Giá cá tra tăng cao nhất trong 20 năm: Lo kiểm soát nguồn cá giống

Giá cá tra đang ở mức cao nhất từ trước đến nay, việc này khiến cho người dân, các doanh nghiệp và nhà quản lý lĩnh vực thuỷ sản đều rất vui mừng. Tuy nhiên, xen lẫn với niềm vui, cũng có không ít nỗi lo về nguy cơ bùng phát diện tích nuôi và chất lượng con giống để đáp ứng nhu cầu của hộ nuôi đang tăng cao.Lãi 10.000 đồng/kg

Trao đổi với phóng viên Báo NTNN, ông Nguyễn Ngọc Hải  – Chủ nhiệm hợp tác xã cá tra Thới An (quận Ô Môn, TP.Cần Thơ) cho biết: “Hiện giá cá tra đã ở mức 34.000 – 35.000 đồng/kg (đối với loại  trọng lượng từ 0,7 – 1,2kg), cao hơn từ 1.500 – 2.000 đồng/kg so với tháng trước. Với mức giá này, nông dân lãi đến 10.000 đồng/kg nếu ao nuôi được quản lý tốt, không dịch bệnh làm tăng chi phí nuôi”.

Ông Hải nói thêm: “Trải qua nhiều năm thăng trầm, giá cá hiện nay mới là giá thật của nó. Trước đây, giá không thật vì nó không vượt qua giá thành nuôi, người nuôi bị thua lỗ”.

“Do giá cá tra tăng cao nên nhu cầu mở rộng diện tích nuôi của người dân ngày càng cao. Sở đã và đang phối hợp với các địa phương tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung lại quy hoạch cá tra trên địa bàn tỉnh cho phù hợp tình hình thực tế và nhu cầu phát triển của các địa phương”. Ông  Nguyễn Văn Công -Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Đồng Tháp

Theo ông Hải, nguyên nhân giá cá tăng có phần do người dân, doanh nghiệp có ý thức nâng cao chất lượng cá nguyên liệu, nhu cầu nhập khẩu của một số quốc gia khó tính như Mỹ tăng lên.

“Tới đây, giá cá có thể tăng hơn nữa do từ nay đến cuối năm 2018, các quốc gia nhập khẩu nhập hàng để chuẩn bị cho tết, trữ trong mùa đông, lễ hội, Noel. Hơn nữa, nhiều quốc gia chuyển sang mùa lạnh khó nuôi loại cá này nên cũng có nhu cầu mua vào” – ông Hải dự đoán.

Ông Huỳnh Thanh Bình (ấp Vĩnh Thọ, xã Vĩnh Bình, huyện Vĩnh Thạnh, TP.Cần Thơ) cũng khẳng định, hiện nay giá cá tra nguyên liệu bán ra đang ở mức khá cao nên lợi nhuận của người dân thu được rất phấn khởi. Ông Bình nhấn mạnh: “Với giá này thì người nuôi có thể đến 10.000 đồng/kg cá bán ra”.

Khác với ông Hải, ông Bình lo sợ mức giá khó giữ được lâu trong thời gian tới, bởi “cách đây không lâu, giá cá lên mức 31.000-32.000 đồng rồi lại rơi xuống 24.000-25.000 đồng/kg”.

Không riêng gì ở TP.Cần Thơ, người dân nhiều địa phương có diện tích thả nuôi cá tra lớn như An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang cho biết, chưa bao giờ giá cá tra tăng cao ở mức kỷ lục như vậy. Nhờ giá bán này, nhiều hộ dân đã có cơ hội trả nợ ngân hàng, tiền thuê ao, thức ăn cho các đại lý, đồng thời có vốn để củng cố ao nuôi, liên kết với doanh nghiệp để rộng đầu ra sản phẩm, tránh lệ thuộc vào các thương lái nhỏ lẻ.

Theo ông Lê Chí Bình – Phó Chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản tỉnh An Giang, Ủy viên thường trực Hiệp hội Cá tra Việt Nam, giá cá tra tăng cao do nguồn cá nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu đang bị thiếu hụt. Vùng cá nguyên liệu tự thả nuôi của các doanh nghiệp không còn nhiều nên buộc phải ra bên ngoài tìm mua cá tra của nông dân, đẩy giá tăng cao để thu mua được cá…

Chủ nhiệm hợp tác xã cá tra Thới An cho hay, một trong những lo lắng của hợp tác xã nói riêng và người nuôi cá tra nói chung ở ĐBSCL là chất lượng cá tra giống. “Quá trình sản xuất cá tra giống hiện cực kỳ khó khăn so với những năm trước do thời tiết ngày càng khó khăn và nguồn cá bố mẹ bị thoái hoá” – ông Nguyễn Ngọc Hải chia sẻ.

Ông Hải nói: “Thật ra, bài toán cá tra giống đã tính cách nay 10 năm rồi nhưng vẫn chưa giải xong. Phần lớn người dân vẫn tự làm cá giống nuôi hoặc mua trôi nổi ngoài thị trường. Cây lúa có Viện Lúa ĐBSCL, cây ăn trái có Viện Cây ăn quả miền Nam hỗ trợ về giống, còn con cá tra mặc dù sản lượng xuất khẩu khá lớn nhưng không có đơn vị lớn hỗ trợ chuyên cứu, chuyển giao con giống chất lượng. Còn đề án giống cá tra 3 cấp có rồi nhưng cũng mới hình thành, quy mô chưa cao”.

Ông Hải cho hay, do giống cá tra ít mà nhu cầu nhiều nên giá đã lên mức 70.000 – 80.000 đồng/kg, trong khi vài năm trước đây chỉ ở mức từ 20.000-30.000 đồng/kg.

Theo Chi cục Thuỷ sản tỉnh An Giang, thời gian qua, đa số các cơ sở ương, dưỡng giống cá tra chưa thực hiện việc ghi chép hồ sơ theo dõi quá trình ương, dưỡng làm ảnh hưởng đến công tác quản lý truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, có  một số cơ sở mua cá tra bột trôi nổi (ngoài tỉnh) về ương dưỡng làm xuất hiện tình trạng cá giống có tỷ lệ dị hình cao gây thiệt hại cho hộ nuôi. Đây là vấn đề thách thức đối với nghề ương cá tra giống trong thời gian tới.

Tránh tình trạng người dân mở rộng diện tích nuôi cá tra khi giá tăng cao, Chi cục Thuỷ sản tỉnh An Giang phối hợp với các ngành chức năng có liên quan kiểm tra, hướng dẫn người dân thực thả nuôi theo quy hoạch của UBND tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Sở NNPTNT tỉnh Đồng Tháp cho hay, toàn tỉnh này hiện có 1.228 cơ sở sản xuất, kinh doanh cá tra giống, năm trước số cơ sở trên đáp ứng được nhu cầu con giống trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2018 tình hình thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến tỷ lệ sống cá tra giống ương nuôi, gây ra tình trạng thiếu giống cục bộ vào thời điểm các cơ sở nuôi thương phẩm thả nuôi đồng loạt.

Mặt khác, các cơ sở sản xuất giống hiện chỉ dựa vào kinh nghiệm sản xuất và hướng dẫn lẫn nhau, không có bằng cấp chuyên môn theo đúng quy định. Các cơ sở này còn sử dụng quá nhiều thuốc, hóa chất, kháng sinh trong khâu sản xuất.

Tìm hiểu của phóng viên, diện tích nuôi cá tra ở Đồng Tháp đã trên 1.800ha, tăng 2,4% so với 9 tháng đầu năm 2017. Sản lượng cá tra đạt 319.000 tấn (tăng 14.000 tấn so với cùng kỳ năm trước). Hầu hết các hộ nuôi  đều có hợp đồng bao tiêu sản phẩm, nuôi gia công hoặc liên kết với các doanh nghiệp để đảm bảo được đầu ra. Do giá cá tăng cao nên dự báo diện tích thả nuôi loại cá da trơn này trong thời gian tới sẽ tăng nhiều.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Được Mỹ công nhận tương đương, cá tra vẫn có thể bị áp thuế chống phá giá

Khi được công nhận tương đương, cá tra Việt Nam vẫn có nguy cơ bị áp thuế chống bán phá giá khi vào thị trường Mỹ, và không phải doanh nghiệp nào cũng được xuất khẩu vào thị trường này.

Được công nhận tương đương hệ thống sản xuất, kiểm soát của Mỹ, nhưng cá tra vẫn có thể tiếp tục bị áp thuế chống bán phá giá. Trong ảnh là sản phẩm cá tra phi lê được đưa vào mạ băng.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết với việc Cục Thanh tra an toàn thực phẩm (FSIS) thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đề nghị Văn phòng đăng ký Liên bang Mỹ công nhận tương đương cho ngành cá tra Việt Nam trong chương trình thanh tra cá da trơn (cá thuộc họ Siluriformes), ngành hàng này của Việt Nam đã tương đương với Mỹ về hệ thống sản xuất và kiểm soát.

Theo ông Hòe, trong vòng 30 ngày từ ngày đăng công báo trên Liên bang Mỹ, nếu không bị phản đối, ngành cá tra Việt Nam sẽ chính thức được công nhận tương đương. Tuy nhiên, cá tra Việt vẫn có thể tiếp tục bị áp thuế chống bán phá giá.

“Ngay cả khi được công nhận tương đương, không phải doanh nghiệp nào cũng được xuất khẩu vào Mỹ, mà FSIS sẽ xét duyệt dựa trên cơ sở các nhà máy đã đăng ký đủ điều kiện xuất khẩu theo chương trình thanh tra cá da trơn”, ông Hòe nhấn mạnh.

Câu chuyện áp thuế chống bán phá giá, theo ông Hòe, không liên quan đến việc ngành cá tra được công nhận tương đương, mà là câu chuyện bán dưới giá thành và điều này được giám sát bởi Bộ Thương mại Mỹ (DOC). Hiện Việt Nam chưa được Mỹ công nhận có nền kinh tế thị trường nên giá thành sản xuất cá tra được xác định trên cơ sở giá trị thay thế của một quốc gia khác có nền kinh tế thị trường với điều kiện kinh tế tương đương Việt Nam.

“Một cơ sở khác để Mỹ xem xét áp thuế chống bán phá giá là khi nước xuất khẩu cố tình bán dưới giá thành vào thị trường Mỹ và gây thiệt hại, gây nguy hiểm đến ngành công nghiệp nội địa”, ông Hòe nói thêm.

Trước đó, vào giữa tháng 9-2018, DOC đã công bố mức thuế sơ bộ đối với thuế chống bán phá giá cá tra trong kỳ xem xét hành chính lần 14 (POR14), giai đoạn 1-8-2016 đến 31-7-2017, giảm mạnh so với kết quả cuối cùng kỳ của kỳ POR13. Cụ thể, mức thuế sơ bộ đối với hai bị đơn bắt buộc là 0 và 1,37 đô la/kg; mức thuế cho các bị đơn tự nguyện là 0,41 đô la/kg và mức thuế suất toàn quốc là 2,39 đô la/kg.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

VAI TRÒ CỦA CANXI VÀ MAGIE CHO AO NUÔI

Các chất dinh dưỡng thiết yếu trong sản xuất giống hay nuôi thâm canh, Canxi và Magie đều đóng góp một vai trò không nhỏ quyết định đến chất lượng nước và sức khỏe động vật trong ao nuôi.

Tính chất của nước

Trong môi trường nuôi, động vật thủy sản có thể hấp thu được Canxi (Ca) và Magie (Mg) thông qua nguồn nước hoặc thức ăn. Nồng độ Ca và Mg ít khi được đo trong các ao nuôi, tuy nhiên chúng lại quyết định đến tổng độ cứng của nước ao. Độ cứng được hiểu là nồng độ các các cation hóa trị hai mà chủ yếu là canxi và magie trong nước, được biểu thị bằng mg/l (ppm) của canxi cacbonat tương đương.

Độ cứng có thể được thể hiện ở các hình thức khác nhau: tổng độ cứng và độ cứng Ca có sự khác biệt là độ cứng Mg; tổng độ cứng là tổng của độ cứng Ca và độ cứng Mg. Các yếu tố để chuyển đổi giữa các độ cứng cation và độ cứng như sau: Ca = độ cứng Ca x 2,5 và Mg = độ cứng Mg x 4,12. Trong đó, vôi được sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản có nguồn gốc từ đá vôi, góp phần tạo nên độ cứng của nước.

Trong nước ngọt, hầu hết độ cứng và độ kiềm là tương tự nhau và có phạm vi từ < 5 – 150 mg/l. Ở những vùng đất khô cằn, độ cứng thường vượt quá 100 mg/l và lớn hơn độ kiềm.

Dinh dưỡng thiết yếu

Ca và Mg là những dưỡng chất thiết yếu cần thiết cho ao nuôi và động vật thủy sản. Cá cần Ca để phát triển xương. Tuy nhiên, lượng Ca chỉ đạt 2 mg/l có trong thực vật phù du – thực vật phong phú nhất trong ao nuôi và Mg thì hầu như có rất ít.

Ca đóng vai trò quan trọng trong hệ thống nước cung cấp cho bể ương giống. Nếu độ cứng và độ kiềm trong bể ương cao có thể dẫn tới sự kết tủa của các muối canxi cacbonat. Động vật thủy sản có thể nhận được Ca và Mg từ trong nước và thức ăn của chúng. Thông thường, Ca và Mg được bổ sung đầy đủ cho vật nuôi, tuy nhiên Ca và Mg được cung cấp qua thức ăn thường thấp. Ở những ao có độ kiềm thấp thì Ca và Mg cũng có nồng độ thấp và cần phải bổ sung thêm vôi để cải thiện.

Ở những ao nước ngọt tại các vùng đất khô cằn hay những ao chứa đầy nước ở cửa sông hoặc nước biển thường có độ cứng cao phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Khi những ao này được ngâm vôi, sẽ tích lũy được độ kiềm cao hơn so với độ cứng. Theo góc độ về năng suất thủy sản, độ kiềm là một chỉ tiêu quan trọng hơn so với độ cứng.

Khi bón một lượng phân phosphate cần thiết để duy trì lượng thực vật phù du trong ao cũng có thể làm tăng nồng độ Ca, đặc biệt là khi pH được nâng lên. Chẳng hạn, để sản xuất một lượng cá rô phi như nhau, nhưng lượng phosphate trong ao nuôi cá ở Israel cao hơn gấp 3 lần khi độ cứng là 300 mg/l so với ao tại Alabama, Mỹ với độ cứng khoảng 45 mg/l.

Các vai trò khác

Ngoài việc đóng vai trò là một chất dinh dưỡng thiết yếu, Ca còn có tác dụng trong việc giảm pH khi xảy ra trường hợp tỷ lệ quang hợp cao (tảo phát triển quá mức). Khi tảo phát triển, sẽ làm cạn kiệt nguồn CO2, chúng có thể sử dụng bicarbonate như một nguồn CO2. Nhưng khi sử dụng bicarbonate, sẽ tạo ra cacbonat hydrolyses làm cho pH tăng. Khi đó, Ca2+ sẽ tạo kết hợp với CO2- tạo thành CaCO3 giúp giảm thiểu lượng CO2- và ổn định pH.

Tại những ao có độ kiềm cao và nồng độ Ca thấp, sẽ làm cho pH tăng cao một cách nguy hiểm khi quá trình quang hợp trong ao được đẩy mạnh. Khi đó, Calcium sulfate có thể được sử dụng để làm tăng nồng độ các ion canxi. Nếu độ cứng tương đương hoặc lớn hơn độ kiềm khoảng 2 mg/l thì lượng Calcium sulfate cần bổ sung là 1 mg/l.

Ca và Mg còn có khả năng trung hòa điện tích âm trên các hạt đất sét, từ đó tạo nên khối floc giúp kết tủa và lắng đọng các hạt đất sét lơ lửng trong ao và làm giảm độ đục của nước. Canxi Sulfat thường được sử dụng để làm giảm độ đục của ao với lượng 1.000 – 2.000 kg/ha. Đồng thời, sự hiện diện của Ca2+ cũng làm giảm hiệu ứng độc hại của một số ion kim loại có trên mang thủy sản nhờ khả năng hấp thụ chúng.

Ca còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước ương cho cá giống. Nồng độ tối thiểu của ion canxi để đảm bảo khả năng ấp nở tốt là 10 mg/l cho trứng của cá hồi và 4 mg/l đối với cá da trơn. Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, nồng độ Ca tối thiểu cho các trại giống cá da trơn là 10 mg/l và tốt nhất cho khả năng ấp nở và tỷ lệ sống khoảng 30 mg/l.

Nồng độ thích hợp

Đối với ao nuôi thủy sản nước ngọt, độ cứng và độ kiềm thích hợp cho sự phát triển của các loài nuôi là 60 mg/l. Tại một số vùng nội địa, nơi có độ mặn thấp kéo theo nồng độ Mg thấp làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự phát triển của tôm. Trong trường hợp này, nồng độ Mg được tăng lên bằng cách bổ sung thêm Kali magnesium sulfate hoặc Magnesium sulfate vào ao nuôi. Mặc dù, các nghiên cứu chưa chỉ ra nồng độ lý tưởng của magie trong ao nuôi có độ mặn thấp để nuôi tôm là bao nhiêu, tuy nhiên, tỷ lệ Mg mg/l: ppt (độ mặn) trong nước biển là khoảng 40:1. Như vậy, từ đó có thể ước tính được nồng độ Mg trong môi trường có độ mặn thấp, bằng cách nhân với 40 ppt. Chẳng hạn, tại ao nuôi có độ mặn 2,5 ppt, nồng độ Mg thích hợp sẽ là 100 mg/l.

Nguồn: Trung Tâm Khuyến Nông Tỉnh Lâm Đồng, duyệt bởi Farmtech VietNam

Công dụng mới của Xuyên tâm liên phòng bệnh cho cá

Một nghiên cứu về một loài thực vật được sử dụng trong y học cổ truyền từ rất lâu đời là cây Xuyên tâm liên có khả năng ức chế sự bộc phát cũng như gây hại của liên cầu khuẩn Streptococcus trên cá rô phi.

Cá rô phi, cá điêu hồng được nuôi rộng rãi ở các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ của Việt Nam tuy nhiên dịch bệnh phổ biến xảy ra trên cá chủ yếu do vi khuẩn Streptococcus spp, Bệnh xuất hiện làm tỷ lệ chết lên tới 60 – 100% gây tổn thất lớn và nặng nề cho người nuôi cá.

Khi cá mắc bệnh có các biểu hiện: yếu, thân sẫm màu, bơi trên tầng mặt, mắt lồi, xuất huyết ở mắt và gốc vây, hậu môn và một số nơi trên cơ thể, có những nốt đỏ ở vùng da, xuất huyết đối xứng 2 bên vây lưng, tuột vảy. Trong cơ quan nội tạng: xoang bụng chướng có dịch đặc, túi mật sưng sẫm, lá lách sưng xuất huyết, gan tái, thận sưng viêm. Khi bệnh ghép với nấm làm cho bệnh nặng thêm.

Các hoạt chất kháng khuẩn từ thực vật được nghiên cứu mạnh mẽ, bao gồm những loài cây có khả năng chống lại bệnh xuất huyết lồi mắt trên cá rô phi. Trong đó phải kể đến cây Xuyên tâm liên. Một loài cây thảo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae), có nguồn gốc từ Ấn Độ và Sri Lanka. Trong toàn cây xuyên tâm liên có 14 chất glucozit và flavon, với hoạt chất chính là andrographolide. Những chất có công dụng dược học rất mạnh mẽ. Phân tích cho thấy cây Xuyên tâm liên là một loài thực vật có những hoạt tính kháng khuẩn rất mạnh, vì vậy cần có những liều lượng thích hợp khi bổ sung vào thức ăn của cá. Nghiên cứu trước đây của C.Balasundaram và R.Harikrishnan, 2009 từng công bố cho thấy lá cây xuyên tâm liên nghiền nhỏ trộn vào thức ăn cá với liều 0.2% giúp cá chống lại xuất huyết.

Khi cá mắc bệnh có các biểu hiện: yếu, thân sẫm màu, bơi trên tầng mặt, mắt lồi, xuất huyết ở mắt và gốc vây, hậu môn và một số nơi trên cơ thể, có những nốt đỏ ở vùng da, xuất huyết đối xứng 2 bên vây lưng, tuột vảy. Trong cơ quan nội tạng: xoang bụng chướng có dịch đặc, túi mật sưng sẫm, lá lách sưng xuất huyết, gan tái, thận sưng viêm. Khi bệnh ghép với nấm làm cho bệnh nặng thêm.

Các hoạt chất kháng khuẩn từ thực vật được nghiên cứu mạnh mẽ, bao gồm những loài cây có khả năng chống lại bệnh xuất huyết lồi mắt trên cá rô phi. Trong đó phải kể đến cây Xuyên tâm liên. Một loài cây thảo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae), có nguồn gốc từ Ấn Độ và Sri Lanka. Trong toàn cây xuyên tâm liên có 14 chất glucozit và flavon, với hoạt chất chính là andrographolide. Những chất có công dụng dược học rất mạnh mẽ. Phân tích cho thấy cây Xuyên tâm liên là một loài thực vật có những hoạt tính kháng khuẩn rất mạnh, vì vậy cần có những liều lượng thích hợp khi bổ sung vào thức ăn của cá. Nghiên cứu trước đây của C.Balasundaram và R.Harikrishnan, 2009 từng công bố cho thấy lá cây xuyên tâm liên nghiền nhỏ trộn vào thức ăn cá với liều 0.2% giúp cá chống lại xuất huyết.

Kháng Streptococcus từ chiết xuất lá Xuyên tâm liên
Trong nghiên cứu này, sáu loại thảo mộc đã được đánh giá về hoạt tính kháng khuẩn của chúng đối với liên cầu khuẩn Streptococcus agalactiae, một tác nhân gây bệnh chính gây bệnh Streptococcosis. Mỗi loại thảo mộc được chiết xuất với 3 dung môi: nước, 95% ethanol và methanol.

Sử dụng các xét nghiệm đĩa giấy tăm bông, các chất chiết xuất từ Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) và tỏi Allium sativum tạo ra các vùng ức chế lớn nhất (27,5 mm) và nhỏ nhất (10,3 mm), tương ứng. Xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của chất chiết xuất từ thảo dược đối với S. agalactiae cho thấy chiết xuất từ cây Xuyên tâm liên A. paniculata có giá trị MIC thấp nhất (31,25 μg / mL). Chiết xuất của tỏi A. sativum là chiết xuất thảo dược duy nhất có MIC> 500 μg / mL.

Dựa trên tỷ lệ chết của cá trong 2 tuần sau khi tiêm S. agalactiae màng bụng, liều gây chết trung bình (LD50) của S. agalactiae đối với cá rô phi (Oreochromis niloticus) là 3,79 × 105 CFU / mL.

Các thí nghiệm in vivo cho thấy thức ăn cho cá bổ sung với bột lá Xuyên tâm liên A. paniculata hoặc chất khô chiết xuất từ lá Xuyên tâm liên làm giảm tỷ lệ tử vong của cá rô phi sau khi nhiễm S. agalactiae một cách rõ rệt. Ngoài ra, không có cá thể chết được tìm thấy trong nhóm cá nhận chất bổ sung xuyên tâm liên. Một dấu hiệu rất tốt và đáng ghi nhận.

Trong 2 tuần cho ăn bằng thức ăn bổ sung chiết xuất từ Xuyên tâm liên A. paniculata, không thấy ảnh hưởng xấu đến hình dạng, hoạt động hoặc phản ứng khi ăn của cá. Điều này chứng tỏ chúng an toàn đối với sức khỏe cá.

Qua đánh giá gây bệnh thực nghiệm trên cá rô phi cũng cho thấy khi bổ sung chiết xuất là Xuyên tâm liên với liều 0.3%, khả năng đề kháng của cá đối với liên cầu khuẩn Sreptococcus được tăng lên đáng kể. Nghiên cứu đã khẳng định vai trò phòng chống bệnh xuất huyết lồi mắt trên cá của một loài cây phổ biến tại Đông Nam Á. Qua đó giúp người dân hạn chế được rủi ro do loài vi khuẩn nguy hiển này gây ra.

Nguồn Trị Thủy đã được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Hiệu quả từ nuôi tôm ứng dụng kỹ thuật cao

10 năm phát triển kinh tế với con tôm, ông Trần Hoàng Vũ – Giám đốc Công ty TNHH Hoàng Vũ (Ấp 3, xã Bình Thới, huyện Bình Đại) đã đúc kết những kinh nghiệm đắt giá để nuôi tôm hiệu quả. Hiểu rõ tập tính của con tôm, nắm vững kỹ thuật nuôi, kết hợp với ứng dụng khoa học kỹ thuật, phương thức quản lý hiệu quả, trong vụ nuôi năm 2017, ít có người nuôi tôm nào thắng lớn như cơ sở Hoàng Vũ.

Làm chủ kĩ thuật nuôi 

Năm 2017, trại nuôi tôm của ông Vũ có 12 ao nuôi, tổng diện tích 10ha, thả 2,7 triệu con giống tôm thẻ chân trắng. Sau 110 ngày nuôi, ông thu được 63 tấn tôm, kích cỡ tôm 28 – 30 con/kg, bán được gần 9,5 tỷ đồng, trừ chi phí lợi nhuận trên 5,8 tỷ đồng. Theo ông, thắng lợi trên do kết hợp chặt chẽ, bài bản giữa cách nuôi khoa học, biết ứng dụng công nghệ hiện đại với kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời phải nắm bắt được yếu tố thị trường.

Sau những lần thất bại với con tôm, ông nhận ra được “thiên thời” là rất quan trọng nên ông chỉ tổ chức nuôi khi thời tiết thuận lợi, vào vụ mùa chính và chỉ nuôi 1 vụ trong năm. Đồng thời, qua nhiều năm nuôi, môi trường ao nuôi sẽ xấu dần do xử lý nhiều hóa chất ảnh hưởng sức khỏe tôm, dễ gây dịch bệnh trong quá trình nuôi. Chi phí quá lớn cho các trang thiết bị phục vụ cho nuôi như hệ thống oxy, hóa chất, kháng sinh cũng đẩy giá thành sản phẩm tôm lên cao, có khi thắng lợi tôm nhưng lợi nhuận rất thấp, rủi ro thất bại cao và gây tác hại nhiều mặt cho môi trường…. Hướng đi của ông Vũ bắt đầu thay đổi. Ông xác định ra cách nuôi mới.

Khi chưa vào vụ chính, ông lấy đầy nước vào tất cả các ao, trước khi thả nuôi 45 ngày, ông chọn ao thả giống, cứ 2 hoặc 3 ao liền kề, chọn ra 1 ao tiến hành cải tạo ao nuôi thật kỹ, phơi ao, xới đất, bón vôi CaO + Đolomite trước rồi sử dụng xe lu nhỏ lăn lại cho nền cứng. Nước được xử lý clo riêng ở ao liền kề sau đó mới cấp sang ao nuôi, điều này để tránh biến động môi trường như nước trong không gây màu được, pH biến động, kiềm thấp do xử lý trực tiếp hóa chất clo làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tôm giống trong 30 ngày đầu mới thả. Thả tôm ở ao 1 với mật độ dày, đến 35 – 40 ngày tuổi, mở cống cho tôm sang ao 2 để san thưa mật độ.

Vấn đề thứ hai trong nuôi tôm là đảm bảo oxy cho con tôm. Trong quá trình nuôi, ông Vũ nhận thấy thiết bị quạt oxy hiện tại nặng nề, cồng kềnh lại tốn điện, dễ rủi ro trong vận hành, nhưng hiệu quả không cao vì quạt nước chỉ tạo oxy trên bề mặt ao, làm bốc hơi nước nhanh, ao nhanh cạn. Hoặc nếu đặt ống dẫn nhựa rồi bơm không khí xuống, chi phí cao, rất cực nhọc khi cải tạo, vận hành, nhất là khi tôm bị dịch bệnh phải xúc rửa trong khi con tôm cần nhiều oxy hòa tan trong nước. Vì vậy, ông nghiên cứu, tìm kiếm các thiết bị sục oxy đáy ao. Hiện tại, trại tôm của ông đã lắp đặt hoàn toàn loại thiết bị sục oxy này, hiệu quả vượt trội, lượng oxy trong nước ổn định, chỉ số oxy hòa tan trên 5mg/l. Ông nhận xét: “Một máy sục khí này cho hiệu quả gấp đôi, gấp ba lần quạt nước. Trên 1 ao 5.000m2, sản lượng tôm thu hoạch 7 tấn tôi chỉ lắp 4 máy ở 4 góc ao là đủ. Thiết bị này còn tiết kiệm điện hơn, nhẹ nhàng, dễ thao tác, bảo quản, ít mất sức lao động, sử dụng hơn 9 năm rồi không hư hỏng”. Ngoài ra, ông còn sử dụng máy cho ăn tự động để tiết kiệm nhân công, tính được lượng thức ăn cho tôm, tránh lãng phí, dư thừa thức ăn, tránh làm dơ ao.

Đầu tư phát triển công nghệ

Công ty Hoàng Vũ là đơn vị đã mạnh dạn cho Viện Công nghệ Nano (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) “mượn đất” để lắp đặt mô hình thực nghiệm hệ thống tuần hoàn năng lượng từ chất thải sinh khối địa phương, phục vụ công tác nghiên cứu xử lý chất thải trong nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi thành năng lượng điện thông qua pin nhiên liệu rắn thế hệ mới. Hệ thống được các kỹ thuật viên, các nhà nghiên cứu Trường Đại học Kyushu (Nhật Bản), Viện Công nghệ Nano lắp đặt vào tháng 9-2016, bắt đầu vận hành từ tháng 4-2017.

Tại Hội thảo Ứng dụng công nghệ Nano trong nông nghiệp (WANA 2018) vừa qua, PGS.TS. Yushuke Shiratori (Đại học Kyushu – Nhật Bản) đã thuyết minh hiệu quả bước đầu của mô hình thực nghiệm tại Công ty TNHH Hoàng Vũ. Mô hình thực nghiệm là một hệ thống gồm các thiết bị công nghệ hiện đại gồm: hệ thống màng lọc nước, bồn lên men kỵ khí, trạm phát điện pin nhiên liệu, bộ sục khí, hệ thống than hóa. Ao thử nghiệm có diện tích 3.000m2, cũng được xử lý nước trước như các ao khác. Trong thời gian nuôi, nước ao nuôi được rút lên xử lý qua hệ thống lọc nước và xả nước sạch lại ao liên tục 24/24 giờ mỗi ngày.

Chất thải từ ao tôm trộn với bã mía, bã dừa, các loại chất thải nông nghiệp khác qua bồn lên men kỵ khí được xử lý thành khí biogas và bùn thải biogas. Chất bùn này được xử lý tại hệ thống than hóa tạo thành than xốp, bón cho vườn cây ớt (thử nghiệm) cho trái rất sai. Khí biogas được sử dụng làm nhiên liệu vận hành hệ thống phát điện SOFC. Năng lượng điện này được dùng để vận hành máy sục khí oxy cho ao tôm.

Với những kỹ thuật sử dụng đã mang đến những hiệu quả bước đầu rất khả quan. Ao nuôi tôm thực nghiệm cho năng suất cao nhất trong 12 ao, con tôm lớn nhanh, ít bị bệnh, tỷ lệ thu hoạch cao. Đồng thời bước đầu giải quyết được các vấn đề về môi trường, sử dụng được chất thải từ nông nghiệp để phát điện. “Tôi luôn tâm niệm sẽ làm những việc có ích lợi cho cộng đồng. Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục liên kết, áp dụng mô hình thực nghiệm. Mong rằng khi công trình nghiên cứu thành công, nhiều người nuôi tôm có thể áp dụng rộng rãi, góp phần giảm những rủi ro, nuôi tôm đạt hiệu quả hơn”, ông Hoàng Vũ cho biết.

Dự án “Nghiên cứu xử lý chất thải trong nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi thành năng lượng điện thông qua pin nhiên liệu rắn thế hệ mới – góp phần phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long” là dự án thuộc chương trình Hợp tác nghiên cứu khoa học và công nghệ vì mục tiêu phát triển bền vững (SATREPS) do Bộ Khoa học và Công nghệ Nhật Bản và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA đồng tài trợ, Viện Công nghệ Nano chủ trì, được thực hiện trong 5 năm (2015 – 2020).

Nguồn: Đồng Khởi, đã được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Hà Tĩnh: Chủ đầm khẩn trương thu hoạch tôm “chạy” bão

Tránh thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 (Sơn Tinh), từ ngày 17- 18/7, HTX Nuôi trồng thủy sản Xuân Thành (Xuân Phổ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) đã tiến hành thu hoạch tôm “chạy” bão.
Anh Hồ Quang Dũng – Giám đốc kỹ thuật HTX NTTS Xuân Thành cho biết: “Mặc dù tôm nuôi chưa đến thời điểm thu hoạch, nhưng HTX vẫn tiến hành thu để tránh bất trắc do mưa bão. Trong 2 ngày, HTX đã thu hoạch được 45 tấn tôm thương phẩm, kích cỡ tôm đạt 55 con/kg.”


Thời điểm này tôm nuôi chưa được giá nhưng HTX cũng phải thu hoạch vì mưa bão
“Đầu tư cho nuôi tôm công nghệ cao trên cát là rất lớn, nhưng thu hoạch sớm thì không được giá, lợi nhuận lại thấp. Tuy nhiên, gặp phải mưa bão thì phải chủ động ứng phó, tránh thiệt hại đáng tiếc xẩy ra” – anh Dũng chia sẻ.
Thời điểm này, ở một số diện tích nuôi tôm ở Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên… người nuôi cũng đang tiến hành thu hoạch tôm “chạy” bão và triển khai các biện pháp ứng phó. Các trang thiết bị, mô tơ quạt nước, kiểm tra máy phát điện… cũng đã được huy động để có biện pháp đối phó.
Theo ông Nguyễn Công Hoàng – Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản, trước thông tin cơn bão số 3 ảnh hưởng đến địa bàn Hà Tĩnh, Chi cục Thủy sản cũng đã khuyến cáo bà con khẩn trương thu hoạch tôm khi đã đạt kích cỡ thương phẩm, tránh thiệt hại đáng tiếc xẩy ra.
Ngoài ra, tại các vùng tôm nuôi còn nhỏ, người dân cần tiến hành xả nước để tránh mưa lớn xảy ra ngập lụt, đồng thời chủ động gia cố hệ thống bờ, cống đề phòng khi có tình huống xấu xảy ra do mưa bão; đặt lưới chắn xung quanh bờ (độ cao 40-50 cm, ghim sâu 20-30cm dưới mặt đất), giảm thất thoát gây thiệt hại sản xuất khi mưa lũ kéo dài…

Nguồn: Hữu Trung – Đã được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Con tôm thẻ nằm… chờ giá

Đến cuối tháng 5, giá tôm nguyên liệu vẫn liên tiếp sụt giảm, hiện xuống thấp gần như kỷ lục. Giá tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg chỉ còn khoảng 70.000 đồng/kg. Với giá này, người nuôi tôm chỉ có thua lỗ và giải pháp duy nhất là phải chờ.
Đầm Dơi là vùng nuôi tôm công nghiệp đứng đầu tỉnh Cà Mau. Hiện nay nhiều ao nuôi tôm theo hình thức thâm canh và siêu thâm canh (trải bạt) đã quá lứa cả tháng nhưng tôm vẫn phải nằm chờ giá. Khổ nỗi, do sức ăn mạnh bạo của tôm thẻ, nên cứ sáng mở mắt ra là nông dân phải tốn hàng chục triệu đồng cho tôm ăn.
Hiện tôm thẻ loại 30 con/kg có giá 125.000-130.000 đồng/kg, loại 50 con/kg giá 95.000-100.000 đồng/kg, giảm từ 35.000-45.000 đồng/kg so với trước đó. Trong khi giá tôm thẻ chân trắng liên tục giảm thì giá tôm sú vẫn khá bình ổn.
Ông Trần Văn Việt, ấp Tân Điền B, xã Tạ An Khương, huyện Đầm Dơi, than thở: “Nuôi tôm vất vả mấy tháng trời nay, vậy mà giá tôm rớt quá. Nếu nuôi tiếp để chờ giá thì không biết khi nào giá mới tăng trở lại đây. Bây giờ giá quá thấp nên chưa bán được, dù lên sớm hay muộn thì tôi cũng đã chuẩn bị tâm lý lỗ rồi”.
Không riêng gì ông Việt, nhiều hộ nuôi tôm thẻ hiện nay chỉ biết khóc ròng vì tiền thức ăn, thuốc thú y cứ phải đổ vào các đầm tôm. “Nếu giá tôm thẻ chân trắng thấp như hiện nay thì người nuôi sẽ không có lãi, thậm chí những hộ nuôi tôm công nghệ cao còn phải chịu lỗ nặng”, ông Lê Thanh Đăng, Chuyên viên thuỷ sản, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đầm Dơi, nói.
Theo ghi nhận, tại Đầm Dơi có 2.026 ha nuôi tôm công nghiệp nhưng hiện nay trên 50% diện tích này đang bỏ trống vì nuôi tiếp sẽ không có lãi, hiện người nuôi chờ giá tăng trở lại mới tiếp tục. Còn những hộ đang nuôi dở dang thì vẫn tiếp tục nuôi cầm chừng để chờ giá. Theo tìm hiểu của phóng viên, nguyên nhân làm cho giá tôm thẻ chân trắng năm nay giảm mạnh là do ảnh hưởng bởi giá thế giới, nhất là gần đây Ấn Độ, Thái Lan đang vào mùa vụ tôm, họ giảm giá bán để cạnh tranh.
Nếu tính hết chi phí cho vụ nuôi, trung bình mỗi tấn tôm nguyên liệu, người dân phải bỏ ra từ 72-80 triệu đồng. Như vậy, với giá như trên thì mỗi tấn tôm nguyên liệu, nông dân lỗ trên dưới 10 triệu đồng. Người dân nuôi tôm đang hoang mang, lo lắng chờ giá tôm tăng trở lại.
Trước tình hình trên, vừa qua, Bộ NN&PTNT có buổi làm việc với các công ty xuất khẩu tôm tại tỉnh Bạc Liêu tìm hiểu nguyên nhân giá tôm giảm cũng như diễn biến của thị trường tôm trong nước và thế giới. Bộ cũng đã đưa ra khuyến cáo người dân nuôi tôm nên tiến hành thả thưa để giảm rủi ro, giảm chi phí sản xuất, dễ quản lý môi trường ao nuôi. Từ đó, kéo dài thời gian nuôi giúp tôm tăng kích cỡ, tăng sản lượng và thu hoạch ở thời điểm thích hợp nhất về giá.
Đồng thời các địa phương cần khuyến cáo người dân đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho vụ nuôi mới. Đưa ra quy hoạch nuôi giữa 2 đối tượng tôm thẻ và tôm sú trong loại hình thâm canh, siêu thâm canh cho phù hợp hơn.
Theo nhận định của các công ty xuất khẩu tôm, thì giá tôm sẽ tăng trở lại trong tháng 8-9 tới. Do đó người dân nuôi tôm cần nắm bắt thông tin để có kế hoạch thả nuôi ở thời điểm thích hợp nhất.

Xác định nguyên nhân Tôm Hùm chết ở Vịnh Xuân Đài – Sông Cầu, Phú Yên

Nguyên nhân tôm hùm chết được xác định là do môi trường vùng nuôi bị ô nhiễm và tôm hùm bị nhiễm bệnh sữa.

Tôm Hùm

Tính đến thời điểm này, số lượng nuôi tôm hết ở Phường Xuân Yên và xã Xuân Phương, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên đã lên trên 523.000 con với tổng thiệt hại lên đến hàng chục tỷ đồng. Nguyên nhân tôm hùm chết được xác định là do môi trường vùng nuôi bị ô nhiễm và tôm hùm bị nhiễm bệnh sữa.

Kết quả phân tích mẫu nước của Trung tâm Giống và Kỹ thuật thủy sản Phú Yên cho thấy: Thành phần tảo giáp chiếm ưu thế, mật độ tế bào tảo rất cao. Các chỉ tiêu NH3, PO4 vượt ngưỡng cho phép trong nuôi trồng thủy sản, chỉ tiêu oxy hòa tan trong nước quá thấp.

Trong khi đó, kết quả phân tích mẫu bệnh do Cơ quan Thú y vùng 4 thực hiện cho thấy tôm hùm bị nhiễm bệnh sữa.Từ những kết quả này, Sở Nông nghiệp và Phát nông thôn Phú Yên nhận định nguyên nhân tôm hùm chết là do mật độ nuôi quá dày cả về số lượng lồng nuôi và số con/lồng nuôi. Thức ăn dư thừa, chất thải từ hoạt động nuôi tích tụ, gây ô nhiễm nguồn nước tại khu vực nuôi.

Một yếu tố khác là thời tiết thay đổi đột ngột, có mưa dông đã làm nước có hiện tượng phân tầng, tầng đáy rất lạnh nhưng bề mặt có ánh sáng mạnh, nhiệt độ cao làm quá trình phân hủy hữu cơ ở tầng đáy diễn ra mạnh và tảo phát triển quá mức gây hiện tượng thiếu oxy cục bộ làm các loài thủy sản nuôi và sống trong tự nhiên bị chết ngạt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phú Yên: Khuyến cáo về môi trường nuôi Tôm Hùm chưa cải thiện

Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản tỉnh Phú Yên khuyến cáo người nuôi tôm hùm bằng lồng bè ở vịnh Xuân Đài (thị xã Sông Cầu) về môi trường nuôi chưa được cải thiện.

Tôm Hùm tại Vịnh Xuân Đài

Theo đó, hàm lượng oxy hòa tan tại các vùng nuôi vẫn còn ở mức thấp. Tôm hùm nuôi và cá ngoài tự nhiên vẫn còn bị chết rải rác.

Địa phương đã khuyến cáo, hộ nuôi nên di dời lồng đến vùng có mực nước sâu hơn, nơi nước được lưu thông tốt. Đồng thời, nên nâng lồng nuôi cách tầng đáy từ 2 – 2,5m và cách tầng mặt 1,5m, không đặt lồng nuôi theo hình thức găm chìm.

Bên cạnh đó, người nuôi tôm hùm cần thường xuyên lặn, kiểm tra tình hình sức khỏe tôm hùm, vị trí đặt lồng nuôi, thường xuyên thu gom vỏ tôm lột, các loài thủy sản đã chết và vỏ nhuyễn thể làm thức ăn cho tôm hùm, đưa vào đất liền chôn lấp, không được xả thải trong vịnh Xuân Đài. Người nuôi lựa chọn thức ăn tươi đảm bảo chất lượng, bổ sung chế phẩm sinh học, vitamin và khoáng chất định kỳ nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm hùm….

Theo thống kê chưa đầy đủ của UBND thị xã Sông Cầu, từ ngày 24/5 – 6/6, đã có trên 16 triệu con tôm hùm của 693 hộ nuôi thuộc xã Xuân Phương và phường Xuân Yên bị chết, ước thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tôm Hùm chết hàng loạt ở Phú Yên

Người dân điêu đứng khi tôm hùm nuôi trên vịnh Xuân Đài có trọng lượng từ 0,4-0,7 kg bất ngờ chết, buộc bán tháo mong gỡ vốn.

Tôm Hùm Phú Yên

Ông Lê Minh Lộc (phường Xuân Thành, thị xã Sông Cầu) cho biết, gia đình có 30 lồng nuôi với hơn 1.500 con tôm hùm. Gần tháng nay, tôm bất ngờ có hiện tượng chết hàng loạt. “Thoạt đầu chết vài con, nhưng sau đó tăng dần số lượng”, ông Lộc cho biết.

Nhiều lần lặn tầng đáy kiểm tra, ông phát hiện nhiều con rơi vào tình trạng lờ đờ, ngắc ngoải. Nước sủi bọt, bốc mùi hôi thối. “Gia đình nâng lồng lên cách đáy 2-3 m, giúp nước trong hơn nhưng tôm vẫn chết”, ông Lộc nói.

Chủ lồng cho hay, gần 1.000 tôm hùm nuôi gần năm với trọng lượng 0,4-0,7 kg đã chết. “Loại này bán khoảng 1,6 triệu đồng một kg, nhưng chết rồi chỉ bán với giá 400.000-600.000 đồng”, ông Lộc rầu rĩ nói.

Tôm hùm nuôi của gia đình ông Nguyễn Long (xã Xuân Phương) và nhiều hộ khác cũng xảy ra tình trạng tương tự. Mọi người đã sử dụng mọi cách, biện pháp xử lý để cứu tôm nhưng không hiệu quả, nên buộc phải bán tháo mong gỡ vốn.

Lãnh đạo địa phương cho biết, tôm hùm người dân nuôi trên vịnh Xuân Đài chết rải rác, nên chưa thể thống kê được số lượng.

Người dân lo lắng khi tôm hùm nuôi trên vịnh Xuân Đài chết hàng loạt

Theo trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản Phú Yên, kết quả môi trường sau khi xét nghiệm, nguyên nhân ban đầu có thể do tôm nhiễm vi khuẩn bệnh sữa. Khu vực nuôi lồng bè dày đặc đã làm nước bị ô nhiễm, thiếu oxy.

Vịnh Xuân Đài có gần 29.000 lồng nuôi tôm hùm. Hồi năm 2017, hơn 1,6 triệu con tôm hùm của gần 700 hộ dân bị chết, gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.