tăng hiệu suất diệt khuẩn mà không cần đến bất kỳ một loại hóa chất diệt khuẩn, kháng sinh nào và cũng không cần thay nước trong suốt vụ nuôi. Bằng cách cho nổ tung bọt khí sau điện hóa sử dụng siêu âm công suất, dung dịch vi bọt khí đã đem lại chìa khóa thành công cho nuôi tôm thâm canh vì đã cùng lúc xử lý đạm hóa tan trong suốt vụ nuôi, xử lý khuẩn, xử lý tảo và làm giàu ôxy cho nước ao nuôi. Cụ thể, khi sử dụng dung dịch vi bọt khí được điều chế từ siêu âm – điện hóa kết hợp khảo sát theo nồng độ muối NaCl với điện áp cố định 4V, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. đạt 77,7% nồng độ NaCl 5 g/l. Với nồng độ NaCl 20 g/l, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. đạt 100% với tỷ lệ dung dịch vi bọt khí: khuẩn (1:1). Dung dịch vi bọt khí có khả năng phân hủy xanh methylene và xử lý khuẩn Vibrio spp. tốt hơn so với khi sử dụng dung dịch anolyte được điều chế từ bộ điện hóa.

Công nghệ giúp giảm chi phí rất lớn về xử lý nước trong quá trình nuôi, chỉ tiêu tốn khoảng 700 đồng/m3 so với 2.000 đồng/m3 khi sử dụng các hóa chất để xử lý. Nâng tỷ lệ thành công các vụ nuôi trồng thủy sản rất lớn cho các hộ nuôi so với trước đây. Đến nay, công nghệ đã được Trường ĐH Khoa học Huế kết hợp với Công ty Huetronics tiến hành triển khai chế tạo và thương mại hóa thiết bị xử lý nước sử dụng điện hóa – siêu âm với công suất lớn, cấp nước vào ao hoặc tuần hoàn trong suốt vụ nuôi mà không dùng bất kỳ sản phẩm diệt khuẩn truyền thống nào.

Thiết bị XpertCount2

Thiết bị được sản xuất bởi XpertSea Solutions, một nhà sản xuất hàng đầu các sản phẩm công nghệ tin học phần cứng và phần mềm của ngành thủy sản có trụ sở tại Canada. Hiện, thiết bị đang được phân phối tại Việt Nam bởi Công ty Vinhthinh Biostadt. Đây là một thiết bị di động thông minh dùng để kiểm tra và đánh giá nhanh chất lượng các loài thủy sinh về: số lượng, kích cỡ (chiều dài) và độ phân đàn (CV). Sử dụng công nghệ quang học tiên tiến an toàn cho tất cả sinh vật, XperCount2 giúp người sử dụng đếm hàng nghìn sinh vật, từ các tế bào vi tảo, ấu trùng đến các hậu ấu trùng chỉ trong vài phút. Mọi dữ liệu từ thiết bị XperCount2 đều được tổng hợp vào một báo cáo kiểm soát chất lượng dựa trên công nghệ đám mây dễ sử dụng, có thể được tải về và chia sẻ giữa ban quản lý cơ sở tôm giống và khách hàng. XperCount2 hoạt động như một chiếc máy tính được hỗ trợ thêm bởi 2 camera và bộ cảm biến nên có độ chính xác vượt trội lên đến 95% đối với tất cả ứng dụng cập nhật mỗi 2 tuần. Có khoảng cách kích thước hoàn thiện từ 1 micromet đối với vi tảo cho đến lớn hơn như ấu trùng tôm hay tôm post. Máy vận hành bằng pin, sử dụng liên tục 6 – 8 giờ, gọn nhẹ (khoảng 4 kg), dễ thao tác, sử dụng màn hình cảm ứng và hệ thống wifi nên vừa có tính cơ động cao, nhưng cũng dễ dàng sử dụng trong mọi lúc, mọi nơi. Máy có khả năng báo cáo và phân tích chuyên sâu cho 100% hoạt động truy xuất và mở rộng sản xuất. Kết quả các mẫu kiểm tra sẽ được tự động gửi về cho khách hàng và khách hàng có thể truy cập từ bất kỳ trình duyệt nào để xem dữ liệu.

Hệ thống RAS

Mặc dù đã được nhắc đến nhiều, nhưng không thể phủ nhận rằng hệ thống lọc tuần hoàn (RAS) cho đến nay vẫn được xem là hệ thống nuôi trồng thủy sản thông minh và mang lại hiệu quả đối với người nuôi nhất tại nhiều nước trên thế giới. Với ưu điểm là tiết kiệm nước, tỷ lệ sống cao, năng suất cao gấp nhiều lần nuôi bình thường (trên 100 kg/m3), chất lượng cá nuôi được đảm bảo và không gây ô nhiễm môi trường. RAS bao gồm một dây chuyền các quá trình bổ sung, cho phép lượng nước thải được tái sử dụng cho các bể nuôi. Trong suốt quá trình nuôi, nước sẽ tuần hoàn trong một hệ thống kín và hoàn toàn không thay nước, chỉ một lượng nhỏ nước mới được cấp thêm vào hệ thống để bù đắp cho lượng nước hao hụt do bốc hơi. Sau khi hệ thống được vận hành, kiểm tra thông số môi trường (DO, pH, NH3, NO2…) và nhiệt độ, sau đó có thể thả cá vào bể nuôi. Thông thường cá được thả vào bể phải có mật độ cao (100 – 200 con/m3), hàng tuần định kỳ kiểm tra thông số môi trường để điều chỉnh thích hợp. Hệ thống lọc phải được vận hành liên tục suốt vụ nuôi (3 – 5 tháng), hệ thống sục khí phải được duy trì hằng ngày. Sau khi vận hành hệ thống lọc tuần hoàn 3 ngày trở lên thì thả cá giống vào bể và cho ăn bằng thức ăn công nghiệp, lượng thức ăn được điều chỉnh theo sức ăn của cá.

Hiện, RAS được cải tiến, áp dụng chủ yếu trong các trại sản xuất tôm giống ở các tỉnh ĐSBCL.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thời của nuôi trồng hiện đại

Thời gian qua, việc áp dụng những hình thức mới vào nuôi trồng thủy sản đã cho kết quả tích cực về năng suất cũng như chất lượng sản phẩm. Hãy cùng Thủy sản Việt Nam “điểm danh” lại những mô hình này.

Tôm giống chất lượng cao

Nuôi tôm hai giai đoạn

Với quy trình này, trong giai đoạn đầu, tôm được nuôi trong nhà lưới 20 – 30 ngày nhằm tránh tác động của thời tiết và các yếu tố khác từ bên ngoài. Thời điểm này, người nuôi cần kiểm soát chặt chẽ tôm giống, thức ăn, chế phẩm sinh học để ngăn ngừa hội chứng chết sớm (thường xảy ra trong 20 ngày đầu của quá trình nuôi). Tôm giống được thả với mật độ 1.000 – 3.000 con/m2. Khi tôm có trọng lượng 1,5 – 2 g/con sẽ được chuyển sang nuôi giai đoạn 2 ở ao liền kề, mật độ 200 – 300 con/m2, cho đến khi đạt cỡ 40 – 60 con/kg. Tổng thời gian nuôi là 80 – 100 ngày. Quá trình nuôi không sử dụng hóa chất, chỉ sử dụng chế phẩm sinh học; không phải thay nước hoặc thay rất ít; sử dụng các thiết bị hiện đại như: máy cho ăn tự động, máy sục ôxy đáy, quạt nhím. Quy trình này tái sử dụng chất thải của tôm thành hạt biofloc làm thức ăn cho tôm. Hệ số chuyển đổi thức ăn thấp, thời gian nuôi ngắn nên giảm 10 – 20% chi phí so các mô hình nuôi tôm khác.

Nuôi tôm bằng công nghệ vi sinh

Giai đoạn một, thực hiện cải tạo ao như thông thường. Cấp nước và diệt khuẩn với các sản phẩm không độc cho tôm như Iodine, chỉ diệt khuẩn bằng Chlorine khi cần thiết với những ao nuôi mà vụ trước bị bệnh hoặc ao nuôi nằm trong vùng có dịch bệnh. Đối với những ao nuôi khó gây màu nước có thể sử dụng chế phẩm vi sinh và gia tăng hàm lượng vi sinh có lợi trong ao nuôi. Kiểm tra thành phần vi sinh trong ao khi đạt yêu cầu thì tiến hành thả giống.

Giai đoạn hai, dùng chế phẩm vi sinh xử lý môi trường định kỳ trong suốt vụ nuôi nhằm ổn định một số vi khuẩn có lợi trong ao. Trộn chế phẩm vi sinh vào thức ăn giúp phòng trị các bệnh về đường ruột của tôm.

Giai đoạn ba, sau khi thu hoạch sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường.

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại chế phẩm vi sinh với nhiều thương hiệu khác nhau; tuy nhiên, chế phẩm vi sinh được dùng phổ biến nhất và có hiệu quả cao là chế phẩm EM. Cạnh đó, người nuôi có thể tự sản xuất bằng sử dụng 1 gói vi sinh EM gốc kết hợp 5 kg mật đường cùng với 500 ml nước, tiến hành ủ ít nhất 4 – 10 giờ, sau đó có thể sử dụng tạt xuống ao.

Nuôi tôm theo CPF-Combine Program

Nhằm giúp người nuôi tôm vượt qua khó khăn, Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam đã triển khai mô hình CPF-Combine Program bao gồm: CPF-Green House, CPF-Turbo Program và chương trình 3C. CPF-Green House là mô hình nuôi tôm trong nhà ương (25 – 30 ngày), sau đó tôm được đưa ra các ao nuôi thương phẩm nhằm mục đích hạn chế được các dịch bệnh, tăng sức đề kháng cho tôm, giảm chi phí, tăng vụ nuôi. Ao CPF-Green House diện tích từ 500 m2 trở lại. Đây là hệ thống ao nuôi an toàn sinh học có đầy đủ lưới lan, ao có lót bạt, có hố xi phông… và quản lý môi trường ao nuôi bằng chế phẩm sinh học. Ao CPF-Turbo Program diện tích không quá 2.000 m2, thuận lợi cho việc quản lý, đồng thời phải có thêm hệ thống ao lắng, ao xử lý, ao sẵn sàng. Còn chương trình ba sạch là: Tôm giống sạch bệnh, nước sạch và đáy ao sạch. Khi thực hiện mô hình CPF-Turbo Program, người nuôi phải làm hệ thống an toàn sinh học; các trang trại phải dành 30% diện tích làm ao xử lý nước, có hệ thống lưới ngăn chim và các động vật khác xâm nhập. Hiện, mô hình này được C.P triển khai rất hiệu quả ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Như theo chị Trần Thị Bàng, hộ nuôi tôm thẻ chân trắng (xã Tam Thôn Hiệp, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh), áp dụng mô hình này chi phí đầu tư khoảng 2 tỷ đồng/ha, tỷ lệ thành công lên đến 90%, năng suất tôm trên 30 tấn/ha, mỗi năm sản xuất 4 vụ.

Nuôi cá “sông trong ao” (IPA)

Do ông Jess Chappell (Mỹ) sáng tạo là một công nghệ nuôi trồng thủy sản mới cho hiệu quả cao, giảm tiêu hao năng lượng và bảo vệ tốt cho môi trường nuôi, tránh dịch bệnh. Hiện nay, một số tỉnh như Nghệ An, Hưng Yên, Hải Dương… đã áp dụng và cho kết quả tốt, có thể nhân rộng. Hệ thống IPA tạo môi trường sông trong ao, chủ động nguồn nước, nước trong ao không cần thay mà có thể tuần hoàn, tránh lây lan mầm bệnh sang các trang trại khác và ra môi trường xung quanh. Công nghệ IPA đã giải quyết được các khó khăn của người nuôi là giảm tỷ lệ cá chết do ô nhiễm nguồn nước, nâng cao chất lượng thịt; đặc biệt cá được nuôi thả liên tục, thường xuyên chứ không cần phải chờ xử lý ao. Trong mô hình này, cá tập trung ở một phạm vi nhỏ (hệ thống IPA chỉ chiếm 1,5 – 2% diện tích ao) nên giảm đáng kể công lao động (cho ăn và thu hoạch) so với các hệ thống nuôi trong ao khác. Công nghệ IPA có điểm tối ưu là hệ thống máy nén đưa không khí nén qua máng độn dưới đáy ao, sau đó đẩy từ dưới lên mặt nước, giúp tạo ra dòng chảy và đẩy các khí độc khỏi đáy ao.

Công nghệ Na Uy nuôi cá lồng

So với lồng nuôi bằng gỗ truyền thống, hệ thống lồng bè bằng ống nhựa HDPE (công nghệ Na Uy) có nhiều tính năng vượt trội, được xem là mô hình phù hợp với biến đổi khí hậu. Thể tích mỗi lồng nuôi 1.200 – 2.400 m3, kết nối với nhau và với neo giàn, mỗi neo nặng 3 – 4 tấn, chịu được bão gió cấp 12. Hệ thống cho phép nuôi ở những vùng biển xa bờ nơi mà môi trường nước trong sạch, giúp hạn chế nguy cơ ô nhiễm và dịch bệnh; kiểm soát được chất lượng ATTP; tránh xung đột với các lợi ích khác như giao thông vận tải, du lịch ở những vùng vịnh kín sóng gió (Nguyễn Quang Huy, 2016). Ngoài ra, loại lồng này còn chịu được thời tiết khắc nghiệt trên biển, khung lồng bằng ống nhựa có tuổi thọ trên 35 năm, độ an toàn nuôi trên 20 năm.

Việc ứng dụng công nghệ Na Uy cho kết quả khả quan qua mô hình của Viện Nghiên cứu NTTS I thực hiện tại vịnh Vân Phong, Khánh Hòa. Mô hình có thể sản xuất được 100 – 200 tấn cá/năm (cá chim, cá giò, cá vược…) với năng suất nuôi 8 – 12 kg/m3. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí đầu tư cao hơn so mô hình nuôi nhỏ lẻ.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tôm nguyên con của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào Úc

Tôm nguyên con của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào thị trường Australia là nội dung quan trọng trong buổi làm việc giữa Đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Tài Nguyên Australia với UBND tỉnh Bạc Liêu.

Tôm nguyên con của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào Úc

Đại diện đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Tài Nguyên Australia đánh giá rất cao về những bước tiến mới của ngành thủy sản Việt Nam nói chung và ngành tôm nói riêng. Đặc biệt, tại Bạc Liêu – thủ phủ tôm cả nước, có rất nhiều trang trại tôm công nghệ cao với các quy trình, thiết bị hiện đại bậc nhất thế giới để nuôi tôm sạch, đảm bảo các vấn đề về môi trường, an sinh xã hội.

Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam có thể xuất khẩu tôm nguyên con vào thị trường Australia. Vì yếu tố an toàn dịch bệnh, đến nay, thị trường này chưa cho phép nhập khẩu tôm nguyên con từ các nước. Dự kiến, sau chuyến khảo sát này, cơ quan nông nghiệp hai nước sẽ có buổi làm việc nhằm thúc đẩy hoạt động xuất – nhập khẩu mặt hàng tôm trong thời gian tới.

Nguồn: VTV được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đầu tư 226 tỷ đồng cho vùng nuôi tôm công nghệ cao Đồng Nai

UBND tỉnh Đồng Nai vừa có quyết định phê duyệt dự án Quy hoạch chi tiết khu nuôi thuỷ sản tập trung tại huyện Nhơn Trạch với tổng diện tích hơn 700 ha giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030.

Tổng chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu nuôi thuỷ sản tập trung là hơn 226 tỷ đồng; trong đó, nguồn vốn ngân sách Nhà nước là gần 1,1 tỷ đồng, còn lại sẽ sử dụng vốn của các thành phần kinh tế khác.

Theo đó, khu nuôi thuỷ sản tập trung được xây dựng tại huyện Nhơn Trạch với tổng diện tích hơn 700 ha; trong đó, khu nuôi tôm nước lợ tập trung 682 ha và khu nuôi hàu tập trung sẽ là 21 ha.

Theo UBND tỉnh Đồng Nai, dự án này được xây dựng nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản của huyện Nhơn Trạch phát triển theo hướng an toàn, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, góp phần tích cực trong việc nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.

Riêng đối với khu nuôi tôm nước lợ, mục tiêu của vùng quy hoạch là phấn đấu đưa sản lượng tôm đạt hơn 16.000 tấn vào năm 2030 sẽ đạt sản lượng hơn 30.000 tấn.

Đặc biệt, với việc quy hoạch mỗi tiểu vùng nuôi tôm có diện tích tối thiểu từ 50 ha trở lên, khu nuôi tôm tập trung cũng sẽ tạo điều kiện để hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn.

Từ đó, áp dụng các ứng dụng khoa học kỹ thuật như tổ chức nuôi tôm siêu thâm canh, nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất…

Đối với dự án này, UBND tỉnh Đồng Nai cho biết sẽ đầu tư theo hình thức Nhà nước sẽ lập quy hoạch chi tiết khu nuôi thuỷ sản.

Đồng thời, giao UBND huyện Nhơn Trạch là đơn vị đầu mối để khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư bằng hình thức thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tâng kinh doanh khai thác.

Những đối tượng được tham gia đầu tư bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đều được phép đầu tư vào khu nuôi theo đúng quy hoạch được duyệt và được hưởng các chế độ theo quy định hiện hành.

Theo UBND tỉnh Đồng Nai, dự án sẽ ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, các tiêu chuẩn mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất, sản lượng, tạo sản phẩm hàng hoá có chất lượng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm từ ao nuôi đến bàn ăn; tổ chức lại sản xuất và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, chú trọng công tác bảo vệ môi trường, thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thừa Thiên – Huế: Hiệu quả từ mô hình nuôi luân canh Tôm Sú – Rong Câu

Mô hình nuôi luân canh tôm sú – rong câu được xác định là hướng đi đúng, mang lại hiệu quả kinh tế trong điều kiện thời tiết ảnh hưởng biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

Lãi khá

Mới đây, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông lâm ngư tỉnh Thừa Thiên – Huế (TTKNLN) triển khai thực hiện mô hình “Nuôi luân canh tôm sú – rong câu trong ao nước lợ” nhằm góp phần đa dạng hóa phương thức nuôi, giải quyết vấn đề ô nhiễm trong quá trình nuôi chuyên tôm. Mô hình còn hướng đến tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, tăng nguồn nguyên liệu cho tiêu dùng và xuất khẩu. Qua một vài vụ nuôi, mô hình đã được khẳng định mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội như kỳ vọng.

Ông Đào Duy Trai ở xã Hải Dương (TX Hương Trà) phấn khởi: Trong khi nuôi chuyên tôm “chết lên chết xuống”, mô hình nuôi luân canh tôm sú-rong câu thật sự là cứu cánh cho người dân. Lãi tuy không bằng nuôi chuyên tôm, nhưng mô hình này ít rủi ro, ít ô nhiễm môi trường và bền vững. Hộ ông Trai được chính quyền địa phương lựa chọn hỗ trợ mô hình với diện tích 0,5 ha. Đối với tôm sú mật độ thả 15 con/m2 (cỡ giống p15); rong câu 0,5 cây/m2 (cỡ giống 10 – 15 cm). Đối với tôm, tỷ lệ sống bình quân đạt 64%, cỡ tôm thu hoạch 20 g/con, tổng sản lượng gần 1 tấn, lãi ròng 78,5 triệu đồng.

Trưởng phòng Kỹ thuật Thủy sản – TTKNLN – Nguyễn Thị Thu Giang cho biết, ngoài hộ ông Trai, TTKNLN còn hỗ trợ xây dựng thêm 3 mô hình thí điểm tại 3 hộ khác ở các xã Vinh Giang (Phú Lộc), Vinh Xuân (Phú Vang) và Quảng Công (Quảng Điền). Mỗi hộ được hỗ trợ nuôi 5.000 m2 với mật độ thả giống, kích cỡ tôm tương tự. Sau 5 – 6 tháng nuôi, sản lượng bình quân tại các hộ này đạt gần 1 tấn, lãi ròng trên dưới 50 triệu đồng.

Để mô hình bền vững

Cũng theo bà Nguyễn Thị Thu Giang, mô hình nuôi luân canh tôm sú – rong câu bước đầu thành công, mở ra nhiều cơ hội cho người dân trong đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững. Một ưu thế đối với mô hình này là kinh phí đầu tư không lớn so với nuôi chuyên tôm, với quy mô nuôi khoảng 5.000 m2 chỉ khoảng trên 50 triệu đồng… Trong khi nuôi tôm sú lợi nhuận khá, hiệu quả kinh tế rong câu mang lại còn thấp, nhưng có tác dụng làm ổn định các yếu tố môi trường, giảm thiểu đáng kể các chất gây hại nguồn nước trong ao nuôi…

Các vùng đầm phá trên địa bàn tỉnh có điều kiện thuận lợi về mặt nước, môi trường để nuôi thủy sản xen ghép, trong đó mô hình luân canh tôm sú – rong câu được xác định rất phù hợp. Để phát huy hiệu quả, khai thác tốt tiềm năng, sắp đến các cấp, ngành liên quan cần tiếp tục quan tâm, hỗ trợ thực hiện mô hình này với quy mô lớn hơn, nhân rộng nhiều địa phương khác nhằm xác định được tính khả thi của việc trồng rong câu thương phẩm trong ao nuôi tôm và cải thiện chất lượng nguồn nước ao nuôi. Từ đó thúc đẩy, khuyến khích người dân từng bước đổi mới phương thức nuôi trồng thủy sản bền vững, hạn chế rủi ro trong nuôi chuyên tôm sú như hiện nay.

Phó Giám đốc TTKNLN – Châu Ngọc Phi chia sẻ, nếu được đầu tư phát triển mô hình trình diễn, các ban ngành sẽ kết hợp chuyển giao, tập huấn kỹ thuật sản xuất cho người dân. Đây cũng là điều kiện để nhân rộng mô hình, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương.

Nguồn: Báo Thừa Thiên – Huế được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi Tôm kết hợp trồng Rong Câu

Có một vấn đề rất nan giải, mà bấy lâu nay đã làm “đau đầu” tất cả các nhà nuôi tôm-đó là chất thải và nước thải từ các ao nuôi gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây về ứng dụng một số loài rong câu (như Gracilaria spp, Gracilariales, Rhodophyta) trong xử lý môi trường nuôi tôm, được các nhà khoa học thủy sản tiến hành tại Viện Hải dương học Nha Trang, cho thấy vấn đề này đã có hướng giải quyết.

Các tác giả tiến hành phương pháp nuôi tôm thâm canh kết hợp trồng rong câu trong hệ tuần hoàn kín. Trong đó, sử dụng ao rong câu mật độ cao đóng vai trò bể lọc sinh học (để làm sạch nước thải).

Nghiên cứu dựa trên cơ sở ứng dụng các tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) với các yếu tố môi trường. Cụ thể ở đây là: rong câu tạo ra ôxy hòa tan-tôm tiêu thụ nó, rong câu tiêu thụ CO2 và các mối dinh dưỡng-do tôm sản sinh ra nó; rong câu làm giảm a xít trong môi trường nước-tôm làm tăng tính axít… Sự hoạt động cân bằng này cho phép giữ ổn định môi trường nuôi tôm.

Hệ thống ao nuôi kiểu mới này được bố trí, gồm: Ao lắng và tiệt trùng (chiếm 21% tổng diện tích cả hệ thống). Ao nuôi tôm (chiếm 62%). Ao trồng rong câu (hay còn gọi ao xử lý sinh học, chiếm 17%). Nước sử dụng cho quá trình nuôi được lấy vào cả ba ao ngay từ đầu và sử dụng chung cho cả vụ nuôi.

Với quy trình tuần hoàn vận hành như sau: Nước được khử trùng ngay trong ao lắng trước khi bơm vào ao nuôi tôm. Rồi nước thải từ ao nuôi tôm được bơm dần (mỗi lần khoảng 15-20%) sang ao trồng rong câu và lưu lại đây ba ngày. Sau đó, bơm trở lại ao lắng và tiến hành xử lý hóa học, xong cho lưu lại đây ba, bốn ngày. Tiếp đến, lại bơm vào ao nuôi tôm-bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Trong quá trình nuôi, có một lượng nước bị mất đi do thẩm thấu và bốc hơi sẽ được bổ sung từ nguồn nước bên ngoài vào. Bằng cách sử dụng nguồn nước như thế, sẽ hạn chế tối đa sự tiếp xúc hoặc trao đổi với nguồn nước bên ngoài, do đó hạn chế được những ảnh hưởng của trại nuôi tôm với môi trường chung quanh và ngược lại.

Mặc dù một số tính chất vật lý của nước như độ mặn, tăng dần theo các tháng trong vụ tôm (thay đổi từ 2,1% đến 3,5%) do nước bốc hơi. Nhưng cả tôm nuôi và rong câu đều cùng phát triển tốt, mà lại thêm nguồn lợi thu được từ rong câu khá lớn.

Trong hai tháng đầu vụ nuôi (từ tháng 2 đến tháng 4) mật độ rong câu trung bình 500g/m2, tốc độ tăng trưởng đạt 2,8%. Đến tháng thứ 3, rong đã có mật độ đạt 2kg/m2 và đã bắt đầu thu tỉa được với khối lượng 170-200g/m2. Từ tháng thứ 5 độ tăng trọng chỉ đạt 1,3%, nhưng đến khi thu hoạch tôm thì rong đã có sinh lượng tích lũy 4kg/m2. Sản lượng rong câu tươi trên một ha ao thí nghiệm đạt tới 6 tấn/tháng.

Hơn nữa, phương pháp nuôi tôm thâm canh kết hợp trồng rong câu trong hệ tuần hoàn khép kín kiểu này, đặc biệt có lợi cho môi trường. Kết quả thí nghiệm qua một vụ tôm đã cho thấy rõ, rong câu có tác dụng làm thay đổi đáng kể các chỉ số yếu tố môi trường nước đối với nguồn nước đi ra từ ao rong. Chỉ với một ao rong có diện tích bằng 17% tổng diện tích cả hệ thống ao nuôi kết hợp kể trên, thì với vai trò là bể lọc sinh học, nó đã cải thiện tốt chất lượng nước của ao nuôi tôm: Làm tăng 5% pH, tăng 49% ôxy, đồng thời làm giảm 60,3% nitơ vô cơ hòa tan, 38,1% phospho, 66% chlorophyll, 56% chất lơ lửng từ nguồn của ao nuôi tôm.

Theo tính toán của nhóm nghiên cứu, nuôi kết hợp tôm-rong câu không chỉ làm cho những thông số về chất lượng nước trong ao nuôi tôm tốt hơn, không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường chung quanh trại nuôi, mà còn làm giảm chi phí sản xuất. Giảm thiểu sử dụng chất và thuốc phòng trị bệnh cho tôm. Vì thế, sẽ có sản phẩm tôm thương phẩm sạch hơn, bảo đảm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Nghiên cứu này cần được khảo sát tiếp trong mùa mưa để kiểm tra về hiệu quả cải thiện chất lượng nước thải, xác định thời gian lưu giữ nước và độ sâu mực nước trong ao rong câu.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi kết hợp tôm hùm với bào ngư và xẹm xanh

Nghề nuôi tôm hùm phát triển nhanh và tập trung ở một số khu vực hẹp nên chất thải của hoạt động nuôi tích luỹ ngày càng nhiều gây tác động xấu đến môi trường. Để duy trì và phát triển nghề nuôi thuỷ sản theo hướng bền vững thì không còn con đường nào khác là phải hạn chế tối đa tác động xấu đến môi trường.

Ý tưởng nuôi kết hợp được nhiều nhà khoa học đề cập đến như nuôi khép kín gồm cá, vẹm, rong biển. Chất thải của cá làm gia tăng nguồn dinh dưỡng trong thuỷ vực tạo điều kiện cho tảo biển phát triển. Tảo làm thức ăn cho vẹm, phân thải của vẹm lại bổ sung dinh dưỡng cho rong biển. Vẹm được chế biến thành thức ăn cho cá, sau đó thức ăn dư thừa từ các lồng nuôi cá lại thúc đẩy sự phát triển của vẹm, rong biển và tảo, tạo nên vòng chuyển hoá dinh dưỡng và năng lượng khép kín trong thuỷ vực. Viện Nghiên cứu NTTS III thực hiện đề tài nhà nước “Nghiên cứu công nghệ và xây dựng quy tình nuôi kết hợp đa đối tượng hải sản trên biển theo hướng bền vững”. Đề tài thuộc chương trình KC 06 thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Địa điểm được triển khai tại Xuân Tự, huyện Vạn Ninh, Khánh Hoà.

Hai lồng nuôi tôm hùm 25m2/lồng, mật độ thả 100con/lồng, kích thước tôm ban đầu trên 100 gam/con. Một lồng nuôi đơn, một lồng ghép thêm các đối tượng vẹm xanh, rong sụn và bào ngư. Tỷ lệ ghép giữa tôm hùm, vẹm xanh, rong sụn là 2:25:30 (theo trọng lượng). Vẹm xanh được nuôi bằng phương pháp treo dây xung quanh lồng, kích thước giống 2-3cm/con. Mỗi dây vẹm bố trí 4 cụm (0,5 kg vẹm giống/cụm). Rong sụn được treo bằng dây trong và xung quanh lồng và cách mặt nước 50cm. Rong giống thả cỡ 1,5kg/1mdây. Cách 20cm treo một cụm.

Bào ngư được thả nuôi bằng lồng nhựa xung quanh lồng nuôi tôm hùm. Lồng nuôi bào ngư có kích thước 30x40x25cm. Mật độ thả ương: 200 con/lồng. Sau 1 tháng nuôi chuyển sang các rổ có mắt lưới lớn hơn để nuôi thương phẩm. Mật độ: 20-30 con/lồng. Viện Nghiên cứu NTTS III đã tiến hành nuôi bào ngư ở các mật độ khác nhau 10, 20, 36, 75 và 88 con/lồng. Mỗi mật độ bố trí nuôi bào ngư theo các nhóm kích thước khác nhau. Thức ăn cho bào ngư là rong câu chỉ vàng, rong sụn.

Theo dõi các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan, độ mặn, đo 1 lần/tuần. Các yếu tố như nitrate, phosphate, ammonium-nitrogen, tổng N, tổng P được xác định 1 lần/tháng.

Theo dõi tốc độ sinh trưởng: Định kỳ 15 ngày đo trọng lượng và chiều dài các đối tượng nuôi 1 lần.

Thức ăn cho tôm hùm là các loại cá tạp, thân mềm, tôm nhỏ, cua…Thường xuyên vớt bỏ thức ăn thừa, kiểm tra đáy lồng. Hằng ngày lặn kiểm tra thức ăn thừa, sức khoẻ tôm, chất đáy, địch hại như cua, ghẹ, cá nóc…quanh lồng. Lượng thức ăn và thức ăn dư thừa được cân đo hằng ngày để xác định hệ số tiêu tốn thức ăn.

Kết thức thí nghiệm, Viện nghiên cứu NTTS III đã tổng kết và đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi như sau:

Hàm lượng ni tơ (N), phốt pho (P) tổng số trong nền đáy lồng nuôi ghép thấp hơn nuôi đơn.

Tốc độ sinh trưởng trung bình về trọng lượng của tôm hùm ở lồng nuôi đơn là 0,48%/ngày và 0,53%/ngày ở lồng nuôi ghép, sinh trưởng của bào ngư là 1,47%/ngày, vẹm xanh là 0,57%/ngày và của rong sụn là 3,97%/ngày.

Không có sự khác nhau về sinh trưởng khi nuôi bào ngư ở các mật độ 10, 20, 36 và 75 con/lồng. Tuy nhiên, ở mật độ 88 con/lồng thì tốc độ sinh trưởng có sự sai khác ý nghĩa thống kê, đó là tốc độ sinh trưởng của bào ngư giảm. Tỷ lệ sống của bào ngư giảm khi tăng mật độ nuôi.

Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ghép cao hơn nuôi đơn, lợi nhuận thu được tăng 42,44% trong khi chi phí đầu tư chỉ tăng thêm 16,42%, tổng chi phí sản xuất tăng 39,37%.

Nguồn: Viện NTTS III được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi xen ghép tôm sú – cá dìa – cua

Đầu năm 2017, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Quảng Bình phối hợp với Phòng NN-PTNT huyện Quảng Ninh triển khai mô hình nuôi xen ghép tôm sú, cá dìa và cua trên diện tích ao nuôi 3.000m2 của gia đình bà Lê Thị Lịch ở thôn Trúc Ly, xã Võ Ninh.

Nuôi xen ghép tôm sú – cá dìa – cua 

Trong quá trình thực hiện mô hình, gia đình bà Lê Thị Lịch được hỗ trợ con giống gồm 1.500 con cá dìa, 45.000 con tôm sú và 1.500 con cua và được tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật và trực tiếp hướng dẫn quy trình, theo dõi tình hình sinh trưởng, phát triển của các loại đối tượng thủy sản nuôi trồng.

Sau gần 5 tháng thực hiện, nhìn chung mô hình phát triển khá tốt. Trọng lượng bình quân cá dìa đạt 200 gram/con, tôm sú 40 con/kg và cua 200 gram/con. Theo đánh giá tại hội thảo, mô hình cho thu hoạch 2 tạ cá dìa, 1,5 tạ cua và 6,7 tạ tôm sú, tổng doanh thu ước đạt hơn 182 triệu đồng; trừ chi phí đầu tư, hộ nuôi trồng có thu nhập 90 triệu đồng.

Đây là hình thức nuôi trồng mới, nuôi xen ghép các đối tượng nhằm cải thiện môi trường, hạn chế dịch bệnh, khai thác được tiềm năng ao hồ nuôi trồng thủy sản mặn lợ, hồ nuôi tôm kém hiệu quả hoặc bỏ hoang sang nuôi theo mô hình, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập.

Nguồn: Baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá dìa giúp tăng thu nhập và cải tạo môi trường ao tôm

Đối với nông dân, một trong những khó khăn trong nuôi tôm chính là xử lý nạn ô nhiễm môi trường nước. Khắc phục khó khăn này, nhiều hộ dân ở tỉnh Thừa Thiên – Huế đã phát triển mô hình nuôi cá dìa kết hợp với con tôm sú.

Cá dìa có đặc tính thích ăn tạp. Do vậy, cá dìa sẽ ăn rong, tảo và một phần thức ăn dư thừa cùng những mùn bã hữu cơ giúp môi trường nước ao nuôi được sạch hơn, giảm thiểu dịch bệnh. Đây cũng là giải pháp góp phần cải thiện môi trường ao nuôi và sử dụng nguồn thức ăn có hiệu quả.

Theo kinh nghiệm của nông dân Thừa Thiên – Huế, nếu cá giống lớn, mật độ thả ghép thưa khoảng 1 con/m2, sau 4 – 5 tháng nuôi cùng tôm, cá dìa có thể cho thu hoạch 0,8 – 1 tấn/ha, tỷ lệ sống đạt 60% trở lên, lợi nhuận từ 70 – 80 triệu đồng/ha. Quan trọng hơn, khi nuôi ghép với tôm sú, tôm vẫn phát triển tốt, ít dịch bệnh, giảm được chi phí thuốc và hóa chất trong quá trình nuôi.

Một ưu điểm khác của cá dìa là có thể nuôi ngay trong ao tôm bị dịch bệnh. Cá dìa sẽ tiêu diệt các mầm bệnh tồn lưu trong ao tôm. Nông dân có thể thả cá với mật độ từ 2 – 3 con/m2, sử dụng thức ăn tự chế hoặc cám công nghiệp. Sau 10 – 12 tháng nuôi, cá có thể đạt trọng lượng 0,6 – 1kg/con, tỷ lệ sống cao.

Cá dìa ăn thức ăn tự nhiên nên chi phí đầu tư thức ăn thấp. Tuy nhiên, nông dân cũng cần chọn con giống sạch, có chế độ chăm sóc tốt, đề phòng các bệnh, chủ động theo dõi các yếu tố môi trường, vì cá dìa khá nhạy cảm với biến đổi thời tiết…

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, Đại học Huế, Đại học Nha Trang, Đại học Cần Thơ đã sản xuất giống cá dìa nhân tạo thành công. Vì vậy, nông dân có nhu cầu nuôi có thể liên hệ với các địa chỉ trên để mua con giống và tìm hiểu thông tin, kỹ thuật nuôi.

Nguồn: Tomvang.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.