Kỹ thuật nuôi cá Kỹ thuật nuôi cá dìa trong ao đất kết hợp tôm sú

Cá dìa là một đặc sản của Thừa Thiên Huế, không chỉ người dân Huế mà cả khách du lịch đều biết đến giá trị thương phẩm của loài này.

Nắm bắt nhu cầu thị trường, đồng thời được sự vận động của các cán bộ Trung tâm Khuyến ngư tỉnh, anh Nguyễn Văn Dưỡng ở thôn Triệu Thôn, xã Phú An, huyện Phú Vang đã mạnh dạn đầu tư hơn 5000 m2 ao đất của mình để nuôi cá dìa kết hợp với nuôi tôm sú.

Từ những kiến thức đã học hỏi từ các cán bộ kỹ thuật, anh Dưỡng cho biết cá dìa là đối tượng nuôi có nhiều ưu điểm phù hợp với điều kiện tự nhiên của Huế. Chúng là loài rộng nhiệt, rộng muối, chịu được biên độ dao động muối từ 5-37‰. Thức ăn của cá dìa là thực vật thuỷ sinh, mùn bã hữu cơ, đồng thời chúng vẫn có thể ăn thức ăn tổng hợp nên rất tốt cho việc cải thiện môi trường ao nuôi.

Các bước thực hiện trong quá trình nuôi cá dìa của anh Dưỡng như sau:

Kỹ thuật cải tạo ao nuôi:

Trước khi thả nuôi cá phải tiến hành cải tạo kỹ ao nuôi. Sau khi cày xới mặt ao, anh Dưỡng dùng 500 kg vôi bột rải đều mặt ao, đặc biệt bón nhiều ở những chỗ còn đọng nước.  Dùng phân vi sinh và phân NPK để gây màu nước với hàm lượng 10kg phân vi sinh/100m2 và 3kg phân NPK/100 m2.

Hướng dẫn thả giống:

Trên diện tích 5000 m2, anh Dưỡng thả 2500 con cá dìa giống cỡ 50-70g/con, 7.500 tôm sú giống.

Kỹ thuật chăm sóc:

Biết được cá dìa là loài ăn thực vật thủy sinh, mùn bã hữu cơ nên anh Dưỡng tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên như rong tảo. Ngoài ra anh còn tự chế biến thức ăn từ ngũ cốc, cá tạp. Trong quá trình nuôi, cá dìa cũng mắc phải một số bệnh như bệnh ký sinh trùng và bệnh nhiễm khuẩn nhưng sau khi xử lý bằng formol (100%) với nồng độ 100-150ppm thì cá hết bệnh.

Sau 3 tháng nuôi anh Dưỡng thu được 312 kg cá dìa thịt, 150 kg tôm sú, 100 kg cua và tôm đất. Cá dìa có trọng lượng bình quân 250g/con, tỷ lệ sống 50%. Sau khi trừ chi phí, anh Dưỡng thu lãi hơn 8 triệu đồng.

Mô hình nuôi cá dìa kết hợp nuôi tôm sú bước đầu thành công đã làm tăng thu nhập của gia đình anh Dưỡng. Cá dìa sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên nên chi phí thức ăn thấp. Tuy nhiên cần phải lưu ý lựa chọn con giống sạch, có chế độ chăm sóc tốt, đề phòng các bệnh, chủ động theo dõi các yếu tố môi trường vì cá dìa khá nhạy cảm với biến đổi thời tiết.

Nguồn: Tiếp Thị Nông Nghiệp được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Bạc Liêu sẽ trở thành “thủ phủ” ngành tôm

Chính phủ đã quyết định thành lập “Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu” rộng hơn 400 ha, tại ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu.

Nuôi tôm công nghiệp ở Bạc Liêu

Theo TTXVN, ngày 6/1, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Dương Thành Trung cho biết Bạc Liêu được Chính phủ quyết định cho thành lập “ Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu” rộng hơn 400 ha, tại ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu.

Đến nay, tỉnh đã giao cho Tập đoàn Việt- Úc 315 ha, còn lại hơn 100 ha vùng lõi khu công nghệ cao, tỉnh đã chấp thuận cho 6 doanh nghiệp hàng đầu về ngành tôm vào đầu tư, trình diễn các mô hình mới về sản xuất tôm.

Cũng theo Chủ tịch UBND tỉnh, hiện nay, ngoài 7 doanh nghiệp đang sản xuất theo mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao siêu thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp trên cũng đã chuyển giao kỹ thuật tiến bộ này cho hơn 100 hộ nông dân áp dụng. Qua thực tế khảo sát cho thấy, mô hình này đang được lan tỏa trong cộng đồng người nuôi tôm trên địa bàn, người dân rất háo hức, phấn khởi áp dụng sản xuất.

Đặc biệt, với “Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu”, sau hơn một năm từ ngày Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định thành lập, đến nay tất cả các hồ sơ, thủ tục, các điều kiện liên quan đã được tỉnh chuẩn bị hoàn tất, dự kiến sẽ tiến hành khởi công xây dựng trong giữa đầu Quí I năm nay.

Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu bày tỏ mong muốn, trong thời gian tới các cơ quan thông tấn, báo chí và các doanh nghiệp tiếp tục đồng hành cùng tỉnh để Bạc Liêu xây dựng và phát triển thành công mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao và hướng đến “Bạc Liêu sớm trở thành thủ phủ của ngành tôm Việt Nam” đúng như kỳ vọng của Thủ tướng Chính phủ.

Theo báo Đại biểu nhân dân, Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu Lê Minh Khái cho biết: Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, lãnh đạo tỉnh đã ban hành Đề án tái cơ cấu ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ đẩy mạnh liên kết hợp tác giữa doanh nghiệp và nông dân trong việc đầu tư xây dựng những cánh đồng tôm theo mô hình cánh đồng mẫu lớn.

Đặc biệt, xây dựng khu sản xuất, nuôi tôm công nghệ cao và phát triển mạnh mô hình thực hành thủy sản tốt có chứng nhận (VietGAP, GlobalGAP, ASC hoặc Organic) với quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu đưa con tôm thẳng tiến “từ ao, đầm trực tiếp đến bàn ăn”.

Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thương hiệu con tôm Bạc Liêu, giữ vững thị trường xuất khẩu truyền thống như: Nhật Bản, Mỹ, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, phát triển và mở rộng thêm thị trường tiềm năng như: Hong Kong, Trung Đông, Đông Âu, ASEAN, Liên minh kinh tế Á – Âu và với các nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)…

Nguồn: TTXVN được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thị trường xuất khẩu tôm “đổi ngôi”, châu Âu mới là số 1

Các thị trường truyền thống của tôm Việt Nam như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc… đã có sự thay đổi “ngôi thứ” trong năm 2017. Năm 2017 cũng được xem là năm “được mùa” của xuất khẩu tôm khi giá trị kim ngạch đạt 3,8 tỷ USD.

Chế biến tôm xuất khẩu

Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, dù diễn biến thị trường nhiều bất lợi nhưng hết năm 2018, đã có 3,8 tỷ USD được mang về từ xuất khẩu tôm. Trong đó, Châu Âu vươn lên thay thế Mỹ, dẫn đầu thị trường nhập khẩu của tôm Việt Nam.

Theo đó, xuất khẩu tôm vào EU trong 11 tháng năm 2017 đạt trên 780 triệu USD, tăng 42,4% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 22,2% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam đi các thị trường.

Tại khối EU, có những thị trường tăng vượt bậc trong năm qua như Hà Lan tăng đến 70,5%, đạt 199,7 triệu USD. Tiếp đó, Anh và Đức lần lượt tăng 54,5% và 6%. Tuy nhiên, theo đánh giá của VASEP, Việt Nam có thể chen chân mạnh mẽ vào thị trường EU trong năm qua nhờ các đối thủ mạnh như Ấn Độ, Thái Lan gặp các vấn đề về kháng sinh, thuế… khi xuất khẩu tôm vào EU.

Ngoài ra, giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU khá tích cực là do người tiêu dùng EU ưa chuộng các sản phẩm thủy sản giá trị gia tăng tiện lợi và tăng nhập khẩu để phục vụ nhu cầu các lễ hội cuối năm. Trong khi đó, nguồn tôm nước lạnh lại đang có giá cao và nguồn cung lại giảm.

Không chỉ EU, thị trường Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản cũng có sự “đổi ngôi” thứ vị trong nhập khẩu tôm Việt Nam năm 2017. Mỹ là thị trường sụt giảm duy nhất trong nhóm các thị trường chính của tôm Việt khi 11 tháng đầu năm chỉ nhập khẩu khoảng 610 triệu USD, giảm 7,8% so với cùng kỳ.

Trong khi đó, Trung Quốc là thị trường tăng trưởng mạnh nhất trong nhóm các thị trường truyền thống của tôm Việt, với mức tăng trưởng 60,2%, đạt 637,9 triệu USD. Với đà tăng trưởng này, VASEP đánh giá, Trung Quốc có khả năng vượt qua Nhật Bản trở thành thị trường lớn thứ hai của tôm Việt Nam trong quý 1.2018.

Ông Trương Đình Hòe – Tổng thư ký VASEP cũng thông tin, từ ngày 1.12.2017, xuất khẩu tôm sang Trung Quốc có lợi thế hơn khi nước này quyết định giảm thuế nhập khẩu từ 5% xuống 2% đối với sản phẩm tôm đông lạnh. Hơn nữa, với lợi thế về vị trí địa lý, thanh toán linh hoạt… doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng đáp ứng các yêu cầu của bạn hàng Trung Quốc khi nhu cầu ở thị trường này tăng mạnh.

Hiện tại, nhu cầu nhập khẩu tôm của thị trường Trung Quốc vẫn ở mức cao, nhằm phục vụ mùa tết âm lịch sắp tới. Một số doanh nhân Trung Quốc còn đến tận ao nuôi các nước lân cận để tìm mua hàng với khối lượng lớn. Một số nhà phân tích cho rằng, lượng tôm thẻ châm trắng nuôi tại Trung Quốc đã giảm 2/3 do gặp các bất lợi về thời tiết. Đây cũng là nguyên nhân khiến lượng tôm nhập khẩu vào thị trường này tăng mạnh.

Cũng theo ông Hòe, không chỉ ở thị trường Trung Quốc, sự thay đổi ngôi thứ này cũng có thể kéo dài sang năm 2018, khi mà Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) dự kiến có hiệu lực sẽ tạo nhiều thuận lợi cho xuất khẩu tôm vào thị trường này.

Cụ thể, theo lộ trình cam kết, khi EVFTA có hiệu lực, thuế xuất khẩu tôm mã HS 03061100 (tôm hùm xanh ướp đá; tôm sú HOSO, DP đông lạnh; tôm mũ ni vỏ…) sang EU sẽ về 0% thay vì mức 12,5% như hiện tại, thuế sản phẩm tôm sú tươi đông lạnh, tôm sú thịt đông lạnh, tôm thẻ thịt đông lạnh… cũng về 0% từ mức 20%.

Trong khi đó, sản xuất tôm trong nước năm qua cũng gặp nhiều thuận lợi nhờ giá tốt, được Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan ban ngành ưu tiên. Ông Dương Thành Trung – Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu, cho biết, chỉ trong vòng một năm qua, các mô hình nuôi tôm công nghệ cao phát triển rất mạnh mẽ tại địa phương này, hướng tới xây dựng Bạc Liêu thành trung trâm công nghiệp tôm của cả nước.

“Chỉ với 500 – 600 triệu đồng, nông dân có thể đầu tư ao nuôi tôm ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và lấy lại vốn sau 1 năm. Do đó, các mô hình này đang lan tỏa rất nhanh, dẫn tới lo ngại về việc khó kiểm soát ô nhiễm môi trường”, ông Trung cho biết.

Nguồn: Dân Việt được kiểm duyệt bởi Farmtech Việt Nam.

Sự khác biệt màu vỏ tôm thẻ nuôi và nguyên nhân

Màu sắc là một yếu tố quan trọng xác định việc người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm đo đó nó cũng quyết định giá trị của tôm nuôi. Bài viết so sánh màu sắc vỏ tôm và nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt của vỏ tôm thẻ chân trắng.

Sự biến đổi màu sắc vỏ của tôm thẻ chân trắng nuôi.

Màu sắc của tôm phần lớn bị ảnh hưởng bởi sắc tố, thức ăn, động vật, tình trạng bệnh tật và các yếu tố môi trường. Báo cáo của các nhà khoa học phân tích sự khác biệt 2 loại màu sắc phổ biến của tôm thẻ chân trắng là tôm có màu vỏ trắng và tôm có màu nâu đỏ.

Màu vỏ bình thường của tôm thẻ chân trắng nuôi là màu trắng xanh (dưới), nhưng lại xuất hiện một vài con có vỏ màu nâu (trên)

So sánh 2 loại màu sắc vỏ tôm thẻ chân trắng

Xét về khía cạnh vật lý, ngoại trừ sự khác biệt về màu sắc, tôm thẻ có vỏ màu trắng xanh và tôm thẻ có vỏ màu nâu có đặc tính tương tự nhau.

Một nghiên cứu đã được tiến hành để xác định xem có sự khác biệt giữa tôm có vỏ trắng và tôm có vỏ nâu về màu thịt, thành phần thịt và kết cấu thịt.

Tôm được thu thập từ một trại nuôi tôm ở Andhra Pradesh, Ấn Độ được chọn ngẫu nhiên và vận chuyển ở nhiệt độ <4 °C đến phòng thí nghiệm và phân tích.

Tiến hành thí nghiệm

Phân tích màu sắc

1: Lột vỏ tôm tươi để phân tích màu sắc mỗi loại 5 con được, 2: Đem nấu chín trong vòng 5 phút mỗi loại 5 con.

Tôm có vỏ nâu sau khi được nấu chín (trái), tôm vỏ trắng xanh sau khi được nấu chín (Phải).

Một sự khác biệt quan trọng trong giá trị màu đỏ (a *) và sự khác biệt rất nhỏ trong giá trị độ nhạt (L *) và màu vàng (b *) được quan sát thấy giữa tôm thẻ trắng và tôm thẻ nâu.

Kết quả phân tích: màu đỏ (a *) cao hơn rõ rệt (P <0,05) trong tôm vỏ trắng xanh, cả vỏ tươi (7,9 ± 0,3) và vỏ nấu chín (17,9 ± 0,8), tôm thẻ vỏ nâu (4,8 ± 0.3 mẫu tươi, 14.4 ± 1.6 và mẫu nấu chín) cho thấy sự khác biệt giữa hai loại tôm thẻ chân trắng.

Các sắc tố carotenoid chính chịu trách nhiệm về màu sắc của tôm là astaxanthin tức là 3,3 dihydroxy β carotene 4,4-dione5,6. Trước khi tôm được nấu chín, astaxanthin được bao phủ bởi các chuỗi protein gọi là crustacyanin. Các chuỗi protein bao bọc lấy astaxanthin và che giấu màu đỏ hồng của astaxanthin. Hàm lượng sắc tố trong vỏ tôm luôn luôn cao hơn cơ bụng. Dựa vào kết quả, có thể kết luận rằng tôm thẻ vỏ trắng xanh có sản phẩm tôm nấu chín màu đỏ hơn so với tôm thẻ có vỏ màu nâu.

Phân tích thành phần và kết cấu thịt

Hàm lượng protein, chất béo, canxi, kali và natri, và cấu trúc tế bào của 2 loại tôm đã được phân tích.

Kết quả phân tích thành phần thịt: tôm thẻ vỏ trắng xanh có hàm lượng natri (552 mg%) và canci (264mg%) cao hơn so với tôm thẻ màu nâu (natri 331mg%, canxi 188mg%) cho thấy sự mất cân bằng chất khoáng có thể là một lý do gây nên sự khác biệt trong màu sắc vỏ tôm. Kết quả phân tích cũng cho thấy tôm thẻ vỏ trắng xanh có kết cấu thịt tốt hơn.

Nguyên nhân sự khác biệt màu sắc tôm: có thể do những con tôm nâu bị căng thẳng. Một vài yếu tố đã được biết đến làm ảnh hưởng màu sắc tôm nuôi là khi bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn hoặc môi trường nuôi độc hại. Martinez và cộng sự (2014) cho thấy màu đỏ trong tôm có thể là kết quả của việc tiếp xúc với đồng. Các kim loại như cadmium, đồng, chì và thuỷ ngân kết hợp với astaxanthin và hình thành các phức hợp mới có màu đỏ sậm hơn.

Kết luận:

Các nhà khoa học cũng đưa ra kiến nghị cần có những nghiên cứu sâu hơn để xác định những yếu tố căng thẳng chịu trách nhiệm về sự khác biệt về màu vỏ của tôm nuôi.

Nguồn: Báo cáo của: B. Madhusudana Rao, P. Viji and Jesmi Debbarma được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi trồng thủy sản ứng phó biến đổi khí hậu

Ông Hồ Vang, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, thời gian qua xuất hiện nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản (NTTS) ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH) cần được ngành, các địa phương tăng cường nguồn lực để nhân rộng.

Nuôi cá lồng bè vượt lũ trên hồ thủy lợi Khe Ngang

Các đợt mưa lớn, kể cả những trận lũ cuối năm 2017 vừa qua không gây thiệt hại đến NTTS tại xã Hương Phong (TX. Hương Trà) nhờ hệ thống ao hồ nuôi tôm, cua, cá được người dân tôn cao bờ bao, chắn thêm lưới bao quanh để bảo vệ.

Ông Đặng Duy Đấu ở xã Hương Phong nhìn nhận, BĐKH trong những năm gần đây thể hiện rất rõ nét. Triều cường ngày càng dâng cao, mưa lũ thất thường với cường độ lớn hơn. Nhiều vụ nuôi thủy sản phải thu hoạch non, bán giá rẻ. Một số vụ không thu hoạch kịp thời bị lũ cuốn trôi. Từ 3 năm trở lại đây, ông Đấu cũng như nhiều hộ dân ở Hương Phong không còn lo lắng mỗi khi triều cường, hay nước lũ dâng cao nhờ phương án ứng phó lũ lụt là tôn cao bờ bao, vây lưới chắn quanh ao hồ cao 1-1,5m.

Ông Phan Hữu Vinh, Phó Chủ tịch UBND xã Hương Phong đánh giá, từ khi triển khai mô hình ứng phó BĐKH, tình hình NTTS trên địa bàn xã Hương Phong khá ổn định. Các mùa bão lũ hằng năm, thủy sản được bảo vệ an toàn, nuôi đảm bảo kích cỡ mới thu hoạch bán với giá cao. Nhiều hộ lãi bình quân từ 50-100 triệu đồng/vụ. Trong các đợt lũ cuối năm 2017, ngoài các ao hồ đã thu hoạch, số còn lại đều được bảo vệ an toàn.

Tại xã Quảng Công (Quảng Điền), người dân cũng triển khai mô hình NTTS thích ứng BĐKH mang lại hiệu quả kinh tế. Bà Lê Thị Khoa ở thôn 14 có hơn 30 năm trong nghề NTTS cho hay, 5 năm trở lại đây, nhờ mô hình ứng phó BĐKH bằng cách tôn cao bờ bao, chắn lưới quanh ao hồ đã bảo vệ an toàn, có thể nuôi thủy sản quanh năm mà tránh được thiệt hại do thiên tai.

Người dân xã Quảng Công còn đào đắp hệ thống kênh mương, ao chứa nước ngọt, đầu tư thêm giếng bơm, máy bơm nước dự phòng. Khi triều cường, xâm nhập mặn, người dân kịp thời vận hành máy móc, bơm bổ sung nguồn nước ngọt sẵn có để ổn định độ mặn, độ PH trong ao nuôi.

Mô hình NTTS ứng phó BĐKH tại xã Hương Phong

Ông Lê Duận, Chủ tịch UBND xã Quảng Công cho biết, toàn xã có khoảng 126 ha NTTS của 225 hộ nuôi các loại. Để bảo vệ sản xuất, người dân có ý tưởng vây chắn lưới quanh ao hồ, tôn cao bờ bao, ứng phó nước lũ dâng. Mô hình này phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả kinh tế.

Ngoài các biện pháp vây chắn lưới, tôn cao bờ bao, thời gian qua một số hộ nuôi đã chọn đối tượng thủy sản phù hợp, thích ứng BĐKH. Tại xã Hải Dương (TX. Hương Trà), trong khi nhiều hộ nuôi cá mú, hồng, vẩu… bị thiệt hại hoàn toàn trong các đợt lũ cuối năm 2017 thì hộ ông Phan Hạnh nuôi cá chẽm đã bảo vệ an toàn, lãi khá cao.

Sau nhiều vụ nuôi, ông Hạnh nhận thấy cá chẽm thích nghi tốt với nguồn nước lũ bạc đầu nguồn đổ về, trong khi đó cá vẩu, cá hồng, cá mú thường bị chết. Mới đây nhất trong các đợt lũ tháng 12/2017 vừa qua, các loại cá đều chết sạch do nước bạc, duy chỉ cá chẽm sống sót.

TS. Nguyễn Quang Vinh Bình, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản (CCTS) tỉnh cho rằng, những mô hình NTTS ứng phó BĐKH ở Hương Phong, Hải Dương, Quảng Công tuy không khó thực hiện nhưng chưa phổ biến.

Sắp đến, CCTS phối hợp với các địa phương tổ chức tuyên truyền, vận động người dân tự bỏ vốn đầu tư mua sắm lưới để vây chắn quanh ao hồ, tôn cao bờ bao nhằm đảm bảo NTTS quanh năm, mang lại hiệu quả kinh tế. CCTS tiếp tục nghiên cứu, chọn các đối tượng thủy sản thích hợp để người dân đưa vào sản xuất trong điều kiện BĐKH.

Nguồn: Báo Thừa Thiên Huế được kiểm duyệt bởi Farmtech Việt Nam.

Thái Bình áp dụng nhiều mô hình nuôi tôm đem lại hiệu quả cao

Nuôi tôm theo mô hình VietGAP hay theo phương thức “nuôi tôm liên kết” trong nhà kính được tỉnh Thái Bình áp dụng giúp giảm rủi ro, dịch bệnh, đem lại lợi nhuận cao.

Nhiều phương thức nuôi tôm mới được tỉnh Thái Bình áp dụng

Nhằm hạn chế dịch bệnh, tạo sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, mô hình “Nuôi tôm Thẻ chân trắng theo quy phạm VietGAP” đã được tỉnh Thái Bình đưa vào áp dụng. Sau thời gian ngắn triển khai mô hình đã có những kết quả về chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và những tiêu chí VietGAP được chứng nhận. Đối với mô hình nuôi theo qui phạm thực hành VietGAP môi trường ao nuôi ổn định. Sản phẩm nuôi đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, dễ tiêu thụ và giá bán cao hơn.

Ngoài ra phương thức “nuôi tôm liên kết” trong nhà kính cũng được tỉnh Thái Bình áp dụng. Sau thời gian triển khai, các chủ “Ao nuôi liên kết” khẳng định, phương thức nuôi tôm trong nhà kính theo hướng ứng dụng công nghệ cao là phương thức nuôi chắc ăn, rất ít rủi ro, dịch bệnh và có thể mang lại suất lợi nhuận cao gấp 4 đến 5 lần, thậm chí còn cao hơn nữa so phương thức nuôi truyền thống.

Với việc ứng dụng công nghệ nuôi trồng trong nhà kính kết hợp phương thức “nuôi liên hoàn từ bể ương ra ao nuôi thương phẩm” để giảm bớt thời gian giai đoạn nuôi ao, công nghệ nuôi tôm nhà kính của Doanh nghiệp Phương Nam đã đưa từ 2 vụ nuôi/năm (nuôi cổ truyền) lên 4 vụ nuôi/năm, đưa năng suất nuôi trồng từ khoảng 1 kg/m2 (nuôi cổ truyền) lên trên 2 kg/m2 và đưa trọng lượng tôm thương phẩm từ 70-75 con/kg (nuôi cổ truyền) lên 30-35 con/kg chỉ sau 105 ngày nuôi.

Phương thức “nuôi tôm liên kết” trong nhà kính cũng được tỉnh Thái Bình áp dụng

Việc đưa từ 2 vụ lên 4 vụ nuôi/năm không chỉ đơn thuần mang lại hiệu quả kinh tế cao nhờ việc tăng hệ số quay vòng ao nuôi, quay vòng vốn, rút ngắn thời gian khấu hao ao nuôi, sớm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ao nuôi… mà điều quan trọng là, 2 vụ nuôi tăng thêm thực chất là 2 vụ nuôi trái vụ nên đã tránh được tình trạng “được mùa thì rớt giá” trong sản xuất. Đặc biệt, trong điều kiện thời tiết đông giá, các tỉnh phía Bắc không thể nuôi tôm theo phương thức cổ truyền, việc nuôi theo công nghệ mới này giúp có tôm xuất bán vào dịp Tết Nguyên đán là hết sức có ý nghĩa.

Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất cho phương thức nuôi trồng này là vốn đầu tư ban đầu cao (8-9 tỷ đồng/ha) và để thực hiện nuôi trồng độc lập thì “hộ nuôi trồng” phải có đủ kiến thức chuyên môn cần thiết.

Nguồn: VietQT được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Khôi phục nuôi trồng thủy sản tại Vạn Ninh

“Cầm” sổ đỏ vay vốn, làm lại từ đầu

Cảng cá Vạn Giã (thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh) – một trong những vùng nuôi trồng thủy sản sầm uất với dày đặc lồng bè thả tôm, cá trước đây giờ trở nên thoáng đãng, quá đỗi yên bình, chỉ lác đác vài lồng bè vừa mới “mọc” lên sau bão.

Trên bờ biển, những lồng bè rách nát, phuy nhựa, lưới cụ, tàu thuyền bị vỡ được người dân mót lại sau bão vẫn còn nằm ngổn ngang khắp nơi. Tất cả tan hoang, trở thành thảm họa.

Khung cảnh tan hoang sau bão tại Vạn Ninh

Xen kẽ giữa những thứ bề bộn đó, là những khung bè mới được bà con đóng lại nhưng chưa kéo ra mặt nước nuôi vì chưa hoàn thiện. Hơn nữa dù khung bè đã xong nhưng trước mặt người nuôi trồng thủy sản còn vô vàn nỗi lo và cần chuẩn bị nhiều thứ như làm lồng nuôi, mua con giống, thức ăn…mới có thể nuôi trở lại.

Trong số những khung bè đang làm lại có bè nhà anh Lưu Văn Thanh, ở thị trấn Vạn Giã hiện đã cơ bản hoàn thành. Gặp chúng tôi, anh cho biết, để làm ra nhà bè, cùng với khung bè gồm 24 ô lồng, giảm 6 ô lồng so với trước đây thì ngoài việc tận dụng những cây gỗ, phuy nhựa còn sót lại, anh còn bỏ thêm 150 triệu đồng đầu tư.

Sau bão trắng tay vì bao nhiêu vốn liếng dành dụm đã đầu tư nuôi 3.000 con cá bớp và cá bè đạt trọng lượng xuất bán thì bị bão “cướp” sạch, ước thiệt hại gần 1,5 tỷ đồng. Vừa qua anh đến ngân hàng cầm 3 sổ đỏ là nhà cửa của anh em, họ hàng mới vay được 600 triệu đồng.

Nguời dân đang từng bước đã hoàn thành bước một, là làm lại khung bè và mua chiếc thuyền nhỏ (không có máy), giá 30 triệu đồng làm phương tiện đi lại trên biển.

Còn bước tiếp theo sẽ làm lại lồng nuôi và mua con giống, khi đó nếu thiếu tiền sẽ vay tiếp. Bởi theo anh, nếu không nuôi trồng thủy sản không có cách nào gỡ gạc, trả nợ được.

Tiếp tục về xã Vạn Thạnh- vùng nuôi tôm hùm trọng điểm ở huyện Vạn Ninh nhìn ra biển Đầm Môn cũng trở nên hoang vắng. Nhiều ngư dân vẫn cặm cụi mót từng chiếc phuy, chắp từng mảnh cây để đóng lại lồng bè.

Ngư dân cặm cụi đóng lại lồng bè

Theo người nuôi trồng thủy sản, khó khăn hiện nay là các vật tư làm lồng bè từ gỗ, phuy nhựa, lưới đều tăng giá từ 15 – 20%, kể cả công thợ đóng bè cũng tăng gấp đôi, từ 300.000 đồng lên 600.000 đồng/công. Ngoài ra, con giống thả nuôi khan hiếm và tăng từ 100-150 ngàn/con, cụ thể tôm trắng 305 ngàn đồng/con; tôm nuôi 1 tháng từ 400-500 ngàn đồng/con.

Tuy nhiên, theo quan sát chúng tôi hiện nay một số hộ gia đình cũng đã “vượt lên nỗi đau”, tìm mọi cách để nuôi tôm trở lại.

Tiêu biểu như anh Trần Đẩu, thôn Tân Dân, xã Vạn Thắng sau cơn bão, anh mất trắng hơn 30.000 con tôm hùm và cá các loại, ước thiệt hại 25 tỷ đồng. Do cạn kiệt vốn nên gia đình anh cầm sổ đỏ nhà tại ngân hàng để vay vốn khôi phục sản xuất.

Anh Đẩu cho biết, sau bão anh đóng lại bè mới với hơn 30 ô lồng và thả 3.000 con tôm hùm. Dù việc phục hồi chẳng thấm vào đâu với số thủy sản đã mất, nhưng đó là sự quyết tâm gượng dậy của người nuôi trồng thủy sản.

Cần tiếp sức từ những chính sách

Đối với anh Thanh, anh Đẩu giờ họ đã vực dậy, tự an ủi bản thân, bắt tay làm lại từ đầu vì nghĩ rằng ông trời sẽ không phụ lòng người cố gắng, kiên trì đến cùng. Thế nhưng không phải ai cũng có được quyết tâm như vậy sau nỗi mất mát quá lớn và kinh tế kiệt quệ!

Như gia đình ông Phạm Thân, tổ 7, thị trấn Vạn Giã vẫn chưa hết ám ảnh khi cơn bão làm toàn bộ lồng bè tan nát, cá tôm mất sạch ước thiệt hại gần 1,5 tỷ đồng. Dù ông Thân vẫn hằng ngày ra biển tu sửa lại con thuyền bị vỡ, đôi mắt hướng về biển nhưng chưa thể bắt tay làm lại. Bởi lẽ gia đình ông đã không còn gì, còn mang nợ nên không thể nào xoay xở vốn để gỡ gạc. Ông Thân bộc bạch: “Bây giờ gia đình tôi hy vọng nhà nước sớm có chính sách tháo gỡ cho vay vốn tái sản xuất may ra tôi mới có thể làm lại”.

Tượng tự gia đình ông Nguyễn Văn Lộc, một người tôm trải bạt ở thôn Ninh Mã, xã Vạn Thọ cho biết, hiện vẫn chưa tu sửa ao đìa, bởi chi phí đầu tư lớn vượt quá tầm của gia đình.

Theo ông Lộc, 2 ao nuôi trên bạt tổng cộng gần 3.000 m2 giờ muốn nuôi lại ,ông phải đổ đất đắp ao, rồi trải bạt và mua toàn bộ thiết bị nuôi tôm tốn hàng trăm triệu đồng. Ngoài ra chưa kể sau khi phục hồi xong ao nuôi, còn mua giống, mua thức ăn, tính ra cả tỷ đồng.

Còn ông Nguyễn Sáng, Chủ tịch UBND xã Vạn Thắng cho biết, việc khôi phục nuôi trồng thủy sản đang rục rich nhưng chậm, bởi nguồn lực trong dân đã hết. Hơn nữa, hầu hết người nuôi đều đã vay vốn ngân hàng. Sau cơn bão, toàn xã ngoài thiệt hại 7.261 lồng bè, còn hơn 107 ha ao nuôi tôm, ốc mất trắng; tổng thiệt hại ước 491 tỷ đồng.

Trao đổi với NNVN, ông Nguyễn Văn Dũng, Phó phòng Kinh tế huyện Vạn Ninh cho biết, đến nay chỉ mới 20-30% số hộ nuôi trồng thủy sản bắt đầu khôi phục trở lại nhưng chủ yếu là lồng bè, còn việc thả giống chưa nhiều.

Ông Võ Lục Phẩm, Phó Chủ tịch UBND huyện Vạn Ninh cho biết, để giúp người dân thả nuôi trở lại, huyện đã đề nghị Sở NN-PTNT sớm tham mưu với UBND tỉnh hỗ trợ tiền mua giống, cây trồng, vật nuôi theo NĐ 02/2017/NĐ-CP. Đồng thời đề nghị tỉnh sớm ban hành quy hoạch tạm thời khu vực nuôi trồng thủy sản để người dân tái sản xuất và tiếp cận vốn vay ngân hàng.

Bên cạnh đó, đối với trường hợp hồ sơ chưa đủ điều kiện hỗ trợ thiệt hại theo quy định như thiếu bản kê khai ban đầu theo NĐ 02, huyện đề nghị Sở NN-PTNT xem xét, tham mưu UBND tỉnh có chính sách hỗ trợ riêng cho các trường hợp này. Bởi tính riêng lồng, bè thiệt hại không đủ điều kiện hỗ trợ theo quy định đã là hơn 56.000 lồng nuôi tôm hùm, hơn 4.700 lồng nuôi cá.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nghệ An: Nuôi trồng thủy sản vượt chỉ tiêu đề ra

Năm 2017, sản xuất, nuôi trồng thủy sản diễn ra trong điều kiện thời tiết thay đổi thất thường. Tuy nhiên, nuôi trồng thủy sản ở Nghệ An vẫn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.

Diện tích nuôi trồng thủy sản Nghệ An đạt 21.333 ha bằng 102% KH và bằng 103% so cùng kỳ năm 2016. Trong đó, diện tích nuôi ngọt 18.926 ha, nuôi mặn lợ đạt 2.408 ha (diện tích nuôi tôm đạt 2.119 ha).

Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 50.253 tấn bằng 101% kế hoạch và bằng 105% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, sản lượng ngọt 39.626 tấn, sản lượng mặn lợ đạt 10.627 tấn (sản lượng tôm là 6.582 tấn).

Ươm cá giống tại Diễn Châu

Trong năm qua, các cơ sở tại Nghệ An đã sản xuất được 1.719 triệu con tôm giống, bằng 143% so KH và bằng 105% so cùng kỳ năm 2016. Trong đó, tôm sú đạt 184 triệu con, tôm thẻ đạt 1.535 triệu con.

Sản xuất cá giống các loại đạt 704 triệu con bằng 101 % KH và bằng 103% so cùng kỳ năm 2016. Sản xuất cua giống đạt trên 31 triệu con. Sản xuất, ương ngao giống đạt 1,2 tỷ con.

Tổng giá trị sản xuất trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại Nghệ An ước đạt 2.626 tỷ đồng, bằng 129% so cùng kỳ năm 2016.

Tại Hội nghị, Sở NN&PTNT tỉnh Nghệ An đã trao Giấy khen cho 14 tập thể, 2 cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác nuôi trồng thủy sản năm 2017.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Sản xuất tôm giống: Lượng và chất chưa song hành

Hiện nay, nếu xét về năng lực, các công ty sản xuất tôm giống trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng đủ để cung ứng cho thị trường. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt đó là vẫn còn một lượng lớn tôm giống không bảo bảo chất lượng cung cấp cho người nuôi.

Năm 2017, cả nước có hơn 2.422 cơ sở sản xuất tôm giống

Đủ lượng, thiếu chất

Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2017, cả nước có hơn 2.422 cơ sở sản xuất giống tôm nước lợ; trong đó 1.861 cơ sở sản xuất giống tôm sú và khoảng 561 cơ sở sản xuất giống tôm thẻ chân trắng, với sản lượng ước hơn 100 tỷ con. Những con số này cho thấy, công suất của các cơ sở sản xuất giống cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu cho người nuôi.

Ông Phan Tuấn Cự, Giám đốc DNTN Tuấn Cự (Bình Thuận) cho biết, theo tính toán, muốn sản xuất được 100 tỷ con tôm thương phẩm thì nhu cầu giống phải có 400 – 500 tỷ con chất lượng. Các công ty sản xuất tôm giống trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng được đủ con giống cung ứng cho thị trường. Thậm chí, nếu nhu cầu thị trường cần thì các doanh nghiệp sản xuất tôm giống trong nước có thể sản xuất được nhiều hơn con số trên. Song chất lượng vẫn là bài toán khó khi vẫn còn tồn tại nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, không đạt tiêu chuẩn đang sản xuất và cung ứng giống ra thị trường.

Trong buổi Tọa đàm trực tuyến “Những vấn đề đặt ra trong sản xuất và cung ứng tôm giống” do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức, ông Lê Anh Xuân, Chủ tịch HĐQT Công ty N.G Vietnam cho biết: “Số lượng cơ sở sản xuất tôm giống của ta hiện nay đủ về mặt số lượng nhưng ít về mặt chất lượng, như vậy nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến công cuộc phát triển ngành tôm”.

“Tất cả cơ sở sản xuất tôm giống hiện nay đều có hai đặc điểm hạn chế chung. Thứ nhất, nguồn tôm bố mẹ hầu hết được lấy từ hai nguồn. Một là khai thác, đánh bắt ngoài biển, đối với Việt Nam chúng ta là đánh bắt tại Vịnh Thái Lan. Hai là, nguồn tôm bố mẹ, như tôm thẻ chân trắng, được nhập khẩu tới hơn 90%. Có một số đơn vị trong nước đã tiến hành cung cấp tôm bố mẹ đã được gia hóa. Tuy nhiên, nguồn tôm có uy tín cũng đều là tôm nhập từ nước ngoài về. Thứ hai là vấn đề tổ chức sản xuất. Tất cả cơ sở sản xuất tôm giống hiện nay đều có hạ tầng kỹ thuật yếu kém, chưa đồng bộ. Hạ tầng phần mềm, tức là khả năng tiếp thu và ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao trong sản xuất con giống cũng hạn chế, dẫn đến việc chưa chủ động sản xuất ra được tôm giống chất lượng cao”, ông Xuân chia sẻ thêm.

Rất cần giống tốt

Ông Vũ Hải Đường, Giám đốc Công ty CP Đầu tư Phát triển Thủy sản Bình Minh (huyện Kim Sơn, Ninh Bình) – một doanh nghiệp đang nuôi tôm công nghệ cao mùa đông cho biết: “Hiện, Công ty đang có 10 ao nuôi (8 ao rộng 1.800 m2, 1 ao 900 m2 và 1 ao 700 m2). Ngoài ra, còn có 2 ao ương với diện tích 500 m2/ao. Đối với nuôi tôm, có rất nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng phải đối diện với nhiều rủi ro, trong đó quan trọng nhất là vấn đề con giống. Công ty đang sử dụng tôm giống của Công ty C.P Bình Định. Nhìn chung, chất lượng tôm giống khá tốt, phát triển nhanh, tránh được các bệnh dịch; từ đó giúp Công ty nuôi tôm thành công với tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay”.

“Công ty rất thận trọng trong việc lựa chọn con giống bởi đây là yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành bại của một vụ nuôi. Chúng tôi sẵn sàng đặt hàng doanh nghiệp sản xuất tôm giống riêng cho Công ty dù phải mua với giá cao hơn, miễn sao chất lượng được đảm bảo”, ông Đường chia sẻ thêm.

Trên thị trường hiện nay, chất lượng tôm giống không đồng đều, thật giả lẫn lộn, giá mỗi nơi một kiểu. Với sản xuất công nghiệp quy mô lớn, các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất có đủ điều kiện, khả năng liên kết chặt chẽ với nơi sản xuất giống để mua được con giống tốt; Nhưng với những người dân nuôi nhỏ lẻ, số lượng ít thì khó tiếp cận với cơ sở sản xuất giống tốt. Vậy làm thế nào để người dân không mua phải giống trôi nổi, giống chưa qua kiểm tra?

Nhiều chuyên gia cho rằng, người nuôi tôm nên mua giống ở các cơ sở sản xuất có uy tín trên thị trường; cần phải liên kết với nhau để mua với số lượng lớn mà không cần qua trung gian. Việc liên kết này vừa giúp giảm chi phí đầu vào, vừa đảm bảo sẽ tiếp cận được với tôm giống chất lượng. Song song đó, các cơ quan quản lý nhà nước nên tăng cường kiểm tra các cơ sở sản xuất thường xuyên và đột xuất, từ đó có phân loại theo dạng cơ sở sản xuất giống đạt chứng chỉ A hay B hay C. Chứng nhận đó là cơ sở quan trọng để người dân phân biệt được chất lượng của cơ sở sản xuất giống và giá thành có tương ứng với chất lượng giống mình đang sử dụng hay không.

Từ đầu năm đầu năm 2016 đến nay, Tổng cục Thủy sản phối hợp với Tổng cục An ninh (A86) – Bộ Công an và Công an kinh tế các địa phương (PA81) thành lập đoàn thanh tra đột xuất và tiến hành xử phạt nghiêm đối với nhiều cơ sở sản xuất tôm giống vi phạm ở nhiều tỉnh, thành trên cả nước như Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận… Với những hành động quyết liệt này, hy vọng chất lượng tôm giống sẽ ngày càng được nâng cao, giúp người nuôi tôm hân hoan với những vụ nuôi thắng lợi, hoàn thành tốt các mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra với ngành tôm Việt Nam.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech Việt Nam.

Khoa học đánh thức nuôi trồng thủy sản miền Trung

Ngoài nghiên cứu thành công về cá giống bố mẹ, gần đây Viện III đã tiến hành nghiên cứu sản xuất giống các đối tượng nhuyễn thể như trai ngọc nữ, trai tai tượng…

Tôm giống 

Những năm gần đây, với nhiều công trình nghiên cứu khoa học công nghệ nổi bật có ứng dụng cao trong thực tiễn, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã giới thiệu những giống mới, quy trình kỹ thuật nuôi mới giúp các doanh nghiệp, cá nhân trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ngày một đa dạng hơn về đối tượng nuôi.

Tiến bộ trong sản xuất thức ăn

PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu NTTS III (Viện III) cho biết, khu vực các tỉnh miền Trung (từ Thừa Thiên – Huế đến Bình Thuận) hiện có diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên 60.000ha với điều kiện thiên nhiên ưu đãi (độ mặn cao và ổn định quanh năm). Các loại hình thủy vực, đối tượng nuôi, hình thức nuôi khu vực này đang ngày một đa dạng hơn, tuy vậy vẫn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn nơi đây.

Bên cạnh đó, nhu cầu thị trường về sản phẩm hải sản ngày càng tăng cao, nghề nuôi hải sản ở nước ta đang có xu hướng phát triển nhanh chóng. Trong đó hình thức nuôi công nghiệp đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm định hướng đầu tư, mở rộng diện tích nuôi hải sản công nghiệp ở các địa phương. Do vậy, nhu cầu thức ăn công nghiệp cho nuôi hải sản với số lượng lớn là xu thế tất yếu trong thời gian trước mắt và tương lai.

Mới đây, Viện đã nghiên cứu thành công đề tài “Công nghệ sản xuất thức ăn ương nuôi cá chình” góp phần đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp trong các doanh nghiệp nuôi lớn và một phần sẽ cung cấp thức ăn cho các trang trại có quy mô nhỏ ở các địa phương.

Hiện nay việc nuôi cá chình chủ yếu dựa vào thức ăn tươi, cá tạp tự chế biến (ước tính 100.000 tấn/năm) mang lại tác động xấu đến môi trường cũng như hiệu quả kinh tế. Một số trang trại tiến hành nhập khẩu thức ăn công nghiệp từ nước ngoài, tuy nhiên giá thành cao, thủ tục phức tạp và không chủ động nguồn thức ăn.

Theo ông Ninh, việc nghiên cứu công nghệ sản xuất thức ăn nuôi cá chình từ enzyme và một số nguyên liệu sẵn có ở Việt Nam là một tiến bộ mới, là bước đột phá trong việc ứng dụng, phát triển ngành sản xuất thức ăn nuôi thủy sản nói chung và lĩnh vực chế biến thức ăn cá chình nói riêng. Do từ trước đến nay chưa có nghiên cứu ứng dụng, công ty hoặc cơ sở nào sản xuất thức ăn cho cá chình từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước có bổ sung enzyme.

Ứng dụng enzyme để sản xuất thức ăn tổng hợp góp phần đảm bảo nghề nuôi phát triển bền vững. Sử dụng nguyên liệu sẵn có trong nước để sản xuất thức ăn, giảm sự phụ thuộc vào thức ăn nhập khẩu, tạo ra sản phẩm hàng hoá có tính cạnh tranh cao (giá thành thấp hơn 20 – 25% so với thức ăn nhập ngoại), làm tăng hiệu quả kinh tế, tăng lợi nhuận cho người nuôi, tiến tới thay thế thức ăn cá tạp nuôi cá chình, góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá chình ở nước ta phát triển theo hướng công nghiệp, bền vững.

Ngoài ra, Viện đã xây dựng được quy trình công nghệ và mô hình thiết bị sản xuất thức ăn nuôi cá chình, tạo ra được công thức thức ăn có hiệu quả kinh tế cao, hoàn thiện mô hình thiết bị dây chuyền sản xuất thức ăn công suất 500 kg/giờ, thay thế việc nhập máy móc từ nước ngoài.

Bên cạnh hiệu quả về nghiên cứu tạo ra thức ăn tổng hợp cho cá chình, mới đây Viện III đã xây dựng thành công quy trình nuôi thương phẩm tôm hùm bông bằng thức ăn công nghiệp trong hệ thống bể sử dụng nước tuần hoàn.

PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh cho hay, sau 2 năm thực hiện, Viện đã thiết kế và vận hành hiệu quả hệ thống nuôi gồm bể nuôi và bể lọc sinh học, và chọn lựa được các thiết bị phụ trợ như máy bơm, máy xử lý nước, máy ổn định nhiệt độ môi trường nuôi, máy cung cấp ô xy nguyên chất, thiết bị lọc…

Bể lọc sinh học sử dụng vật liệu sẵn có trong nước có hiệu suất lọc khá tốt, duy trì ổn định các yếu tố môi trường nuôi phù hợp cho tôm hùm bông phát triển, với tỉ lệ sống của tôm hùm bông nuôi trong bể đạt 70%.

Đến nay, nhóm tác giả bước đầu đã chủ động sản xuất được thức ăn công nghiệp dạng viên sử dụng 100% nguyên liệu sẵn có trong nước, thay thế hoàn thức ăn tươi. Chi phí thức ăn để sản xuất 1kg tôm hùm bông ước tính 300.000 – 400.000 đồng/kg tùy vào cỡ tôm.

Ông Ninh cho biết thêm, nuôi tôm hùm trong bể tuần hoàn nước bằng thức ăn công nghiệp là mô hình nuôi tiên tiến, chủ động kiểm soát chất lượng đầu vào (nước, thức ăn) do đó giúp giảm thiểu dịch bệnh và tạo sản phẩm sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Mô hình nuôi trong bể giúp hạn chế được rủi ro như bão, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, ít lệ thuộc vào thiên nhiên là hướng đi phù hợp để phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm của Việt Nam.

Phát triển công nghệ di truyền và sản xuất giống

Bên cạnh việc nghiên cứu cải tiến các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất thức ăn, thì việc ứng dụng công nghệ trong di truyền chọn giống là rất cần thiết nhằm nâng cao tỷ lệ sống và độ tăng trưởng cho các loại thủy sản nuôi.

PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh cho biết, ở Việt Nam, từ thập niên 90 các nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá chẽm đã bắt đầu nghiên cứu, đến nay công nghệ sản xuất giống cá chẽm đã đạt những kết quả nhất định. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đang lưu giữ đàn cá bố mẹ là sản phẩm của đề tài di truyền chọn giống cá chẽm.

Đàn cá này có tốc độ tăng trưởng nhanh so với đàn cá bố mẹ trước đây từ 10 – 15%, đã và đang được sử dụng cho việc sản xuất giống với công suất trại giống 2 – 3 triệu cá giống 3 – 5 cm/năm.

Sản xuất thành công giống cá vua song

Bên cạnh sản xuất thành công giống cá chẽm, mới đây, Viện III đã hợp tác nghiên cứu với Philippines và Úc phát triển công nghệ sinh sản nhân tạo cá song vua (cá mú nghệ), với mục tiêu xây dựng quy trình sản xuất giống ổn định và đạt hiệu quả cao để góp phần phát triển bền vững nghề nuôi cá song vua tại Việt Nam.

Ông Ninh cho rằng, một trong những khó khăn trong việc phát triển nghề nuôi cá mú nghệ chủ yếu do số lượng con giống sản xuất ra trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu nuôi nên vẫn còn phụ thuộc vào nguồn giống nhập ngoại. Hiện nay, trong khu vực chỉ có Đài Loan có thể sản xuất giống đối tượng này với số lượng lớn và xuất giống đi các nước.

Đề tài phát triển công nghệ sinh sản nhân tạo cá song vua đã nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ. Cá bố mẹ đưa vào thuần dưỡng và nuôi vỗ có trọng lượng từ 20 – 35kg, tuổi cá từ 3 – 4 năm, được tuyển chọn từ đánh bắt ngoài tự nhiên. Thức ăn cho cá bố mẹ là các loại thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao như cá tươi, mực, cua, ghẹ…

Ngoài nghiên cứu thành công về cá giống bố mẹ, gần đây Viện III đã tiến hành nghiên cứu sản xuất giống các đối tượng nhuyễn thể như trai ngọc nữ, trai tai tượng…

Chuyên gia thực hiện kỹ thuật cấy ngọc vào trai ngọc nữ

Từ tháng 7/2017, trong khuôn khổ hợp tác với Úc, dự án phát triển nuôi trai cấy ngọc bán cầu tại bắt đầu thực hiện tại Viện III đã được các chuyên gia từ Úc và cán bộ Viện III tiến hành cho trai sinh sản. Kết quả thu được 5 triệu ấu trùng chữ D, và thu được 400 ngàn con giống điệp quạt với kích cỡ 1 – 3mm, hiện con giống đang được ương nuôi tại Viện III.

Ngoài ra, dự án cũng thử nghiệm cấy ngọc và thu được 71 viên ngọc bán cầu. Dự kiến trong năm 2018, dự án sẽ thực hiện việc ương giống, cấy ngọc quy mô lớn và chuyển giao công nghệ đến người dân và doanh nghiệp.

PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh cho biết, với những chức năng và nhiệm vụ chính như nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo, hợp tác quốc tế, tư vấn dịch vụ về bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản, nuôi trồng, khai thác thủy sản, chế biến thủy sản… trong giai đoạn 2013 – 2016, Viện Nghiên cứu NTTS III đã chủ trì thực hiện 53 nhiệm vụ KHCN các cấp (11 nhiệm vụ cấp Nhà nước, 18 cấp Bộ, 18 cấp Tỉnh và 6 nhiệm vụ nhánh) và 9 nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng. Trong đó, tập trung vào các vấn đề chính như chọn giống, sản xuất giống, thức ăn trong nuôi trồng thủy sản…

Nguồn: Nông Nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.