“Dị nhân” nặn dừa hồ lô lạ mắt bán Tết, bỏ ăn, bỏ ngủ suốt ngày trên cây

Có biệt tài nặn dừa hồ lô, dịp Tết này để có những trái dừa hồ lô độc, lạ, “dị nhân” U60 Nguyễn Hoàng Phúc ở Cần Thơ thường xuyên bỏ ăn, bỏ ngủ “treo mình” lên những cây dừa.

Ông Nguyễn Hoàng Phúc bên trái dừa hồ lô của mình.

Ông Nguyễn Hoàng Phúc (55 tuổi, quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ) cho biết, sau hơn một năm nghiên cứu, ông đã có thể tạo được thành công sản phẩm dừa hồ lô trước sự ngỡ ngàng của nhiều người.

“Để nâng cao giá trị trái dừa, tôi quyết tâm ngày đêm nghiên cứu tạo hình hồ lô trên trái dừa. Qua khá nhiều lần thất bại, trái nứt, rơi rụng (từ 40-50 trái), cuối cùng tôi cũng đã làm được” – ông Phúc chia sẻ.

Theo ông Phúc, những ngày đầu làm thử nghiệm, vườn dừa của ông bị hỏng từ buồng này đến buồng khác, từ cây này sang cây nọ. Tuy nhiên, càng thất bại thì ý chí càng thúc giục ông phấn đấu làm tiếp, khi nào thành công mới thôi. Thậm chí, có những hôm, ban đêm, ông vẫn lọ mọ mở đèn pin trèo lên cây xem trái dừa mình đang “nặn” phát triển như thế nào.

Ông Phúc thường xuyên bỏ ăn, bỏ ngủ “treo mình” lên những cây dừa.

Ông Phúc nói thêm: “Nhiều lúc vợ nói làm dừa hồ lô phí công cực khổ, không có thời gian nghỉ ngơi, hơn nữa tuổi cũng đã cao. Khi đó tôi trả lời, cái này là sở thích nên không thấy mệt. Nhiều khi “bỏ ăn, bỏ ngủ” ngồi ở trên cây dừa, gia đình đi kiếm mãi không thấy…”.

Dipk Tết năm nay, dừa tạo hình hồ lô của ông Phúc đã có khách đặt 100 cặp để đưa ra Hà Nội. Trong thời gian tới, ông Phúc sẽ mở rộng mô hình, thuê vườn của anh em hoặc hàng xóm để làm dừa tạo hình.

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nghệ An: Bùng phát bệnh Lepto trên lợn?

Theo người dân xóm 10, xã Ngọc Sơn (Thanh Chương, Nghệ An), xóm có nhiều lợn bị chết.

Thế nhưng, xã xác nhận chỉ có 1 số con bị nhiễm bệnh. Điều đáng nói, trên QL 46 đi qua xã Ngọc Sơn thời gian qua có rất nhiều lợn chết bị vứt dọc đường.

Người dân không đồng ý tiêm phòng?

Ông Thái Văn An, Chủ tịch UBND xã Ngọc Sơn cho biết, cách đây vài ngày xuất hiện tin đồn tại xóm 10 có một số con lợn khi người dân mổ thịt bán có mùi hôi, thịt màu vàng không thể sử dụng được. Còn một người dân xóm 10 khẳng định, một tuần trở lại đây, xóm có rất nhiều lợn chết vì bệnh Lepto(?).

Rác thải, xác động vật thường xuyên dạt vào các đập tràn của xã Ngọc Sơn

“Chúng tôi nghe thông tin như thế nhưng qua kiểm tra thì chỉ có 4 con lợn bỏ ăn hoặc ăn ít. Trong số đó, một con bị rối loạn tiêu hóa đã được điều trị khỏi bệnh. Đề nghị ngành thú y lấy mẫu xét nghiệm, nếu xuất hiện dịch bệnh chúng tôi sẽ triển khai ngay các biện pháp dập dịch”, ông An cho biết.

Ngày 18/11, sau khi được báo cáo, Trạm Chăn nuôi – Thú y huyện Thanh Chương đã cấp 6 lít bencocid cho xóm 10 và cử cán bộ xuống những hộ có lợn ốm để lấy mẫu bệnh phẩm gửi đi xét nghiệm. Sau khi kiểm tra lợn của hộ ông Nguyễn Văn Cường và bà Nguyễn Thị Thủy có các dấu hiệu như kén ăn cám, ăn nhiều rau, thân nhiệt cao, ông Đào Quang Biên, Trạm trưởng Trạm Chăn nuôi – Thú y huyện Thanh Chương cho rằng, đó là dấu hiệu của bệnh Lepto.

“Tại xóm 4, xã Xuân Tường, giáp ranh với xóm 10 xã Ngọc Sơn đã ghi nhận một cá thể lợn chết do Lepto. Lợn của người dân xóm 10 kén cám, ham rau, thân nhiệt cao là dấu hiệu của bệnh Lepto. Thời gian điều trị bệnh này dài nhưng khả năng khỏi bệnh thấp. Chúng tôi không chờ kết quả xét nghiệm mà sẽ làm tờ trình xin cấp vacxin để tiêm phòng. Đề nghị UBND xã Ngọc Sơn cử cán bộ phụ trách cùng vào cuộc và hỗ trợ người dân vôi bột, tuyên truyền để người dân tích cực chống dịch”, ông Biên cho biết.

Trạm Chăn nuôi – Thú y huyện Thanh Chương lấy mẫu bệnh phẩm đi xét nghiệm

Theo thống kê, xóm 10 có tổng đàn lợn 158 con. Tuy nhiên, khi triển khai đăng ký mua vacxin có 22 hộ (nuôi 22 con lợn) không đồng ý tiêm phòng. “Họ nói, nếu tiêm phòng xảy ra chuyện gì thì xã, huyện phải cam kết chịu trách nhiệm. Nhưng quan điểm của chúng tôi là có dịch thì phải dập dịch, hộ nào không tiêm phòng thì căn cứ Luật Thú y để xử lý. Hộ nào tiêm phòng, nếu gia súc chết thì xã sẽ làm thủ tục để xin Nhà nước hỗ trợ theo quy định. Xã sẵn sàng trích kinh phí mua vacxin và vôi bột để cùng người dân dập dịch”, ông Thái Văn An cho biết thêm.

Nhiều nguy cơ bùng phát dịch

Ngọc Sơn nằm sát QL 46, giáp với các xã Xuân Tường, Võ Liệt, Thanh Ngọc. QL 46 đi qua xã Ngọc Sơn là địa bàn nối nhiều huyện phụ cận, đường trung chuyển động vật từ khắp nơi đổ về đi các địa phương khác tiêu thụ; sông Lam, sông Gang chảy theo chiều dọc của xã.

Xác lợn chết vứt dọc QL 46 đoạn giáp ranh giữa Ngọc Sơn và Thanh Ngọc

Nhiều đặc điểm cho thấy, đây là địa bàn có nhiều nguy cơ xảy ra và lây lan dịch bệnh. Và thực tế, trong vài năm trở lại đây, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm ở đây diễn biến phức tạp. Theo ghi nhận, tại xóm 3, từ năm 2014 – 2016 từng xảy ra dịch tụ huyết trùng thể cấp tính khiến hàng chục con trâu bò bị chết. Tháng 11/2017, đàn vịt của người dân xóm 10 cũng chết như ngả rạ nhưng mẫu bệnh phẩm dương tính với virus H5N1.

Một nguy cơ nữa xuất phát từ sự thiếu ý thức và trách nhiệm của một số hộ chăn nuôi. Một ngày giữa tháng 12/2017, QL 46 đoạn qua núi Nguộc, điểm giáp ranh giữa xã Ngọc Sơn và xã Thanh Ngọc xuất hiện một con lợn chừng trên 100kg đã được mổ ruột, màu vàng nghệ bị vứt bỏ bên lề đường.

Người dân ở đây phỏng đoán, có thể con lợn trên bị bệnh Lepto, đã mổ thịt đem đi chợ bán nhưng không bán được nên đem về vứt cạnh đường. Thực tế, thời gian qua, đoạn đường này thường xuyên xuất hiện những bao tải chứa xác động vật chết bốc mùi hôi thối. Do nằm ở địa phận xã, UBND xã Ngọc Sơn đã nhiều lần phải cử lực lượng đem xác động vật đi chôn nhưng tình trạng trên vẫn không thuyên giảm.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nhiều hộ đổi đời nhờ mận xanh đường

Nông dân phường Đông Thuận, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long đang tích cực chuyển đổi cây trồng để nâng cao thu nhập.


Chính quyền địa phương rất quan tâm hỗ trợ bà con cải tạo vườn cây kém hiệu quả sang trồng các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Điển hình là ông Nguyễn Văn Quyên, 50 tuổi, ngụ tại khóm Đông Bình đã mạnh dạn chuyển đổi 9 công vườn cây ăn trái kém hiệu quả sang trồng mận xanh đường. Mỗi năm trừ hết các chi phí còn lời trên 300 triệu đồng, gấp hai, ba lần làm vườn tạp (chưa kể tiền bán nhãn và bưởi trồng xen trong vườn mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu đồng).

Ông Quyên giới thiệu những trái mận được bọc kín bằng bao nilon

Ông Quyên cho biết, ưu điểm của mận xanh đường là ruột đặc, trái to (10 trái/kg), da màu xanh, thịt mềm và ngọt như đường nên được nhiều người ưa chuộng. Theo ông, giống mận này đã xuất hiện tại phường Đông Thuận cách nay hơn 20 năm do ông Ba Cắc mang về nhân giống. Khi mận ra những chùm trái đầu tiên, nhiều người trong xóm ăn thử mới phát hiện đây là giống mận quý hiếm, vượt trội các giống mận hồng đào và An Phước.

Tiếng lành đồn xa, nhiều người xin chiết nhánh nhân giống. Lúc đầu chỉ một vài người trồng, dần dần cả xóm cùng đào mương lên liếp nhân giống đại trà. Đến nay toàn phường có trên 56ha mận xanh đường, chỉ riêng khóm Đông Bình có gần 100 hộ trồng.

Vườn mận của ông Quyên được sản xuất sạch, mỗi trái đều được bao bằng bọc nilon từ khi còn nhỏ. Ngoài bao trái ông còn dùng biện pháp sử dụng màn lưới trùm lên toàn bộ khu vườn (mận “ngủ mùng”) nhằm ngăn chặn ruồi vàng đục trái và các loài bướm đến đẻ trứng. Nhờ vậy mà ít sử dụng đến thuốc trừ sâu, bảo đảm an toàn.

Cũng theo ông, mận vừa bao lưới (trùm mùng) vừa bao trái sẽ ngọt lịm, mùi vị thơm ngon hơn hẳn trái không bọc nilon. Đặc điểm của mận xanh đường là mùa nắng sẽ ngon ngọt hơn mùa mưa vì mùa mưa trái nhiều nước.

Vườn mận được bao lưới (trùm mùng)

Ông Quyên chia sẻ: Mận xanh đường nếu trồng đúng kỹ thuật, bón phân hợp lý, thường xuyên cắt cành, tạo tán sau mỗi lần thu hoạch và xử lý cho cây ra hoa mùa nghịch, mỗi năm sẽ thu hoạch ba vụ, mỗi vụ bán được 30 triệu đồng/công. Thông thường 1 cây mận trưởng thành sẽ cho năng suất khoảng 120kg/năm. Đặc biệt vườn mận của ông không trồng thuần mận mà trồng xen canh cả bưởi và nhãn.

Bà Lê Thị Phương Lan, người gắn bó sản xuất giống mận này trên 15 năm cho biết, mận xanh đường tiêu thụ rất mạnh, giá cả dao động từ 10.000 – 13.000đ/kg tùy theo mùa thuận, nghịch chứ ít khi nào tuột giá như các giống mận khác.

Ông Nguyễn Chí Thuận, Chủ tịch Hội Nông dân phường Đông Thuận cho biết, đặc sản mận xanh đường là tiềm năng lớn của địa phương, giúp bà con nông dân có nguồn thu nhập ổn định. Ngoài sản xuất kinh doanh, nhiều chủ vườn còn giúp bà con ở địa phương có việc làm như bao trái, bao lưới, thu hoạch, vận chuyển và nhiều dịch vụ khác. Tỉnh Vĩnh Long đã chọn Đông Thuận làm thí điểm để nhân rộng mô hình…

Bà Lê Thị Phương Lan chăm sóc mận

Ngoài cây mận, ông Quyên còn thuê thêm 7 công đất khác để trồng cam xoàn, bưởi và nhãn Idor đang cho trái chín. Hy vọng một hai năm nữa ông sẽ vươn lên thành “tỷ phú miệt vườn”.

Với thành quả nêu trên, ông đã nhận được bằng khen của UBND tỉnh Vĩnh Long về thành tích SXKD giỏi và nhiều giấy khen của UBND TX Bình Minh.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thoát nghèo nhờ cá rô phi: Hiệu quả bất ngờ!

Từ nguồn vốn 300 triệu đồng của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN- PTNT), dự án nuôi cá rô phi được xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) triển khai từ tháng 7- 11/2017 cho hiệu quả cao. Từ đó giúp các hộ tham gia dự án thoát nghèo, mở ra hướng đi mới trong chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp tại địa phương.

Mô hình nuôi cá rô phi của gia đình ông Hoàng Văn Phiệt

Gần đây, người dân xã Hồng Tiến đã mạnh dạn chuyển đổi diện tích cấy lúa kém hiệu quả kết hợp tận dụng triệt để mặt nước ao hồ và bãi bồi ven sông để nuôi các loại thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao.

Dẫn chúng tôi đi tham quan các mô hình nuôi cá rô phi tại xã Hồng Tiến, ông Cao Hải Đường, Phó Chủ nhiệm HTX Thủy sản Hồng Tiến phấn khởi: “Mô hình nuôi cá rô phi tại địa phương đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân, nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo nhờ loại cá này”.

Tại xã Hồng Tiến, đi đầu trong phong trào nuôi cá nước ngọt, đặc biệt là mô hình nuôi cá rô phi phải kể đến gia đình ông Hoàng Văn Phiệt (thôn Nam Tiến). Từ một nông dân nghèo, nay ông đã trở thành triệu phú.

Nhận thấy mô hình nuôi trồng thủy sản thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cho gia đình, ông Phiệt đã quyết định chuyển đổi gần 10.000m2 ruộng từ diện tích cấy lúa kém hiệu quả và diện tích vùng đất bãi ven sông gia đình ông đã quy hoạch, đào ao nuôi cá.

Thời gian đầu, gia đình ông nuôi các loại cá truyền thống như cá trôi, trắm, chép, mỗi năm thu hoạch được 2 vụ, nhưng không mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình là bao. “Cá truyền thống sức đề kháng kém, thường xuyên dịch bệnh nên không đem lại hiệu quả kinh tế cho lắm”, ông Phiệt bộc bạch. Được sự giúp đỡ của HTX Thủy sản Hồng Tiến, từ con giống, vôi bột khử trùng cho đến tham gia các lớp tập huấn, ông đã chuyển sang mô hình nuôi cá rô phi, một loại cá có sức đề kháng tốt, phát triển nhanh, ít dịch bệnh.

Ông Phiệt cho biết: “Được HTX Thủy sản Hồng Tiến hỗ trợ 2.900 con cá rô phi giống, tôi đã thả tất thảy và thả xen kẽ thêm một ít cá truyền thống. Hàng tháng cũng có cán bộ kỹ thuật xuống kiểm tra thức ăn, nguồn nước, môi trường… xem có đảm bảo vệ sinh môi trường không”.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn cá rô phi lớn nhanh như thổi, ít dịch bệnh. Đến thời kỳ thu hoạch, con to có trọng lượng khoảng 1,5kg; con nhỏ nhất cũng dao động từ 8 – 9 lạng. Theo ông Phiệt, với mô hình nuôi cá rô phi đơn tính, ông thu hoạch được hơn 3 tấn cá. Với giá bán 35 – 37 nghìn đồng/cân, ông Phiệt “đút túi” hàng chục triệu đồng.

Là một trong những hộ nghèo của xã, bà Phạm Thị Là (thôn Nam Tiến) đã được HTX Thủy sản xã Hồng Tiến hỗ trợ cá giống, vôi bột khử trùng và mời tham gia học các lớp tập huấn. Sau khi có kiến thức cơ bản, bà quyết định chỉ nuôi cá rô phi đơn tính. Vụ thu hoạch vừa qua, gia đình bà đã thu hoạch được gần 3 tấn cá rô phi, sau khi trừ tất cả chi phí, bà Là lãi khoảng 30 triệu đồng.

Theo bà Là, so với các loài cá truyền thống khác, các rô phi có sức đề kháng tốt, ít xảy ra dịch bệnh, giá cả không bấp bênh, đầu ra không bị “tắc”. Ngoài ra, cho năng suất cao, thu nhập ổn định, thịt cá rô phi thơm và chắc… “Nuôi cá rô phi không tốn nhiều thời gian chăm sóc, thức ăn đơn giản, năng suất lại cao, thu nhập ổn định. Nhờ mô hình cá rô phi mà gia đình tôi mới thoát khỏi diện hộ nghèo”, bà Là khẳng định.

Nguồn: Nông Nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trăn trở sản xuất giống tôm hùm

Việt Nam là một trong những nước có nghề nuôi tôm hùm phát triển. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay là chưa chủ động được con giống mà hoàn toàn lệ thuộc vào khai thác tự nhiên. Để nghề này phát triển bền vững và hiệu quả hơn, cần sớm xây dựng được quy trình, công nghệ sản xuất giống nhân tạo.

Cơ hội phát triển

Trên thế giới, tôm hùm (tên gọi chung của một nhóm giáp xác có kích thước lớn thuộc họ Palinuridae) phân bố chủ yếu ở các vùng biển nhiệt đới đến bán nhiệt đới như: Australia, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia… Ở Việt Nam, có 3 loài chiếm sản lượng đáng kể là tôm hùm bông, tôm hùm đá (hùm xanh) và tôm hùm đỏ; trong đó tôm hùm bông là loài có kích thước và số lượng tương đối lớn.

Phát triển nghề nuôi tôm hùm ở nước ta tập trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận, nhiều nhất là ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận – nơi có nhiều vũng, vịnh, đầm, phá như đầm Cù Mông (Bình Định – Phú Yên), vịnh Xuân Đài, Vũng Rô (Phú Yên), vịnh Vân Phong, Cam Ranh (Khánh Hòa), vịnh Vĩnh Hy, Phan Rang (Ninh Thuận)…; những nơi ít bị ảnh hưởng của gió bão, có dòng chảy do thủy triều, có độ sâu, chất đáy và các yếu tố thủy lý hóa rất thuận lợi cho nghề nuôi tôm hùm.

Có thể nói, Việt Nam là một trong những nước có nghề nuôi tôm hùm phát triển, góp phần khai thác hiệu quả tiềm năng lợi thế về tự nhiên; giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho hàng nghìn lao động; đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Chưa sản xuất được con giống

Nhiều chuyên gia cho rằng, tuy đưa lại giá trị cao song việc phát triển nghề nuôi tôm hùm tại các tỉnh Duyên hải miền Trung hiện cũng đang phải đứng trước nhiều thách thức.

Từ năm 2014 đến nay, tình hình thiệt hại trên tôm hùm nuôi có chiều hướng gia tăng. Khảo sát cho thấy, số lượng lồng nuôi quá nhiều so quy hoạch, mật độ nuôi dày, lượng thức ăn cho tôm tồn đọng ngày một nhiều gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Theo Tổng cục Thủy sản, nhu cầu tôm hùm giống mỗi năm hiện là 3 – 10 triệu con. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguồn giống mà chủ yếu phụ thuộc vào khai thác tự nhiên bằng nhiều nghề như đánh lưới mành, bẫy chà, lặn… và nhập khẩu từ nước ngoài. Tôm hùm giống đánh bắt thường có kích cỡ không đồng đều, chất lượng kém; thậm chí còn được đánh bắt bằng thuốc gây mê hoặc thuốc nổ, dẫn tới tôm thường chết vào thời gian đầu thả nuôi, con nào sống cũng èo uột, chậm lớn. Giá đắt đỏ cộng với nguồn khai thác tự nhiên ngày càng giảm nên cung không đủ cầu; chất lượng con giống kém là những nguyên nhân khiến người nuôi gặp nhiều rủi ro.

Mặt khác, tuy Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã có những đề tài nghiên cứu sinh sản nhân tạo tôm hùm nhưng mức độ đầu tư thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật và chưa có cán bộ được đào tạo có trình độ nghiên cứu chuyên sâu về tôm hùm nên chưa thực hiện thành công.

Thúc đẩy cách nào?

Tại Hội thảo “Giải pháp quy hoạch chi tiết và quản lý nuôi tôm hùm bền vững ở tỉnh Phú Yên tổ chức tháng 8/2017, PGS.TS. Võ Văn Nha, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III cho rằng, hướng đi phát triển bền vững cho tôm hùm là tất yếu; trong đó khâu giống cần được chú trọng. Vì vậy, cần xây dựng vùng ương nuôi con giống để dễ kiểm soát chất lượng. Giải quyết được điều này sẽ không phụ thuộc bởi tự nhiên và nhập khẩu từ bên ngoài.

Cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay, sản xuất giống nhân tạo là khó khăn lớn nhất của nghề nuôi tôm hùm; do đó nên tiến hành công nhận nghề khai thác tôm hùm giống là một nghề, cấp phép khai thác cho các hộ dân làm cơ sở cho việc quản lý chặt chẽ về số hộ khai thác, số lượng tàu, ngư cụ, hình thức và sản phẩm khai thác tôm hùm giống. Tuy nhiên, các địa phương sẽ phải phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học… tiến hành điều tra nguồn lợi tôm hùm giống để xây dựng cơ chế giám sát, quản lý nhằm khai thác bền vững nguồn giống. Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT sẽ tập trung xây dựng để sớm ban hành các tiêu chuẩn và quy chuẩn, định mức về quy trình công nghệ cho các hình thức nuôi, tiêu chuẩn con giống và khu nuôi tập trung. Trong khi chờ đợi sản xuất giống nhân tạo thì phải nghiên cứu giảm tỷ lệ hao hụt trong quá trình ương giống.

Trong Quy hoạch hệ thống nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống thủy sản đến năm 2020 đã được Bộ NN&PTNT phê duyệt cũng chỉ rõ những định hướng đối với quy hoạch sản xuất, cung ứng giống tôm hùm. Cụ thể, khoanh vùng bảo vệ bãi giống tôm hùm trên vùng biển các tỉnh Nam Trung bộ (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), ổn định khai thác tôm hùm giống tự nhiên 600.000 – 700.000 con/năm. Hình thành Trạm nghiên cứu, sản xuất giống tôm hùm tại Khánh Hòa thuộc Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Trung để nghiên cứu công nghệ sản xuất giống, sản xuất giống cho nuôi thương phẩm và tái tạo nguồn lợi.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng quýt hồng Lai Vung chuẩn GlobalGAP, chờ thu bộn tiền vụ Tết

 Đã trở thành thông lệ, cứ đến thời điểm cận tết là lúc trái quýt hồng Lai Vung (Đồng Tháp) có mặt ở khắp nơi phục vụ người tiêu dùng, vì nó chỉ trồng một vụ vào mùa tết. Chính vì lẽ đó, chỉ còn khoảng 2 tháng nữa là đến tết nên các vườn trồng quýt hồng ở huyện Lai Vung (Đồng Tháp) nhộn nhịp hẳn lên.

Trồng quýt hồng ở Lai Vung – Đồng Tháp

Đến Lai Vung những ngày này, đi đâu cũng nghe bà con kể nhau hứa hẹn sẽ cho một vụ mùa quýt bội thu. Mặc dù giá VTNN năm nay tăng cao, thời tiết bất lợi nhưng theo đánh giá của nhiều người mùa quýt năm nay thành công nhất của người dân ở Lai Vung. Chẳng hạn như ở xã Long Hậu (một xã có diện tích quýt hồng lớn nhất so với các xã khác trong huyện Lai Vung) có 449 ha cho trái, năng suất trung bình từ 40-60 tấn/ha.

Anh Trần Việt Thắng, một người dân trồng quýt hồng lâu năm ở Long Hậu với diện tích gần 1ha, cho biết: Năng suất năm nay tăng hơn nhiều so với năm trước, trừ các khoản chi phí vật tư, với khoảng 7 công quýt chắc chắn cho lãi hơn 150 triệu đồng. Anh Thắng cũng cho biết thêm, nếu năm nào quýt cũng cho năng suất như năm nay, cộng với việc giá quýt ổn định như hiện tại thì năm sau anh sẽ cải tạo lại 3 công đất trồng màu để trồng quýt phục vụ tết.

Cũng ở xã Long Hậu này, lần đầu tiên thành lập được Tổ trồng quýt hồng theo hướng GlobalGAP phục vụ thị trường tết năm nay, có 10 thành viên với tổng diện tích 3,1ha. Sau hơn một năm thực hiện những kỹ thuật trồng theo hướng GlobalGAP, đến nay tính ưu việt của mô hình SX này đã được chứng minh. Từ ứng dụng khoa học của chương trình IPM đến sản xuất theo hướng GAP, nay lại đến GlobalGAP, nhà vườn chỉ cần thực hiện thêm tiêu chí đảm bảo vệ sinh vườn quýt, không làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Cụ thể, phải thường xuyên làm cỏ, cắt tỉa cành, tỉa bớt trái, nhất là những trái dị dạng hoặc bị côn trùng phá hại để khu vườn luôn sạch sẽ, thoáng đãng.

Quýt hồng trong trong dịp Tết hứa hẹn một vụ mùa bội thu và được giá

Bao thuốc, chai thuốc sau khi sử dụng phải được thu gom và tiêu hủy đúng cách, không quăng xuống mương vườn làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Nhà vườn còn xây dựng nhà kho tại vườn để chứa các vật tư như phân bón, thuốc BVTV, các dụng cụ phục vụ SX, bảo hộ lao động. Ngay từ đầu vụ, các thành viên trong Tổ đều áp dụng đúng kỹ thuật, phương pháp và quy trình đã đề ra, theo từng giai đoạn phát triển của cây, vì vậy khi thu hoạch, năng suất quýt khá cao.

Chị Nguyễn Thị Lệ Hồng, thành viên của tổ cho biết: SX theo hướng GlobalGAP, một năm giảm được 6 lần phun xịt thuốc. Trước đây, mỗi năm phun xịt 26 lần thì nay chỉ còn 20 lần, chi phí đầu tư nhờ đó cũng giảm đáng kể.

Theo chị Hồng, SX quýt theo hướng GlobalGAP, mỗi nhà vườn phải thực hiện nhật ký ghi chép, sổ sách đầy đủ nhất là chi phí đầu tư, thời gian phun xịt, bón phân, thuốc BVTV đã sử dụng, mua từ đại lý nào, thời điểm phun xịt lần cuối cùng đến khi thu hoạch… Nhà vườn dễ dàng trong hạch toán giá thành và rút ra kinh nghiệm trong sản xuất cho vụ mùa năm kế tiếp. Vụ quýt hồng năm qua, Tổ trồng quýt hồng GlobalGAP thu được sản lượng gần 200 tấn quýt, trung bình mỗi ha đạt trên 60 tấn, cao gần gấp đôi so với sản lượng quýt hồng trung bình của cả huyện. Với cách mới, ngoài thu được năng suất, hiệu quả kinh tế cao hơn, các thành viên trong tổ GlobalGAP còn ý thức được vấn đề an toàn sức khỏe cho người trực tiếp sản xuất, an toàn môi trường xung quanh, an toàn cho người tiêu dùng.

Còn anh Lưu Văn Tín, ở ấp Long Hưng 1, xã Long Hậu nhiều năm SX quýt hồng đạt hiệu quả cao thu nhập mỗi năm lên hàng tỷ đồng nhờ áp dụng VietGAP cho cây quýt hồng nên anh đã nhận được bằng khen của Thủ tướng Chính phủ trong SX nông nghiệp.

Anh Tín cho biết, vụ quýt tết năm nay thời tiết không thuận lợi mấy, nhưng nhờ kinh nghiệm và tận dụng tốt tiến bộ khoa học kỹ thuật, nên 6,5 công quýt hồng vẫn đạt chất lượng và sản lượng, ước tính khoảng 60 tấn trái (cao hơn vụ trước 10 tấn). Giá quýt hồng được các thương lái từ TPHCM, các tỉnh ĐBSCL đến mua tại vườn từ 22.000 – 30.000 đồng/kg, với giá này giúp gia đình thu nhập khoảng 1,3 – 1,4 tỷ đồng/năm, cao gấp nhiều lần so trồng lúa.

Theo anh Tín: “Cái khó của cây quýt hồng là rất dễ bị bệnh vàng lá và khi vườn cây nào bị bệnh này thì xem như phá bỏ, bởi dù có trị tốn kém nhiều tiền nhưng vẫn không hết bệnh. Bên cạnh đó, quýt hồng mỗi năm chỉ thu hoạch được một vụ, trong khi chi phí đầu tư rất cao; vì vậy nếu thiếu vốn, không vững kỹ thuật… sẽ không trồng được. Bù lại, do quýt hồng bán vào dịp tết nên được giá cao. Phân tích kỹ những hạn chế cũng như ưu điểm của cây quýt hồng, anh Tín chủ động từ việc thiết kế khu vườn hợp lý, trồng giống sạch bệnh, chăm sóc chu đáo. Ngoài ra, anh còn gắn kết chặt với ngành nông nghiệp địa phương, các nhà khoa học ở Trường ĐH Cần Thơ, Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam… để học hỏi phương pháp phòng trừ bệnh vàng lá; học cách xử lý ra hoa, đậu trái, xử lý màu cho trái quýt đẹp hơn…

Ông Mai Quốc Hậu, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Lai Vung cho biết, thổ nhưỡng nơi đây rất phù hợp cho phát triển cây có múi, địa phương cần phải có những định hướng, chiến lược lâu dài trong việc quy hoạch và tổ chức lại SX cho nông dân. Việc thay đổi tập quán SX của nhà vườn hướng đến sản xuất theo quy trình an toàn (VietGap, GlobalGap) và tổ chức liên kết tiêu thụ là vấn đề mà địa phương đang rất quan tâm thực hiện. Hiện tại, đặc sản quýt hồng đã được cấp chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa; sắp tới địa phương sẽ tiến hành xin cấp nhãn hiệu hàng hóa cho quýt đường và cam xoàn. Đây là định hướng quan trọng để nhà vườn tổ chức lại SX theo hướng liên kết, bền vững, để cây có múi của huyện vượt trội về chất lượng trong khu vực.

Hiện nay huyện đang vận động, hướng dẫn nông dân quy hoạch lại vườn trồng cây có múi chủ lực, trồng tập trung theo từng loại phù hợp với thổ nhưỡng đã được xác định và SX theo các quy trình an toàn (Viet Gap, GlobalGap), bởi đây là điều kiện tất yếu để được chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa. Đồng thời xây dựng được HTX quýt hồng Lai Vung với mục tiêu là phát triển sản xuất gắn với liên kết tiêu thụ nông sản cho nhà vườn. Đây cũng là tiền đề để nhà vườn học tập kinh nghiệm tổ chức lại SX một cách bền vững trong thời gian tới.

Hiện toàn huyện có trên 2.700 ha trồng cây có múi có giá trị kinh tế cao, trong đó có trên 1.100 ha quýt hồng (loại trái cây đặc sản), gần 1.000 ha quýt đường và trên 600 ha cam các loại. Riêng cây quýt hồng cho trái vào dịp Tết Nguyên đán hàng năm, hầu hết các nhà vườn trong huyện đều khá và giàu lên từ cây quýt hồng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tin vui: Da cá tra được xuất khẩu sang Singapore làm… bimbim

Thay vì bán phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi, da cá tra Việt Nam đã tìm đường xuất khẩu sang Singapore với giá trị cao.

Chia sẻ với báo chí, ông Nguyễn Trường Giang, Phó Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân gạo Cỏ May có trụ sở ở Đồng Tháp cho biết, nếu trước đây da cá tra chủ yếu bán phụ phẩm để chế biến thức ăn chăn nuôi thì mới đây sản phẩm của đơn vị này được doanh nghiệp ở Singapore đề nghị mua làm sản phẩm ăn liền (snack).

Da cá tra sau khi chế biến thành snack.

“Cách đây 4 tháng, nhiều khách hàng Singapore và châu Âu đề nghị chúng tôi cung cấp da cá tra đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế với giá hấp dẫn. Sau quá trình khảo sát, đối tác Singapore đã ký kết hợp đồng bao tiêu với công ty”, ông Giang nói và cho hay nếu trước đây giá phụ phẩm chỉ 6.000 – 8.000 đồng/kg thì khi bán cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, giá đã tăng 71,4% (giá nhập tại kho); nếu có thêm chi phí đóng gói, cấp đông… thì có thể tăng gấp 3 lần, khoảng 22.000 -24.000 đồng/kg.

Snack da cá tra tại thị trường Singapore hiện có giá 8 SGD (khoảng 136.000 đồng) cho gói nhỏ 230gram.

Hiện mỗi tháng Cỏ May xuất sang thị trường Singapore 50-60 tấn da cá. Qua năm 2018, công ty sẽ mở rộng nhà máy để nâng công suất lên cao hơn. Hiện tại lượng hàng xuất đi cung không đủ cầu. Tuy nhiên, để xuất được, da cá phải đảm bảo các chứng nhận an toàn về vệ sinh thực phẩm quốc tế, không có các dư lượng về thuốc bảo vệ thực vật, hóa học.

Da cá tra là nguồn thực phẩm nhiều dinh dưỡng, giàu collagen và gelatin tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều nhà máy ở Việt Nam chưa thể tận dụng nguyên liệu này để sản xuất sản phẩm ăn liền. Để đón đầu xu hướng, ngoài xuất khẩu, sắp tới Cỏ May sẽ nghiên cứu khẩu vị, cách tẩm ướp của các nước như Singapore, Malaysia, châu Âu, Việt Nam để chế biến ra sản phẩm phù hợp và xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm snack từ da cá tra đầu tiên tại Việt Nam.

Trước đây, các phụ phẩm của con cá tra như da, đầu, vây, bao tử, bong bóng đa phần bán để làm thức ăn chăn nuôi. Ảnh minh họa

Ông Giang cũng cho biết, để có 35 tấn phi lê cá tra thì cần có 100 tấn nguyên liệu đầu vào. Trước đây, các phụ phẩm như da, đầu, vây, bao tử, bong bóng của cá đa phần bán để làm thức ăn chăn nuôi.

Hiện nay, ngoài doanh nghiệp Cỏ May thu được giá trị cao từ da cá tra nhờ xuất khẩu, thì trong nước, mới chỉ có Vĩnh Hoàn xây nhà máy sản xuất collagen và gelatin từ da cá tra với công suất 2.000 tấn một năm. Kết thúc quý I/2017, doanh thu từ collagen và gelatin của Vĩnh Hoàn đạt 700.000 USD. Doanh thu năm ngoái của mảng này khoảng 1 triệu USD và kỳ vọng sẽ tăng lên 5 triệu USD năm nay.

Cỏ May ra đời năm 1986 với việc sản xuất xà bông, nhưng đến năm 1990 vì gặp khó nên ngừng sản xuất mặt hàng này và chuyển sang kinh doanh lương thực. Ngoài sản xuất gạo cho thị trường trong nước và Singapore, công ty còn trồng nấm, chế biến cá tra…

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

An Giang: Nông dân chế tạo bình xịt điện năng lượng mặt trời

Hiện nay, thị trường có nhiều loại bình để phun xịt thuốc trên ruộng lúa, hoa màu và cây ăn trái như bình xịt gạt tay, bình xịt bằng máy xăng, bình xịt sử dụng điện của bình ắc quy…

Các sản phẩm này được sử dụng rộng rãi nhưng cũng có nhiều hạn chế như hao tốn nhiên liệu, thời gian sử dụng điện ắc-quy không lâu, trọng lượng nặng. Thấy được khuyết diểm đó, anh Trần Trung Hiếu ở xã Vĩnh Lợi, huyện Châu Thành tỉnh An Giang đã nghiên cứu chế tạo bình xịt sử dụng năng lượng mặt trời. Sáng chế này đã đạt giải Nhì trong Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật của tỉnh An Giang lần X (năm 2017).

Gia đình anh Hiếu làm ruộng và trồng vườn để phát triển kinh tế. Do thường xuyên phun xịt thuốc bằng máy phun sử dụng động cơ xăng, anh nhận thấy máy gây ô nhiễm môi trường, tiếng động ồn ào, tốn kém nhiên liệu mà đeo vác cũng mệt nên anh Hiếu đã nghiên cứu chế tạo bình xịt theo nguyên tắc sử dụng điện năng lượng mặt trời để thay thế và tiết kiệm nhiên liệu xăng. Bình xịt điện năng lượng do Hiếu sáng chế có trọng lượng nhẹ hơn bình xịt động cơ xăng từ 4 đến 6 kg, hoạt động theo nguyên lý sử dụng điện từ tấm pin năng lượng mặt trời tích điện cho ắc-quy để nạp năng lượng liên tục cho động cơ hoạt động thời gian dài.

Bình xịt sử dụng năng lượng mặt trời do anh Hiếu chế tạo

Với bình xịt sử dụng năng lượng mặt trời này, thay vì phải dùng 100 bình xịt động cơ xăng để xịt thuốc cho 6 hecta ruộng, thì nay anh chỉ cần sử dụng phân nửa số bình xịt điện năng lượng mặt trời; 3 công đất trồng cam của gia đình giờ chỉ cần 7 bình xịt điện năng mặt trời trong khi trước đây phải tốn đến 15 bình xịt dùng động cơ xăng. Điểm nổi bật của sáng chế bình xịt sử dụng năng lượng mặt trời là hạn chế tối thiểu lượng thuốc bảo vệ thực vật thải ra môi trường, các loại rầy bị tiêu diệt nhanh vì tốc độ phun rất đều và mịn.

Hiện nay Trần Trung Hiếu đã mở cơ sở sản xuất ngay tại nhà và được khách hàng nhiều nơi đặt hàng. Sản phẩm này cũng đang chờ công nhận bản quyền do Cục Sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa học Công nghệ cấp.

Nguồn: Khuyennong.gov được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tôm khi trời lạnh bất thường

Tôm là loài động vật bậc thấp, thân nhiệt thay đổi theo môi trường, nhiệt độ thích hợp cho tôm sinh trưởng 27 – 32 độ C. Do vậy, khi nhiệt độ nước hạ thấp đột ngột sẽ tác động tiêu cực tới tăng trưởng của tôm, nên trong quá trình nuôi cần lưu ý một số vấn đề.

Chuẩn bị ao

Ao cũng được cải tạo và vệ sinh như ao nuôi tôm bình thường, nhưng lưu ý thời gian phơi đáy dài hơn (do trời ít nắng), không lấy nước vào ao nuôi trong những ngày gió mùa. Nếu cần nên lấy vào ao lắng trong 4 – 6 ngày để lắng và ổn định môi trường, sau đó mới cấp vào ao. Mực nước trong ao đạt 1,4 – 1,6 m, xử lý nước sau 2 ngày cần gây màu nước ngay, dùng phân NPK, urê, đậu nành, cám gạo… kết hợp cấy vi sinh. Bổ sung thêm vôi dolomite, vôi nông nghiệp để nâng độ kiềm và ổn định màu nước. Lắp đặt quạt nước để cung cấp ôxy hòa tan cho ao nuôi, lưu ý vào thời điểm sáng sớm và đêm khuya. Nước có màu xanh nâu, vàng nâu. Đảm bảo chất lượng nước khi thả giống: ôxy hòa tan > 4 mg/l; pH 7,5 – 8; độ kiềm > 80 mg CaCO3/l.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nuôi tôm giai đoạn đầu khi nhiệt độ thấp là thiết kế ương tôm trong bể, ao nhỏ trải bạt (50 – 200 m2) trong nhà lán quây kín bằng nilon lắp đặt hệ thống sục khí 24/24, nhằm ổn định nhiệt độ và cùng các yếu tố khác như pH, độ kiềm, khí độc… trong ngưỡng cho phép và xiphông đáy hàng ngày. Thả tôm mật độ cao (200 – 400 con/m3 nước), sử dụng công nghệ Biofloc để ương tôm trong tháng đầu, sau đó chuyển ra ao để nuôi tiếp. Biện pháp này vừa giảm được hao hụt và hạn chế dịch bệnh chết sớm trên tôm (EMS). Nếu trường hợp xấu nhất xảy ra (tôm bị bệnh) thì sẽ loại bỏ và vệ sinh nhanh chóng ao, bể để ương lứa mới, tiết kiệm được nhân lực, thời gian và chi phí.

Thả giống và quản lý

Những hộ nuôi không có điều kiện đầu tư nhà bạt ương tôm, khi nhiệt độ nước dưới 200C thì không thả giống với bất kỳ lý do gì, bởi khi thả giống, nhiệt độ nước thấp, tôm ngừng ăn, tỷ lệ hao hụt sẽ rất lớn. Do vậy, chỉ thả giống khi nhiệt độ trên 230C và thả giống TTCT là phù hợp nhất bởi vì ngưỡng chịu đựng nhiệt độ của TTCT lớn hơn tôm sú.

Thả tôm giống vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối, trời mát – Ảnh: Phan Thanh Cường
Trước khi thả giống 30 phút nên chạy máy quạt khí để tăng cường ôxy hòa tan và nhiệt độ được đảo đều giữa các tầng nước ao, tránh tôm bị sốc. Cần chọn thời điểm thả có nhiệt độ nước ấm nhất trong ngày(12 – 14 giờ). Ngâm bao tôm trong nước 15 phút khi thả. Sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp cho tôm ăn, cần trộn thêm dầu mực, vitamine và khoáng để tăng sức đề kháng của tôm. Ở thời điểm nhiệt độ cao trong ngày (11 – 15 giờ) nên cho ăn tăng và giảm lượng thức ăn vào ban đêm. Ao, bể ương tôm trong nhà bạt khi chuyển tôm ra ao nuôi cần chọn ngày nắng ấm, tránh gió mùa.
TTCT sẽ chết nếu nhiệt độ nước dưới 150C trong 24 giờ hoặc lâu hơn. Tôm ngừng sinh trưởng và ngạt nếu nhiệt độ 15 – 200C. TTCT phân bố và hoạt động ở tất cả các tầng nước nên tác động của sự phân tầng nước sẽ ảnh hưởng lớn đến tôm. Vì vậy, việc duy trì quạt khí để đảo đều nước trên mặt và đáy là cần thiết. Cần đo nhiệt độ trên mặt ao và tầng nước đáy vào sáng sớm và chiều tối.

Khi nhiệt độ thấp cùng với trời ít nắng sẽ giảm sự phát triển của tảo, ao khó gây màu nước. Khi trời nắng, tảo đáy sẽ phát triển cản trở hoạt động của tôm, cạnh tranh ôxy với tôm, hấp thụ các chất dinh dưỡng trong nước làm ao khó gây màu, gây biến động môi trường nước như pH, ôxy… Để ngăn chặn sự phát triển của rong đáy, khi cải tạo ao cần tuân thủ kỹ thuật, luôn giữ mực nước cao, gây màu đảm bảo độ trong 35 – 40 cm, đồng thời, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nền đáy và nước ao.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Quýt vàng Bắc Sơn được công nhận Nhãn hiệu tập thể

Hội làm vườn huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) vừa chính thức đón nhận văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Quýt vàng Bắc Sơn” từ Cục Sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa học và Công nghệ.

Ông Trần Lê Hồng – Chánh văn phòng Cục Sở hữu trí tuệ trao văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Quýt vàng Bắc Sơn” cho Hội làm vườn Bắc Sơn. 

Được biết, quýt Bắc Sơn là loại cây bản địa, được đồng bào Kinh, Tày, Nùng, Dao trồng trên các lân, lũng, núi cao. Quýt khi chín có màu vàng ươm, vỏ mỏng, ít xơ, vị ngọt đậm, thơm. Đây được coi là cây xóa đói giảm nghèo cho các hộ đồng bào dân tộc. Mùa quýt chín vào khoảng cuối tháng 11 dương lịch đến tháng 1 năm sau, cũng là thời điểm giáp Tết Âm lịch. Sản phẩm quýt Bắc Sơn chủ yếu bán cho các thương lái đi tiêu thụ trong tỉnh và các vùng lân cận.

Sản phẩm quýt vàng Bắc Sơn được Cục Sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa học và Công nghệ cấp văn bằng bảo hộ tại Quyết định số 73864/QĐ-SHTT ngày 24/10/2017. Việc được cấp văn bằng bảo hộ Nhãn hiệu tập thể chính là một bước ngoặt quan trọng trong phát triển cây quýt vàng đặc sản của huyện. Đồng thời mở ra hướng phát triển, liên kết sản xuất mới cho bà con nhân dân trong huyện.

Những trái quýt vàng căng mọng.

Phát biểu tại sự kiện, bà Nguyễn Thị Hà – Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Lạng Sơn nhấn mạnh: “Nhãn hiệu tập thể Quýt vàng Bắc Sơn được bảo hộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giới thiệu, quảng bá sản phẩm, tạo cơ sở để quả quýt vàng của huyện có sức cạnh tranh và mở rộng thị trường; thúc đẩy phát triển kinh tế của người sản xuất, kinh doanh quýt vàng Bắc Sơn. Sản phẩm Quýt vàng Bắc Sơn là sản phẩm đầu tiên trên địa bàn huyện được cấp văn bằng bảo hộ. Đây là tiền đề để huyện Bắc Sơn tiếp tục xây dựng, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm đặc sản khác có thế mạnh của huyện”.

Quýt của Bắc Sơn có hai loại là quả tròn và quả dẹt. Quýt quả tròn khi chín có màu vàng ươm, vỏ mỏng, dóc vỏ, ít xơ, vị ngọt đậm, thơm, trọng lượng 80-150g, khi bóc có lỗ rỗng ở giữa quả.

Quýt Bắc Sơn được trưng bày đẹp mắt với hình dáng độc đáo.

Hiện nay, toàn huyện Bắc Sơn có trên 490ha quýt, trong đó diện tích cho sản phẩm trên 362ha, sản lượng năm 2016 gần 1.500 tấn.

Cây quýt tập trung nhiều ở xã Đồng Ý, Bắc Sơn, Chiến Thắng, Tân Lập, Nhất Hòa… Năm 2017, dự kiến sản lượng quýt đạt 2.000 tấn. Với giá 20.000 đồng/kg đang được các thương lái lùng tận vào các lân, lũng để mua. Giờ đây, có nhãn hiệu tập thể, trái quýt Bắc Sơn sẽ có nhiều cơ hội mới để phát triển và mở rộng thị trường hơn.

Nguồn: Báo Khoa học và phát triển được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.