Các biện pháp phòng chống rét cho mạ, lúa mới cấy

Vụ lúa xuân miền Bắc thường gặp đợt không khí lạnh với cường độ mạnh, có thể xuất hiện rét đậm, rét hại với nền nhiệt hạ thấp (3-5ºC) kèm theo mưa, làm ảnh hưởng đến diện tích mạ và lúa mới cấy.

Để hạn chế thấp nhất thiệt hại trong sản xuất, bà con nông dân cần thực hiện một số biện pháp kỹ thuật phòng chống rét cho mạ và diện tích lúa mới cấy như sau:

Đối với diện tích lúa cấy sớm: Cần tiếp tục duy trì mức nước trên mặt ruộng để tăng cường khả năng chống rét cho lúa mới cấy cũng như giúp cho lúa đẻ nhánh sớm và đẻ nhánh tập trung khi thời tiết nắng ấm trở lại.

Với diện tích vừa cấy xong: Bà con nông dân cần duy trì lớp nước mặt 3-5cm để giữ ấm cho chân lúa nhằm tăng cường khả năng chống rét. Khi nắng ấm trở lại, lúa bén rễ hồi xanh, vươn lá mới và ra rễ trắng thì mới tiến hành bón phân như bình thường.

Với những diện tích chưa cấy, cần tiếp tục duy trì độ ẩm. Cần che phủ nilon trong cho diện tích mạ và thường xuyên kiểm tra để đảm bảo độ kín của nilon. Có thể sử dụng từ 100-200g super lân hòa với 20 lít nước để  tưới cho mạ nhằm tăng cường sự phát triển của bộ rễ và tăng khả năng chống rét cho mạ. Đặc biệt lưu ý trong điều kiện rét đậm, rét hại, tuyệt đối không bón bất kỳ loại phân đạm nào cho mạ và lúa sau cấy.

Với diện tích lúa gieo thẳng: Tiếp tục duy trì nước ở rãnh, đảm bảo mặt luống luôn đủ ẩm, nếu có điều kiện dùng tro bếp, rơm rạ bón đều trên mặt luống để tăng cường khả năng chống rét.

Đối với những diện tích gieo thẳng mà mộng mạ chưa gieo: trong điều kiện thời tiết rét đậm, bà con cần phải hãm mộng mạ, bằng cách rải đều ra nền cứng với độ dầy từ 7 – 10cm để hạn chế sự phát triển của mộng mạ và tranh thủ những lúc buổi trưa trời hửng nắng thì tiến hành gieo.

Ngoài ra, cần chuẩn bị tốt khâu làm đất, vệ sinh đồng ruộng nhằm hạn chế lây truyền sâu bệnh cho vụ sau, nhất là bệnh đạo ôn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen, sâu đục thân, ốc bươu vàng. Đẩy nhanh tiến độ thu hoạch cây trồng vụ Đông 2015, để giải phóng quĩ đất gieo cây lúa Đông Xuân 2015-2016 đảm bảo trong khung thời vụ tốt nhất.

Chuẩn bị tốt nhất mọi điều kiện để lấy nước dự trữ và đổ ải phục vụ gieo cấy lúa, đồng thời cần huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ làm đất, để khi nắng ấm trở lại thì gieo sạ và tiến hành cấy cho kịp thời vụ.

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

IRRI phát triển thành công giống lúa siêu chịu mặn

Viện nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI), có trụ sở ở Philippines, cho biết các nhà khoa học của viện này đã phát triển thành công giống lúa siêu chịu mặn, có thể giúp người nông dân trồng lúa tại các khu vực duyên hải đang bị bỏ hoang do sự xâm lấn của nước biển.

Theo IRRI, các nhà khoa học đang trong quá trình phát triển hoàn thiện giống lúa trước khi đem trồng thử nghiệm một cách rộng rãi.

Giống lúa mới này có khả năng chịu mặn cao gấp hai lần so với các giống lúa khác và dự kiến sẽ đến tay người nông dân trong vòng từ 4 đến 5 năm nữa.

Giống lúa chịu mặn này được lai giữa các giống lúa dại ngoại lai được tìm thấy tại các khu vực nước lợ với một giống lúa được phát triển trong viện (IR56). Kết quả là “giống lúa mới có thể đào thải chất mặn từ dưới đất thông qua việc tiết muối ra ở trên lá.”

Các nhà khoa học hy vọng giống lúa này sẽ giúp người nông dân tận dụng được các khu vực đất nhiễm mặn bị bỏ hoang để trồng trọt.

Cùng với lúa mì và ngô, lúa gạo được coi là một trong ba loại lương thực thiết yếu, cung cấp thức ăn cho con người trên khắp thế giới.

Hiện các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu nhằm tạo ra các giống lúa cho năng suất cao.

Nguồn: Khoahoc.tv được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn

Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện nông nghiệp cận nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn, theo China’s People’s Daily. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường.

Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Thân cây lúa cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét.

Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án, cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt.

Các nhà khoa học Trung Quốc sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến gây tạo (mutation induction) và lai giống giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng.

“Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

Nguồn: VnExpress được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn sử dụng bảng so màu lá để bón phân đạm cho lúa cao sản

1. Thời điểm sử dụng bảng so màu

  • Bón phân lần thứ 2: Lúc 20 ngày sau khi bắt đầu tiến hành so màu lá lúa. Nếu lúa có màu ở khung số 4 trở lên thì không cần bón đạm. Sau đó 2-3 ngày so lại, nếu lúa vẫn có màu xanh ở khung số 4 trở lên vẫn chưa cần bón đạm. Sau đó cứ 2 ngày tiếp tục so lại màu cho đến khi lá lúa có màu khung từ số 3 trở xuống mới bón.
  • Bón phân lần thứ 3: Lúc 40 ngày sau sạ bắt đầu tiến hành so màu lá lúa. Cách xác định thời điểm bón phân tương tự như hướng dẫn ở lần bón thứ 2.
  • Các lần bón phân kế tiếp (nếu có): Khi lúa trổ xong đang vào chắc, nếu màu lá ở khung số 3 trở xuống mới cần bón thêm đạm. Lượng phân bón thêm là 2-3 kg urê/ công. Lúc này lúa bị nhiễm bệnh thì bón thêm đạm.

Chú ý: Cần bón đủ lượng phân lân và kali vào các thời điểm đúng theo hướng dẫn chi tiết trong quy trình bón phân lúa cao sản.

2. Cách so màu trong ruộng

  • Nên so màu vào cùng thời gian (vào sáng sớm hoặc chiều mát). Khi so, lưng của người so màu hướng về phía mặt trời để bóng của người đó che mát cho lá lúa để không bị phản sáng so màu không chính xác.
  • Chọn ngẫu nhiên ít nhất 20 lá lúa (lá trên cùng khi mà lá kế tiếp đã ra được 2/3 phiến lá) từ 4-5 vị trí khác nhau trên ruộng.
  • So màu bằng cách đặt phần của lá lúa ở khoảng cách 1/3 hoặc 2/5 từ chóp lá lên từng khung màu trong bảng. Không được tách đôi làm hư lá lúa. Ghi nhận số khung màu của từng lá rồi tính trị số trung bình của 20 lá đã được so.
  • Nếu trị số trung bình ở dưới khung màu chuẩn (khung màu chuẩn là khung số 4). Khi lúa có màu ở khung chuẩn thì không cần bón đạm, nhưng khi lúa có màu dưới khung chuẩn (khung 1,2 & 3) là lúc lúa thiếu đạm nên cần bón ngay thêm lượng đạm.

Bảng so màu lúa

Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm thổ nhưỡng của từng địa phương mà thời điểm thực hiện việc so màu và bón phân lần 2, lần 3 có thể thực hiện sớm hoặc muộn hơn so với khuyến cáo.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh vàng lá lúa

Hiện nay do điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng oi bức kéo dài, xen kẽ những trận mưa với cường độ lớn và hạn nhiều ngày kết hợp với phương pháp canh tác chưa hợp lý làm hàng vạn ha lúa mùa sớm đang giai đoạn làm đông, lúa mùa chính vụ đang đẻ nhánh bị nhiễm bệnh vàng lá lúa.

Do khó khăn trong việc xác định nguyên nhân gây nên các triệu chứng vàng lá nên cả cơ quan chức năng và nông dân đều lúng túng trong công tác phòng trừ. Tuy nhiên đây không phải là đối tượng lạ nguy hiểm nào đáng ngại.

Bệnh do một số nguyên nhân chính gây ra như ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn, do virus, do nấm, do vi khuẩn và do điều kiện khí hậu bất lợi.

1. Vàng lá do virus

Thường thì khi thấy vàng lá, cơ quan chuyên môn gửi mẫu đi test virus. Tuy nhiên ở miền Bắc có thể loại trừ khả năng bệnh vàng lá do virus (vàng lùn). Do bệnh vàng lùn phải có sự phối trộn của 3 loại virus lùn lúa cỏ, lùn xoăn lá do rầy nâu truyền bệnh và bênh Tungro do rầy xanh đuôi đen truyền bệnh. Trong những năm gần đây việc đồng thời xuất hiện dịch rầy nâu và rầy xanh đuôi đen không đáng kể.

2. Vàng lá do ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn

Triệu chứng biểu hiện giống bệnh vàng lùn, cây lúa bị vàng và lùn. Khi gặp trường hợp này, chúng ta chỉ cần nhổ khóm lúa lên, rửa sạch rễ và kiểm tra. Nếu thấy rễ đen (ngộ độc hữu cơ), đỏ vàng (ngộ độc phèn) kèm theo rễ bị thối, ít hoặc không có rễ trắng (rễ mới), cây không hút đủ nước và dinh dưỡng gây nên hiện tượng vàng và lùn xuống.

Bệnh vàng lá làm cho lúa vàng và lùn xuống

Khuyến cáo người dân ngừng bón đạm, rút nước ra khỏi ruộng nếu điều kiện thủy lợi cho phép (ngộ độc phèn cần thay nước nhiều lần). Bón khoảng 400 kg/ha vôi bột đã và để ruộng khô nứt chân chim sau đó cho nước vào ruộng.

Trường hợp lá lúa dày quá, không thể bón vôi thì nên rút nước ra khỏi ruộng, sau đó đắp bờ và hòa vôi bột đầu dòng nước chảy vào ruộng. Phun phân bón lá có hàm lượng lân cao (siêu lân). Sau 1 tuần bón thêm khoảng 200 kg/ha Super lân. Có thể phun phòng trừ các nấm bệnh bằng các thuốc như Nevo 300EC, Tilt Super 300EC, Anvil 5SC nếu cần.

3. Vàng lá do nấm

Tác nhân chính là nấm Gonatophragmium sp, bắt đầu giữa lá lúa xuất hiện một chấm vàng nhỏ. Sau đó chấm vàng to dần lên, lan ngược đỉnh lá lúa, sọc vàng nhỏ dần khi hướng lên chóp lá. Bệnh nặng nửa trên có thể bị vàng hết. Để phòng trừ đối tượng này, chúng ta có thể sử dụng các thuốc như Ridomil Gold 68WG, Nevo 330EC, Tilt Super 300EC, Amistar Top 325SC, Score 250SC.

Vàng lá lúa do nấm

4. Vàng lá do vi khuẩn

Hiện nay đang phổ biến trên lúa do vi khuẩn Xanthomonas oryzae và Xanthomonas oryzicola gây ra. Cơ quan chỉ đạo và nông dân đang lúng túng và thấy như một căn bệnh lạ.

Triệu chứng ban đầu phía bìa lá chuyển vàng trước, sau đó phần chóp vàng và hóp lại như mo cau, vết bệnh lan dần vào trong theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng lục. Giữa mô bệnh và mô khỏe có ranh giới rõ ràng, giới hạn theo đường gợn sóng màu vàng, có khi chỉ một đường viền màu nâu đứt quãng, rất dễ nhầm lẫn với bệnh vàng lá và khô đầu lá do sinh lý.

Vàng lá lúa do vi khuẩn

Thông thường chúng ta nghĩ rằng bệnh bạc lá, là phải gây nên bạc trắng lá ngay. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào thời tiết, giống lúa. Triệu chứng lá bạc là giai đoạn cuối của bệnh bạc lá, lúc này các mô lá nhiễm bệnh đã chết. Nếu ẩm độ cao, tế bào trương nước chúng ta ít bắt gặp giai đoạn lá chuyển vàng và chỉ thấy lá bị khô trắng lúc nắng lên.

Ngoài ra, hiện nay trên đồng ruộng cũng đang xuất hiện bệnh đốm sọc vi khuẩn (Xanthomonas oryzicola). Triệu chứng là những sọc nhỏ ngắn khác nhau, chạy dọc theo các gân lá. Lúc đầu vết sọc xanh trong giọt dầu, lúc đầu chuyển màu nâu, xung quanh sọc màu nâu có các quầng vàng. Nếu lá bị nhiều đốm sọc tập trung thì các quầng vàng liên kết nhau làm lá lúa bị vàng.

Các loài vi khuẩn xâm nhiễm chủ yếu qua vết thương cơ giới. Do mưa, gió các lá lúa cọ xát vào nhau gây tổn thương. Vì thế phần hai mép lá thường bị tổn thương trước và nhiễm bệnh trước (người ta gọi bệnh cháy bìa lá).

Có thể phòng trừ bằng kháng sinh như kasugamicin, không nên dùng thuốc có chứa streptomincin vì kháng sinh này là thuốc chữa bệnh cho người, nếu ăn thực phẩm nhiễm kháng sinh này rất nguy hiểm. Hoặc có thể sử dụng nhóm thuốc sát trùng như Bronopol (Xantocin 40WP).

Ngoài ra, điều kiện thời tiết bất lợi như mưa nắng bất thường, nhiệt đổi thay đổi đột ngột, gió lào, các chân đất sâu trũng, đọng nước, đất cát dễ nhiễm vàng lá sinh lý.

Nguồn nongnghiep.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

 

Việt Nam hoàn toàn làm chủ được công nghệ sản xuất giống lúa

So với thế giới, Việt Nam đã có thể làm chủ được tới 70,5% công nghệ sản xuất giống. Trong đó lúa thuần được xem là lợi thế – đạt 90%, còn lúa lai đã làm chủ công nghệ tới 66%.

Đó là số liệu được đưa ra trong đề tài “Đánh giá hiện trạng, năng lực công nghệ và nhu cầu đổi mới công nghệ trong tạo giống và sản xuất lúa lai tại miền Bắc và duyên hải miền Trung” do thạc sỹ Phạm Ngọc Lý – Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần giống cây trồng Trung ương (Vinaseed) – làm chủ nhiệm. Đề tài thuộc chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 – một trong các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia đang được triển khai tại Bộ Khoa học và Công nghệ.

Các giống lúa đặc sản được bảo tồn tại Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng – Học viện Nông nghiệp Việt Nam

“Việt Nam hoàn toàn làm chủ được công nghệ sản xuất giống lúa. Tuy nhiên, lượng giống lúa thuần đủ cung cấp cho sản xuất trong nước, trong khi đó lúa lai chỉ đảm bảo cung ứng đủ 33% nhu cầu giống, lượng còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài (Trung Quốc, Ấn Độ…)” – Phó Tổng Giám đốc Vinaseed cho biết.

Ông Phạm Ngọc Lý nêu một thực trạng, qua khảo sát 17 công ty (thuộc 2 khu vực miền Bắc và duyên hải miền Trung) thì chỉ Công ty cổ phần giống cây trồng Trung ương và Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình là có hệ thống máy, chế biến và đóng gói công nghệ hiện đại. Công ty cổ phần giống cây trồng trung ương có công suất sấy và chế biến hơn 30.000 tấn giống lúa/năm và Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình có công suất 15.000 tấn giống lúa/năm. Hệ thống máy sấy, chế biến và đóng gói chủ yếu nhập khẩu từ các nước châu Âu (Đức, Đan Mạnh). Vì vậy, chất lượng hạt giống lúa của 2 công ty trên rất có uy tín trên thị trường.

Đa số các công ty giống còn lại có hệ thống máy sấy, chế biến và đóng gói tương đối đơn giản, hằng năm chủ yếu sản xuất, kinh doanh từ vài trăm tấn đến 5.000-7.000 tấn giống lúa các loại.

“Vì vậy, các công ty trong thời gian tới muốn tồn tại và phát triển được bắt buộc phải đầu tư hơn nữa về công nghệ cũng như công cụ máy móc để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường giống lúa ở nước ta” – ông Lý đề xuất.

Nguồn: Khoahocphattrien được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nấm xanh diệt rầy nâu

Ông Hồ Đắc Thọ, Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV TT-Huế cho biết, Chi cục vừa xây dựng thành công mô hình sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa đạt hiệu quả cao, mở ra triển vọng phát triển nền nông nghiệp sạch, bền vững… Trong lúc nhiều diện tích lúa trên địa bàn TT- Huế trong thời gian qua bị sâu bệnh, rầy nâu gây hại, thì những chân ruộng ở HTXNN Phú Đa I, huyện Phú Vang do sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu nên cả ruộng lúa óng vàng, trĩu hạt, hứa hẹn một vụ mùa cho năng suất cao.

Trong quá trình chăm sóc cây lúa, người nông dân ở đây cũng không còn nỗi lo như trước vì chịu tác động của thuốc BVTV làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Đầu vụ HT vừa qua, Chi cục BVTV TT- Huế đã xây dựng mô hình sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa trên diện tích 2 ha ở các xã, thị trấn như: Phú Đa (huyện Phú Vang), xã Thủy Lương (thị xã Hương Thủy), xã Hương Phong (thị xã Hương Trà)và xã Quảng Vinh (huyện Quảng Điền).

Nguyên liệu SX nấm xanh là nguồn nấm cấp I. Trước kia, nguyên liệu phải mua từ ĐH Cần Thơ. Hiện nay, Chi cục BVTV TT- Huế là đơn vị đầu tiên ở khu vực miền Trung đã chủ động SX được nguồn nấm cấp I. Cách làm nấm xanh khá đơn giản. Trước hết, lấy gạo hoặc tấm để ngâm ủ trong nước trong thời gian từ 30 – 40 phút, sau đó vớt ra để ráo và chia vào các túi ni lông, bình quân nửa kg/túi, rồi dùng các nút bông gòn bao bọc các miệng túi để tránh nước vào và tiến hành hấp khử trùng. Nguồn giống cấp I được nuôi cấy trong gạo và tấm từ 7- 14 ngày.

Thực tế, kết quả sử dụng nấm xanh cho thấy nấm phát triển tốt, ký sinh gây hại rầy nâu đạt hiệu quả cao. Theo ước tính ban đầu,việc sử dụng nấm xanh phòng trừ rầy nâu đã tiết kiệm công sức lao động, giảm chi phí phun thuốc từ 700.000 – 900.000 đồng/ha so với dùng thuốc hoá học ở vụ HT này.

ông Nguyễn Duy Bờ, hộ nông dân ở HTXNN Phú Đa I,được chọn làm điểm mô hình này cho biết: “Qua triển khai trên diện tích lúa vụ HT, tôi nhận thấy mô hình nấm xanh mang lại hiệu quả rõ rệt. Nhìn chung đồng ruộng không có rầy đe dọa, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Vì vậy, đề nghị các ngành chức năng địa phương cần nhân rộng mô hình này bởi, ngoài giảm chi phí SX cho bà con nông dân thì còn giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường do sử dụng thuốc BVTV”.

ông Hồ Đắc Thọ đánh giá: “Qua theo dõi thực tế trên đồng ruộng, hiệu quả của nấm xanh trừ rầy đạt tương đối khá cao, từ 70 – 75%. Trước đây, bà con thường sử dụng thuốc hóa học để phun trừ rầy, nhưng phun rất nhiều lần, vừa tốn kém trong chi phí, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như môi trường sinh thái, tuy nhiên rầy vẫn bộc phát ở thời điểm cuối vụ rất lớn.

Qua 2 mô hình sử dụng nấm xanh trừ rầy đối chứng với nông dân làm theo tập quán địa phương ở 4 điểm trên địa bàn toàn tỉnh thì mô hình rất khả quan và mang lại hiệu quả cao”.

ông Thọ cho biết thêm, việc sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa là một giải pháp tốt, hạn chế ô nhiễm môi trường, bảo tồn thiên địch có ít trên đồng ruộng, góp phần tạo ra sản phẩm lúa sạch.

Trong những vụ mùa tiếp theo sẽ đề nghị Sở NN-PTNT tỉnh TT- Huế cùng các ngành chức năng trong tỉnh tạo điều kiện để Chi cục chuyển giao kỹ thuật SX nấm xanh và ứng dụng sản phẩm nấm xanh vào SX để quản lý rầy nâu hại lúa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Bệnh vi-rút vàng lùn, lùn xoăn lá trên lúa: bệnh mới…

Bệnh vàng lùn ở cây lúa là một bệnh mới, do sự phối trộn của 3 loại vi-rút là Lùn Lúa cỏ, Lùn xoăn lá truyền bệnh do rầy nâu và Tungro do rầy xanh truyền bệnh. TS Phạm Văn Dư, Bộ Môn Bệnh cây-Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) giải thích thêm về nguyên nhân gây bệnh vàng lùn ở cây lúa…

Từ năm 1989, ở ĐBSCL có xuất hiện một triệu chứng cây lúa bị Vàng và Lùn, tỉ lệ nầy có thể từ 5-10 % hoặc 50 % trên một số giống và một số ruộng, một số giống như OM CS 96, OM 997-6, OM 1248 được ghi nhận nhiễm bệnh. Tuy nhiên điều đáng quan tâm ở đây là, triệu chứng trên lại có cùng đỉnh cao xuất hiện của quần thể rầy nâu…

Như vậy, có thể đây là một bệnh mới, cần có những nghiên cứu để kết luận nhằm tránh sự lây lan bệnh trên diện rộng. Bệnh xuất hiện thông thường với tỉ lệ rất thấp, nhưng có những năm gây hại khá lớn.

Theo ghi nhận vào cuối tháng 12/1999, có đến 13.120 ha lúa bị nhiễm ở các tỉnh Bến tre, TP.HCM, Bạc Liêu và Long An. Riêng TP HCM có 242 ha bệnh vàng lùn và không trổ được.

Trong năm 1999, Hội nghị Cục BVTV phía Nam gọi là bệnh “Vàng Lùn”, chưa rõ tác nhân.

Vừa qua, từ đầu vụ Hè thu 2006, dịch bệnh lại phát triển và lan rộng trên hầu hết các tỉnh ĐBSCL, với mật số rầy nâu rất cao, diện tích bị nhiễm bệnh vàng lụi riêng tại Đồng Tháp với thiệt hại dưới 30 % là 613 ha, và trên 30 % là 2.636 ha (trong đó, phải thiêu huỷ khoảng 500 ha)…

Bệnh vàng lùn do sự phối trộn của 3 loại vi-rút

Ở Viện lúa ĐBSCL, trong những năm đó còn thiếu phương tiện, nhất là máy đọc ELISA và kháng huyết thanh của một số dòng vi-rút trên lúa như Tungro (RTSV, RTBV), Lùn xoăn lá (RRSV) Lùn lúa cỏ (RGGSV), Vàng lụi (RDV, rice dwarf virus) cho nên chỉ tiến hành thu thập mẫu bệnh và gửi sang Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI, Philippines.

Từ tháng 4/1996 đến tháng 1/1997, trong tổng số 163 mẫu gởi đi, có phản ứng dương tính với 3 loại vi-rút RTBV, RTSV (Tungro) và Lùn xoăn lá RRSV với tỉ lệ rất thấp 4 mẫu/140.

Tháng 1/2005, chúng tôi mời Tiến sĩ R.C. Cabunagan và I.R. Choi, 2 nhà vi-rút học của Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI) sang, kết quả phân tích cho thấy trong số 52 mẫu lúa bị bệnh, chỉ có 1 mẫu có phản ứng dương tính với RTSV (tungro) và 7 mẫu với bệnh Lùn lúa cỏ (RGSV)

Tháng 3/2006, chúng tôi có mời thêm Tiến sĩ Hong Soo Choi, chuyên về vi-rút, bộ môn bệnh cây, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Quốc gia, Suwon, Hàn Quốc cùng Tiến sĩ I. R. Choi của IRRI, sang lấy mẫu và tiếp tục thực hiện các giám định về bệnh bằng các kỹ thuật chuyên môn.

Kết quả về kháng huyết thanh cho thấy có nhiều triển vọng để có thể đi đến những kết luận bước đầu.

Kết quả mẫu bệnh vàng lùn thu thập được tại Tiền Giang do Trung Tâm BVTV Phía nam hướng dẩn và lấy mẫu, Chi Cục BVTV An Giang hướng dẩn và thu mẫu: 2 /30 mẫu có phản ứng với Tungro RTSV, 27/30 mẫu có phản ứng với Lùn lúa cỏ, 19/30 mẫu có phản ứng với Lùn xoăn lá trên cùng cây lúa bệnh.

Như vậy sau gần 17 năm xuất hiện và 10 năm nghiên cứu, cho đến bây giờ, chúng ta có thể kết luận bước đầu: Bệnh vàng lùn là một bệnh mới do sự phối trộn của 3 loại vi-rút là Lùn Lúa cỏ, Lùn xoăn lá truyền bệnh do rầy nâu và Tungro do rầy xanh truyền bệnh.

Thí nghiệm lây bệnh trở lại do Tiến sĩ I.R. Choi thực hiện tại nhà lưới IRRI với sự phối trộn của 3 loại vi-rút trên cho cùng triệu chứng như đã thấy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Trị bệnh vàng lùn cho cây lúa

Bệnh do vi-rút gây ra là một bệnh rất khó trị và không có loại thuốc hoá học đặc trị nào như các dạng bệnh khác.

Bệnh vàng lùn mới hiện nay phức tạp hơn vì liên quan nhiều thành phần trong hệ sinh thái như: (1) Quần thể rất cao của rầy nâu, (rầy xanh) (2) Sự phối hợp của 3 loại vi-rút (xoăn lá, Lúa cỏ và Tungro) (3) Môi trường sản xuất thâm canh, nhiều vụ kéo dài liên tục, bón phân đạm cao và (4) Giống lúa nhiễm rầy, nhiễm vi-rút. Do đó cần thực hiện một số biện pháp sau:

Trước hết phải thực hiện canh tác lúa theo tinh thần “3 G, 3 T” (3 giảm, 3 tăng)

Trong đó, giảm bón thừa Ni-tơ, giảm mật độ sạ cấy, giảm sử dụng thuốc hóa học nhằm tạo thế cân bằng sinh học trên diện rộng. Đồng thời, cần bón phân cân đối tạo sức đề kháng cho cây lúa, sạ cấy thưa tạo điều kiện cho ánh sáng xuyên qua tán, sương mù sẽ tan nhanh trên lá, do nhiệt độ tăng, ẩm độ giảm trong tán tạo thế bất lợi cho sâu bệnh phát triển.

Ch

uyên gia Viện lúa ĐBSCL và chuyên gia nước ngoài thu thậpố diện tích lúa bị nhiễm bệnh vì rầy nâu có thể tiếp tục chích hút cây lúa bị bệnh và mang vi-rút phát tán đi nơi khác, cây lúa bị bệnh còn tồn tại trên ruộng sẽ là mầm móng chứa vi-rút, cày ải phơi đất sẽ diệt mầm vi-rút trong gốc rạ.

Không trồng giống nhiễm rầy, nhiễm vi-rút trên diện rộng. Gieo sạ đồng loạt trên diện rộng lớn nhằm hạn chế di chuyển của quần thể rầy. Không nên gieo trồng rãi rác có liên quan đến vụ 3, chỉ nên tập trung 2 vụ. Dịch bệnh vàng lùn phát tán có liên quan mật thiết đến thời vụ gieo sạ liên tục trên ruộng, cả không gian và thời gian.

Tăng cường sức đề kháng của lúa đối với vi-rút, sử dụng một số chất kích kháng có thể hạn chế sự phát triển của vi-rút trong cây lúa như K2HPO4, CuCl2 cho xử lý hạt, Humid acid (Risopla V) 1-1,5 kg/ha bón lót thì càng tốt.

Sử dụng thuốc hóa học có thể làm giảm mật số rầy nhưng vẫn không thể giải quyết được bệnh vàng lùn, vì sự truyền bệnh có thể xãy ra giữa rầy-và cây lúa trong khoảng thời gian rất ngắn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Thành phần dược tính một giống lúa đỏ tại đồng tháp

Với những ưu điểm nổi trội về hàm lượng chất dinh dưỡng, giống lúa đỏ mang tên Ngọc Đỏ Hương Dứa do ông Nguyễn Anh Dũng, Giám đốc HTX giống Định An, huyện Lấp Vò, lai tạo đang tạo được sức hút lớn từ thị trường trong và ngoài nước. Hiện tại, không những thị trường trong nước có nhu cầu cao với loại gạo đỏ quý này mà các đối tác ở Châu Âu cũng đang đặt hàng với sản lượng lớn.

Giống lúa đỏ tại Đồng Tháp

Anh Dũng chia sẻ: “Trong một lần tình cờ đi thăm đồng, tôi phát hiện được một cá thể lúa có mùi thơm lạ. Sau đó tôi mang về nghiên cứu, tuyển chọn, phân ly và nhân giống”. Sau khi tuyển chọn được dòng thuần nhất, năm 2014 anh Dũng tiến hành sản xuất hàng hóa trên giống lúa có màu đỏ và mùi thơm lá dứa này. So với những giống lúa cùng dòng trên thị trường thì giống lúa Ngọc Đỏ Hương Dứa này có hạt dài, mùi thơm lá dứa đậm, thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất đạt từ 6 – 7 tấn/ha.

Theo kết quả phân tích của Trường ĐH Cần Thơ cho thấy các chỉ tiêu dinh dưỡng của gạo Ngọc Đỏ Hương Dứa đều vượt trội so với gạo trắng cao cấp Jasmine. Trong đó, hàm lượng chất sắt của gạo này tới 26,4mg/kg, cao hơn 81,8% so với gạo trắng và bằng hàm lượng chất sắt có trong 0,9kg thịt bò. Còn hàm lượng canxi là 137mg/kg, cao gần gấp ba lần gạo trắng. Các khoáng chất khác đều cao hơn gạo trắng, có tác dụng kiểm soát huyết áp, giảm nguy cơ các bệnh tim mạch.

Ông Nguyễn Phước Tuyên, Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học và Thông tin, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh cho biết: “Hiện nay, giống lúa đỏ Ngọc Đỏ Hương Dứa của HTX giống Định An đang có nhiều triển vọng bởi giống lúa này sở hữu lợi thế về nhiều mặt như: đặc tính sinh trưởng, phẩm chất gạo… Đặc biệt ưu điểm mà thị trường đánh giá cao đối với giống lúa này là hàm lượng protein cao gấp đôi so với gạo trắng. Ngoài ra, lượng đường ở gạo này thấp, chất sơ, chất sắt, canxi cao… rất thích hợp cho bệnh nhân bị tiểu đường. Vì vậy ngay khi loại gạo này được tung ra thị trường được sự đánh giá cao của thị trường nội địa lẫn khách hàng Châu Âu”.

Theo thông tin từ HTX giống Định An, hiện nay HTX đang hợp tác liên kết với công ty Docimexco trong việc sản xuất và tiêu thụ đối với giống lúa Ngọc Đỏ Hương Dứa. Theo cam kết thì công ty sẽ bao tiêu toàn bộ sản lượng của HTX với mức giá sàn là 7 ngàn đồng/kg lúa tươi (trong khi đó, hiện giá lúa thơm Jasmine chỉ có 5.200 đồng/kg, còn lúa IR50404 là 4.200 đồng/kg). Với giá này, nông dân lãi gần 20 triệu đồng/ha. Trong vụ Đông xuân tới, HTX dự kiến sẽ tiếp tục hợp tác với một số HTX lân cận mở rộng diện tích sản xuất khoảng 100 ha. Để đảm bảo chất lượng gạo đồng nhất và an toàn, ngoài cung cấp giống HTX còn hướng dẫn và hỗ trợ về kỹ thuật sản xuất lúa theo hướng an toàn cho các hộ dân thực hiện liên kết.

 Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Muỗi hành hại lúa và cách phòng trị

                                         

Muỗi hành (sâu năn, muỗi năn, muỗi cọng hành) là một trong những loài dịch hại gây hại khá nặng trên lúa. Lúa bị gây hại sẽ mọc thêm chồi mới, nhưng đôi khi chỉ là những chồi vô hiệu hay nếu có cho bông thì hạt lép nhiều. Để phòng trừ muỗi hành cần áp dụng đồng thời các biện pháp canh tác, biện pháp hóa học.

Muỗi hành hại lúa

Nhận diện triệu chứng

Triệu chứng để nhận diện cây lúa bị muỗi hành gây hại là cây lúa bị lùn, đâm rất nhiều chồi, phần thân hơi cứng, chiều ngang thân cây lúa nở to dần theo sự tăng trưởng của ấu trùng nằm bên trong, lá lúa xanh thẫm ngắn, dựng đứng và có nhiều cọng lúa giống như cọng hành lẫn trong bụi lúa

Muỗi hành phát triển thích hợp trong điều kiện thời tiết tương đối ẩm, có mưa và trời ít nắng, do đó mưa nhỏ sương mù và trời có mây âm u rất thuận lợi cho muỗi hành phát triển, thường phát sinh cục bộ trên một cánh đồng hoặc một vùng hẹp do khả năng di chuyển yếu của muỗi.

Ẩm độ thích hợp nhất đối với muỗi hành là 85-95% và nhiệt độ thích hợp là 26-300C. Vì các lý do nêu trên nên ở đồng bằng sông Cửu Long muỗi hành chỉ xuất hiện và gây hại nhiều vào vụ Hè Thu hàng năm

Tập quán sinh sống và cách gây hại

Trứng nở thành ấu trùng chui vào đọt non của lúa làm lá non không mở ra được, cuốn tròn thành cọng hành hay cọng năn nên còn gọi là muỗi năn hay sâu năn. Nó hóa nhộng luôn trong đó và khi lột xác thành muỗi nó đục lỗ phía trên đọt tròn đó mà chui ra, chồi bị chết. Chúng có thể sống trên cỏ dại và lây lan rất nhanh gây thiệt hại nặng trên các trà lúa muộn

Thành trùng vũ hóa vào đầu mùa mưa, thường là ban đêm, có thể bắt cặp ngay và đẻ trứng. Khoảng 7 ngày sau khi bị tấn công, ống lúa sẽ mọc dài ra và tròn giống như cọng hành và rất dễ nhìn thấy vì ống có màu xanh lá cây nhạt. Lúc đó ấu trùng bên trong đã đủ lớn hoặc đã làm nhộng. Nhộng có thể di chuyển lên xuống trong ống lúa nhờ các gai ngược trên thân. Trời mưa hay râm mát nhộng di chuyển lên phía trên ống lúa; trời nắng gắt nhộng thường di chuyển xuống phía dưới. Khi sắp vũ hóa nhộng di chuyển lên phía trên của ống lúa và đục một lỗ nhỏ chui ra khỏi ống lúa, một đầu còn gắn vào ống lúa

Muỗi hành thường tấn công cây lúa từ giai đoạn mạ đến nhảy chồi tối đa. Chồi chính bị hư sẽ kích thích cây lúa sinh chồi mới. Lúa bị gây hại sớm sẽ mọc thêm chồi mới, nhưng đôi khi chỉ là những chồi vô hiệu hay nếu có cho bông thì hạt lép nhiều

Biện pháp phòng trừ: để phòng trừ muỗi hành có thể áp dụng các biện pháp sau:

Biện pháp canh tác:

  • Diệt cỏ xung quanh ruộng lúa.
  •  Diệt lúa rài, lúa chét và gieo cấy sớm rất cần thiết để giảm mật số muỗi hành trên đồng ruộng.
  •  Không bón nhiều phân đạm.
  • Ruộng lúa bị sâu năn hại cần kịp thời tháo nước phơi ruộng để hạn chế sự lây lan phát triển.
  •  Dùng bẫy đèn diệt muỗi, bảo vệ ong mắt đỏ (thiên địch của sâu năn).
  •  Thăm ruộng thường xuyên từ giai đoạn mạ đến lúc cây lúa nhảy chồi tối đa.

Biện pháp hóa học:

  •  Nhúng rễ mạ vào dung dịch thuốc trừ sâu lưu dẫn trong 1 đêm trước khi cấy.
  •  Áp dụng thuốc nước để diệt thành trùng hoặc ấu trùng vừa nở ra.
  • Rãi thuốc hột khi ruộng chủ động nước.

Tóm lại, cho đến nay bệnh do muỗi hành gây hại đã được khắc phục, nhưng về giống thì vẫn chưa có giống kháng mạnh đối với loài dịch hại này nên việc áp dụng các biện pháp canh tác trước khi gieo sạ là rất thiết yếu. Nông dân cần thường xuyên thăm đồng để kịp thời phát hiện muỗi và phòng trị đúng lúc góp phần giúp cây lúa sach bệnh, khỏe mạnh sau này. Bên cạnh đó, cần quản lý tốt dịch hại như là muỗi hành và các loài sâu bệnh hại khác, để đảm bảo cây lúa cho năng suất cao khi thu hoạch.

 

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam