SHIV – Virus mới phát hiện gây tỉ lệ chết cao trên tôm thẻ chân trắng

Một loại virut mới phát hiện được gây ra bệnh nguy hiểm và tỷ lệ tử vong cao trên tôm chân trắng Litopenaeus vannamei ở Chiết Giang, Trung Quốc, đã được xác minh và tạm thời xác định là Shrimp hemocyte iridescent virus (SHIV). Thuộc họ Iridoviridae.

Để làm rõ tác nhân này, một nhóm các nhà khoa học người Trung Quốc đã tiến hành chẩn đoán và định danh tác nhân gây bệnh trên.

Triệu chứng tôm nhiễm bệnh

-Dấu hiệu bệnh lý tôm nhiễm virus SHIV

Tôm thẻ chân trắng L. vannamei thử nghiệm lây nhiễm virus SHIV từ mẫu 20141215 có các triệu chứng bao gồm: dạ dày và ruột rỗng, sự mất màu nhẹ trên bề mặt của gan tụy và vỏ tôm bị mềm. Một phần ba số tôm có thân hình hơi đỏ (a, b). Tôm mất khả năng bơi lội và chìm xuống đáy ao. Các triệu chứng điển hình và chết cũng đã được quan sát thấy ở tôm càng xanh nhiễm bệnh từ giai đoạn ấu trùng đến tôm trưởng thành trong phòng thí nghiệm.

Các triệu chứng lâm sàng của tôm L. vannamei đã gây nhiễm thực nghiệm với SHIV (phía bên phải) so với nhóm đối chứng (bên trái). (a) Biểu hiện bệnh bên ngoài của tôm. (b) Phần gan tụy.

-Bệnh tích vi thể

Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy một lượng lớn virion trong ống gan tụy của tôm (a và b) và cơ thịt (c và d). Một số  lượng lớn virion trong tế bào chất của bạch cầu (a-d). MI: ty thể; N: hạt nhân; và M: cơ; Ngôi sao đen: mô gan tụy; và ngôi sao trắng: ống gan tụy.

Tổn thương mô (a) – (d) mô gan tụy trong mẫu dương tính SHIV; (e) – (h) mô gan tụy trong mẫu âm tính SHIV. Các màu xanh đã được quan sát thấy trong tế bào chất của các tế bào máu.

 

Các đặc điểm mô bệnh học của tôm L. vannamei cố định bằng dung dịch Davidson (a, c, e và d). Các mũi tên màu đen hiển thị các vết bẩn cơ bản, các mũi tên màu trắng cho thấy các hạt nhân teo nhỏ (nhuộm của mô gan tụy); (b) tổn thương mang.

Phân tích cây di truyền

Cây phát sinh loài dựa trên trình tự axit amin của SHIV trên tôm với các trình tự MCP và ATPase từ các thành viên khác của họ Iridoviridae

Những kết quả phân tích trên của nhóm các nhà khoa học người Trung Quốc cho thấy tác nhân virus gây hại trên là một thành viên mới của họ Iridoviridae. Môt mối đe dọa mới trên tôm thẻ chân trắng L.vannamei ở Trung Quốc cũng như toàn thế giới.

Nguồn: Nature được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Ồ ạt nuôi trồng thủy sản ven bờ

Tình trạng nuôi trồng thủy sản (NTTS) tự phát, ngoài khu vực quy hoạch đang để lại nhiều hệ lụy về môi trường trên vịnh Cam Ranh.

Lồng bè nuôi trồng thủy sản trên vịnh Cam Ranh

Dày đặc ô lồng vùng nước ven bờ

Lâu nay, người dân TP. Cam Ranh và nhiều địa phương lân cận thường đến vịnh Cam Ranh để đầu tư NTTS. Ông Mai Tiều – người dân ở thị trấn Cam Đức (huyện Cam Lâm, Khánh Hòa), đầu tư nuôi cá trên vùng biển vịnh Cam Ranh cho biết: “Tôi từ Cam Đức vào phường Cam Phúc Nam (TP. Cam Ranh) để đầu tư nuôi cá bớp được mấy năm nay. Những năm trước, việc nuôi trồng khá thuận lợi, hiệu quả mang lại cao nên lồng bè giăng kín một góc vịnh Cam Ranh. Mấy năm gần đây, tuy điều kiện thời tiết khắc nghiệt, môi trường vùng nuôi không đảm bảo nhưng số bè nuôi không có dấu hiệu giảm”.

Ông Hoàng Đình Minh – Chủ tịch Hội Nông dân phường Cam Phúc Nam cho biết: “Thời gian gần đây, số lồng bè NTTS, nhất là nuôi tôm hùm xanh trên vùng biển Cam Phúc Nam tăng đột biến. Hiện nay, toàn phường có 364 bè NTTS, với 4.416 lồng; trong đó số bè nuôi của người dân vãng lai là 59 bè. Nguyên nhân là do tôm hùm xanh đang cho hiệu quả và giống rất rẻ nên người dân đổ xô nuôi”. Cũng theo ông Minh, theo quy hoạch, vùng nước Cam Phúc Nam không còn phát triển NTTS, các chủ bè phải di dời về vùng biển xã Cam Bình. Tuy nhiên, người dân ít lưu tâm mà vẫn vô tư thả nuôi, không chịu di dời nên rất khó quản lý.

Đứng ở ven biển phường Cam Linh, phóng tầm mắt ra vài trăm mét là có thể thấy hàng nghìn ô lồng nuôi tôm hùm san sát, các ghe thuyền phục vụ NTTS phải khó khăn lắm mới có thể luồn lách ra bè. Trên bờ, nhiều lồng nuôi tôm hùm xanh vẫn tiếp tục được làm mới chất đầy đường. Theo ngư dân phường Cam Linh, đầu tư nuôi tôm hùm xanh chi phí ít hơn nhiều so với tôm hùm bông. Tôm hùm xanh giống rẻ, ít dịch bệnh, giá bán khá cao.

Theo bà Nguyễn Thị Châu Pha – Chủ tịch Hội Nông dân phường Cam Linh, cách đây 2 năm, trên địa bàn phường chỉ khoảng 1.500 lồng NTTS, nhưng hiện nay đã lên đến trên dưới 6.500 lồng. Theo quy hoạch, vùng nước khu vực Cam Linh không được NTTS lồng bè. Chính quyền địa phương đã tăng cường tuyên truyền, vận động nhưng người dân vẫn ồ ạt NTTS tại khu vực này.

Không riêng gì ở Cam Linh mà nhiều địa phương khác ven vịnh Cam Ranh cũng có chung tình trạng trên.

Những hệ lụy

Ông Lê Minh Hải – Trưởng phòng Kinh tế TP. Cam Ranh cho biết, thành phố hiện có hơn 33.100 lồng NTTS, trong đó có hơn 80% là lồng nuôi tôm hùm xanh, tăng gần 4.000 lồng so với thời điểm đầu năm 2017, gấp nhiều lần so với quy hoạch phát triển NTTS trên vịnh Cam Ranh. Theo số liệu tổng hợp giám sát dịch bệnh của Trạm Chăn nuôi và Thú y Cam Ranh, từ đầu năm 2017 đến nay, tình hình dịch bệnh trên tôm hùm nuôi tại Cam Ranh diễn biến khá phức tạp. Vào thời điểm tháng 3, tỷ lệ tôm hùm chết (chủ yếu có độ tuổi từ 3 đến 5 tháng) ở một số vùng nuôi lên đến 30%. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là do khu vực nuôi lồng bè gần bờ, mật độ nuôi dày, chưa có các quy định hay quy chế vệ sinh chung cho vùng nuôi nên gây ô nhiễm vùng nuôi, dẫn đến phát sinh dịch bệnh trên thủy sản nuôi.

Theo lãnh đạo UBND TP. Cam Ranh, vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay đối với NTTS trên vịnh Cam Ranh là yếu tố môi trường. Thực tế, nhu cầu NTTS của người dân rất lớn, trong khi quy hoạch vùng nuôi tại Cam Bình diện tích chỉ 187ha, không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Mặt khác, các hộ NTTS cho rằng khu vực quy hoạch xa, nước sâu, sóng gió lớn, trong khi kết cấu lồng bè chưa đảm bảo an toàn. Bên cạnh đó, do chưa có chế tài cụ thể, một số địa phương còn buông lỏng công tác quản lý nên tình trạng NTTS tự phát vẫn diễn ra.

Được biết, hiện nay, TP. Cam Ranh đã triển khai cắm mốc, vận động người dân di dời lồng bè đến vùng quy hoạch ở xã Cam Bình nhưng các hộ NTTS chưa thực hiện. Để giải quyết tình trạng này, UBND TP. Cam Ranh đã đề nghị bổ sung vào Quy hoạch phát triển ngành Thủy sản tỉnh giai đoạn 2016 – 2025, tầm nhìn đến năm 2035 thêm 200ha đến 300ha mặt nước ven bờ phục vụ NTTS.

Theo Đề án Quy hoạch phát triển ngành Thủy sản tỉnh giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2035 được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình UBND tỉnh, đến năm 2020, nuôi thủy sản biển trên vịnh Cam Ranh sẽ tập trung vào các đối tượng chính gồm: tôm hùm 28.000 lồng, cá biển 2.000 lồng. Đối với các vùng nuôi ven bờ sẽ di dời toàn bộ diện tích nuôi lồng bè hiện có ở phía tây vịnh Cam Ranh ra khu vực Cam Lập, Cam Bình; khuyến khích các hộ nuôi chuyển sang nuôi lồng bè công nghiệp khu vực phía đông xã Cam Lập…

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Dung dịch giấm táo (ACV) và propionic acid có tác dụng điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Đây được kỳ vọng như là một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm.

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Giấm táo là gì?

Giấm táo (dấm táo) hay Apple cider vinegar là một loại giấm làm từ rượu táo. Giấm làm từ táo có có màu nâu nhạt, đậm dần đến lưng chừng màu hổ phách. Là một loại giấm sống chưa được tiệt trùng. Khi chưa lọc, giấm táo có chứa những phân tử dấm mẹ nhìn giống như có một lớp màng mỏng phía trên mặt hoặc có những trầm tích màu nâu đục lắng tụ dưới đáy chai, đó là những phân tử giấm mẹ dạng loãng.

– Khởi đầu giấm được làm bằng những trái táo băm nhỏ hay nước ép táo, pha trộn với đường. Vi khuẩn và nấm men được thêm vào chất lỏng để tạo nên quá trình lên men rượu.

– Trong quá trình lên men kế tiếp, rượu được chuyển thành giấm bởi vi khuẩn tạo nên axit axetic (Acetobacter). Axit axetic và axit malic là tác nhân hình thành vị chua của giấm.

Nghiên cứu ảnh hưởng của ACV và propionic acid lên tôm thẻ chân trắng

Thí nghiệm này được tiến hành để nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ khác nhau của ACV và Propionic axit (PA) trên biểu hiện của gen miễn dịch liên quan và hiệu suất tăng trưởng ở tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei).

375 con tôm với trọng lượng ban đầu trung bình là 10,2 ± 0,04 g đã được thu thập và làm quen với môi trường nước trong hai tuần. 5 chế độ ăn thử nghiệm bao gồm chế độ ăn đối chứng, chế độ ăn uống 0,5% PA và chế độ ăn 1%, 2% và 4% ACV được sử dụng để nuôi tôm. Tôm được cho ăn 4 lần một ngày với 2,5% trọng lượng cơ thể.

Kết quả:

Biểu hiện của prophenoloxidase (proPo), lysozyme (Lys), penaeidin-3a (Pen-3a) và gen Crustin (Cru) đã được xác định từ gan tụy, sử dụng real-time PCR sau 15, 30 và 60 ngày. Việc biểu hiện gen Lys và proPo được tăng lên đáng kể trong tôm nuôi bằng khẩu phần ACV và PA so với nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày điều trị.

Sau 15 ngày, biểu hiện gen Pen-3a cao hơn đáng kể ở nhóm PA so với nhóm đối chứng. Ngoài ra, tôm ăn với chế độ ăn 1% & 4% ACV và PA cho thấy Pen-3a tăng lên đáng kể sau 30 ngày.

Ngược lại, sự biểu hiện của Cru đã giảm đáng kể khi đáp ứng với chế độ ăn uống của ACV, nhưng sự biểu hiện của Cru trong tôm được xử lý với khẩu phần PA cao hơn nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày.

Kết luận:

Các kết quả cung cấp bằng chứng cho thấy ACV có thể được sử dụng như một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm để điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch.
Nguồn: NCBI được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam 

An toàn sinh học trong nuôi tôm

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) chịu ảnh hưởng nhiều bởi dịch bệnh, trong đó đáng chú ý là các bệnh do virus. Do đó việc đảm bảo An toàn sinh học trong nuôi tôm là thực sự cần thiệt nhằm giảm thiểu tác hại dịch bệnh.

Vai trò An toàn sinh học trong nuôi tôm

Dịch bệnh bùng phát là một trong những vấn đề đáng lo ngại cho phát triển NTTS bền vững. Trong nhiều thập kỉ, các mầm bệnh trên tôm đã và đang gây thiệt hại lớn cho các trại nuôi. Các nhà khoa học không ngừng nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân gây bệnh, nhằm kiểm soát dịch bệnh trên tôm. An toàn sinh học trong nuôi tôm là một khái niệm mới, thường đề cập đến các biện pháp quản lý bảo vệ đàn khỏi sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, đồng thời giảm thiểu sự lây lan và các tác động bất lợi đối với đối tượng nuôi.

Trong nuôi tôm, ATSH liên quan đến các biện pháp để giảm tác động và khả năng lây của mầm bệnh. Hiện nay, người nuôi vẫn chưa thật sự quan tâm đến việc áp dụng các biện pháp ATSH, do nhiều nguyên nhân bao gồm: thiếu kinh nghiệm, tốn chi phí, và chưa thấy được lợi ích thực tiễn của việc áp dụng ATSH trong mô hình nuôi.

Đảm bảo an toàn sinh học trong nuôi tôm

Việc thực hiện các quy trình ATSH đòi hỏi mức độ nhận thức và kỷ luật cao, và sự cam kết mạnh mẽ, cùng với tính bền vững của ban quản lý và cả người thực hiện.

Áp dụng ATSH để quản lý các tác nhân gây bệnh chủ yếu phải phòng ngừa bao gồm: thu mẫu động vật và xét nghiệm nghiêm ngặt; các quy trình xử lý cho động vật và nhân viên, các quy trình làm sạch, khử trùng, và các biện pháp khác được áp dụng để loại bỏ tối đa các tác nhân gây bệnh. Đối với EMS, cần hạn chế sự tích tụ của thức ăn dư thừa cũng như các chất hữu cơ – đây là nguyên nhân cho sự phát triển của tác nhân gây bệnh Vibrio parahaemolyticus.

Trong ngành công nghiệp tôm, các biện pháp an ninh sinh học bao gồm: các vật nuôi được kiểm nghiệm, kiểm dịch, các rào cản vật lý, xử lý nước, sử dụng tôm sạch bệnh (Specific pathogen-free – SPF) và tôm kháng bệnh (Specific athogen-resistant – SPR) (Lightner 2003; Horowitz và Horowitz 2003).

Việc áp dụng ATSH trong nuôi tôm phải đảm bảo lợi ích kinh tế, bao gồm các yếu tố sau: thiết kế mô hình nuôi, thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa sự xâm nhập và phát triển của các tác nhân gây bệnh, nguồn tôm bố mẹ và chất lượng con giống. Nguồn tôm bố mẹ phải được chọn lọc sạch bệnh, có khả năng kháng bệnh và tăng trưởng tốt. Mô hình nuôi hạn chế tối đa sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bao gồm: xác định mùa vụ thả nuôi, hạn chế tối đa việc thay nước, quản lý cho ăn hiệu quả, bổ sung cho tôm ăn các chất kích thích miễn dịch nhằm tăng sức đề kháng của vật nuôi.

Vị trí trại nuôi và thiết kế mô hình nuôi đóng vai trò rất quan trọng cho thành công của vụ nuôi. Điều này ít được trại nuôi quan tâm trong việc thiết kế ban đầu. Điều này đóng vai trò quan trọng trong phòng bệnh.

Hạn chế thay nước và trao đổi nước là một trong những mô hình nuôi được phát triển trong những năm gần đây. Hạn chế thay nước qua đó ngăn ngừa khả năng xâm nhập của các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài, đồng thời tránh được sự biến động của các yếu tố môi trường thường là nguyên nhân gây stress cho vật nuôi. Ở nhiều nước đã áp dụng rất thành công mô hình này trong đó tiêu biểu là mô hình nuôi khép kín theo công nghệ biofloc.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Một vài lưu ý đến bà con nuôi tôm khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới

Khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới, thì kèm theo đó là có một đợt không khí lạnh, đặc biệt là các tỉnh miền Trung và miền Bắc có khi nhiệt độ không khí xuống rất thấp dẫn đến nhiệt độ nước ao nuôi tôm cũng hạ theo. Vì thế trong thời gian này tôm nuôi rất dễ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh đốm trắng gây thiệt hại cho bà con nuôi tôm rất lớn.

Để giảm thiệt hại trong những lúc thời tiết xấu như thế này, bà con cần thực hiện một số lưu ý sau:

Tôm bị đốm trắng

Kiểm tra mực nước ao

Không nên để mực nước ao quá cạn (thấp hơn 1m), vì trong điều kiện thời tiết ấm thì mực nước thấp tôm có thể phát triển tốt được, nhưng khi áp thấp nhiệt đới thì thời tiết chuyển lạnh, nếu mực nước ao nuôi thấp thì nhiệt độ nước tầng đáy sẽ hạ theo rất nhanh, làm cho tôm nuôi dễ phát bệnh, vì thế cần giữ mực nước ao tối thiểu là 1,2m trở lên.

Lưu ý: cũng không nên nâng mực nước ao quá sâu, vì khi áp thấp nhiệt đới thì thời tiết âm u kết hợp theo mưa, do đó hàm lượng oxy hòa tan từ không khí xuống ao nuôi tôm rất thấp, nếu oxy xuống mức quá thấp có thể làm cho tôm chết, tùy theo mật độ tôm nuôi mà bà con có thể nâng lên ở mức hợp lý, nhưng khuyến cáo bà con không nên nâng nước ao nuôi tôm quá 1,6m.

Kiểm tra các yếu tố môi trường

Khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới thường kèm theo mưa, kéo theo các yếu tố môi trường sẽ thay đổi, đặc biệt là pH có xu hướng giảm. Vì thế bà con cần sử dụng vôi để giữ ổn định pH.

Quản lý cho ăn

Khi điều kiện thời tiết bất lợi, thì chắc chắn tôm sẽ giảm ăn, vì vậy trong giai đoạn thời tiết áp thấp nhiệt đới thì bà con nên giảm lượng thức ăn cho tôm, nhằm tránh hiện tượng thừa thức ăn, gây lãng phí và ảnh hưởng xấu đến môi trường ao nuôi tôm, làm phát sinh nhiều khí độc ảnh hưởng đến phát triển của tôm nuôi.

Cho tôm ăn

Tăng sức đề kháng của tôm

Tôm là động vật bậc thấp biến nhiệt, do đó thời tiết (cụ thể là nhiệt độ nước) thay đổi thì nhiệt độ cơ thể tôm sẽ thay đổi theo, vì thế nếu tôm đang yếu kết hợp với thời tiết bất lợi thì đó là lúc tôm dễ bị phát bệnh nhất, do đó trong giai đoạn này bà con nên tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng cách trộn vào khẩu phần thức ăn của tôm các nhóm Vitamin, đặc biệt là Vitamin C rất cần trong giai đọan này.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Những Việc Cần Làm Khi Nuôi Tôm Vào Mùa Mưa

Các yếu tố ở môi trường ao nuôi dễ thay đổi đột ngột mỗi khi vào mùa mưa khiến tôm dễ bị sốc và phát sinh dịch bệnh. Vì vậy, người nuôi cần xử lý và có biện pháp chăm sóc phù hợp cho tôm ở thời điểm này.

Quản Lý Thức Ăn

Người nuôi cần chú ý khi trời mưa cần phải giảm lượng thức ăn cho tôm.

Nên tránh lượng thức ăn dư thừa trong ao bởi thức ăn thừa sẽ khiến pH nước ao giao động mạnh và thường gây ra hiện tượng tôm đóng rong, lục tảo phát triển mạnh.

Mật Độ Thả Thích Hợp

Trong mùa  mưa việc nuôi thả tôm cần tránh mật độ dày, nên thả với mật độ vừa phải (<25 con/ m2), vì:

  • Mùa mưa hàm lượng oxy hòa tan trong nước thấp.
  • Các yếu tố môi trường dễ biến động ( độ pH, độ kiềm, độ mặn…)

 Ao Nuôi

– Người nuôi tôm có thể nuôi thay đổi ao sau từng vụ.

– Cần cung cấp nước đầy đủ khi cần thiết.

– Việc xử lý và lắng nước cần thực hiện theo đúng quy trình.

Tăng Cường Hệ Thống Quạt Nước, Oxy Đáy Ao

–  Các chuyên gia thủy sản cho rằng cứ 1 cánh quạt cung cấp đầy đủ oxy cho 2.800 con tôm từ lúc mới thả đến khi thu hoạch.

– Người nuôi cần lắp cánh quạt theo đúng yêu cầu kỹ thuật:

+ Để mùn bã hữu cơ được gom vào giữa thì khi vận hành quạt nước phải được xoáy vào giữa ao.

+ Vận tốc của guồng quạt phải đạt từ 80-85 vòng/ phút.

+ Cách thử: Có thể đổ xuống ao từ 5-10 kg saponin, sau đó cho quạt chạy, nếu bọt nước tập trung ở giữa ao là lắp quạt đúng.

– Tăng cường hệ thống oxy đáy ao nếu có thể.

– Người nuôi cần làm hệ thống lưới đáy ao giúp hạn chế phù sa và tăng thêm diện tích cho tôm ở.

Tăng Cường Bón Vôi Trong Ao Nuôi

Trong ao nuôi pH luôn phải đạt từ 7,5-8,5, sau khi mưa một lượng a-xít trong nước mưa sẽ làm pH giảm xuống và có thể gây sốc cho tôm, do đó:

– Để giúp tôm không bị sốc sau khi mưa cần bón vôi bổ sung cho ao nuôi (tùy theo độ pH để bón).

– Để tránh hiện tượng phân tầng nước, người nuôi cần chú ý kết hợp quạt nước.

– Trước khi có dấu hiệu của những cơn mưa cần rải vôi dọc bờ ao.

 Giải Quyết Nước Đục Trong Ao

– Nước trong ao đục chủ yếu do hạt sét gây nên. Tuy không gây ảnh hưởng trực tiếp cho tôm nhưng gây ra một số ảnh hưởng sau:

+ Làm tảo không quang hợp được dẫn đến thiếu oxy trong ao, hàm lượng CO2 quá cao làm tôm ngạt thở.

+ Tôm hay bị sưng hoặc vàng mang do phù sa bám vào.

– Để khắc phục hiện tượng nước đục sau khi mưa, có thể sử dụng 1 trong những cách sau đây để giải quyết cho ao 5.000m3 nước:

+ Dùng 125kg rơm khô thả dọc bờ ao và kết hợp 10 kg BLUEMIX. Rơm được bó thành từng bó khoảng 3-5 kg thả xuống ao, khi thấy nước tiết ra có màu đỏ thì vớt lên và lặp lại 2-3 lần.

+ Dùng 150 kg thạch cao, nếu sau 2 lần đánh mà nước vẫn chưa trong thì nên tăng nồng độ ở lần thứ 3. Chú ý trước khi sử dụng thạch cao phải nâng độ kiềm của ao lên 100 ppm rồi mới sử dụng.

Sau khi sử dụng 1 trong 2 phương pháp trên mà không có hiệu quả thì chúng ta sử dụng phương pháp sau:

+ Dùng sun-phát nhôm Al2(SO4)3.14 H2O với liều lượng 50 kg. Khi sử dụng phương pháp này chú ý phải tăng pH và độ kiềm của ao .Đây là biện pháp cuối cùng, chỉ sử dụng khi không còn làm được cách khác vì rất nguy hiểm.

Khi nước đã giảm đục cần phải gây màu nước bằng cách dùng BLUEMIX với liều lượng 2-3 kg/1.000m3 nước.

 Thường Xuyên Kiểm Tra Hoạt Động Của Tôm Và Môi Trường Nước Sau Mưa

– Người nuôi cần kiểm tôm nuôi (các đặc điểm hình dáng bên ngoài, màu sắc, phản xạ, kiểm tra đường ruột của tôm, thức ăn trong nhá…)

– Kiểm tra các yếu tố môi trường ao như:  pH, độ kiềm, độ đục, độ mặn.

Khánh Hòa: 100 ao nuôi tôm 90 ao trúng đậm, nhiều hộ lãi tiền tỷ

Năm nay thời tiết thuận lợi, tôm thẻ chân trắng thả nuôi trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ít xảy ra dịch bệnh, vì thế nhiều nơi bà con thu hoạch có lãi khá. Đặc biệt là do bà con có nhiều năm kinh nghiệm nuôi tôm nên tỷ lệ ao tôm trúng đậm rất cao.
Chúng tôi có mặt tại các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Ninh Phú và phường Ninh Giang (TX Ninh Hòa) khi người nuôi đang thu hoạch vụ thứ 2. Niềm vui thể hiện rõ trên khuôn mặt rám nắng của họ khi 2 vụ liên tiếp có lãi.

Ông Nguyễn Phú, một người nuôi tôm ở khu vực thôn Tiên Du 1, xã Ninh Phú phấn khởi chia sẻ, năm nay hầu hết người nuôi tôm ở đây đều có lãi, trong vụ 1 nuôi 100 ao thì có trên 90 ao bội thu. Tuy nhiên mức lãi nuôi tôm trong ao đất không cao. Người lãi nhiều trên trăm triệu đồng, lãi ít vài chục triệu. Nguyên nhân do người nuôi không dám thả dày kết hợp nuôi cua.

Vụ tôm 2017, nhiều người nuôi ở Khánh Hòa có lãi.

“Với diện tích gần 1ha, tôi chỉ thả khoảng 10 vạn giống/2 vụ, với giá đầu tư 920.000 đồng/vạn con giống, sau khi thu hoạch trừ chi phí còn lãi hơn 50 triệu đồng”, ông Phú chia sẻ.

Ông Nguyễn Phú cho biết qua 2 vụ nuôi tôm hầu hết người nuôi có lãi

Nuôi tôm trong ao đất có mức lãi khiêm tốn, nhưng nuôi ao trải bạt năm nay cho lãi hàng tỷ đồng. Tiêu biểu là hộ anh Lê Minh Chính áp dụng nuôi tôm theo công nghệ biofloc ở khu vực thôn Hang Dơi. Gặp chúng tôi, anh Chính cho biết, vụ 1 gia đình thả 1 triệu giống trong 6.600m2, sau hơn 2 tháng nuôi thu 19 tấn, với kích cỡ tôm đạt từ 40 – 60 con/kg, bán với giá 140.000 đ/kg.

Anh Chính áp dụng nuôi theo công nghệ biofloc.

Còn vụ thứ 2, anh thả 1,5 triệu giống trong 9.600m2, sau 2 tháng nuôi, tôm đạt 70 – 80 con/kg, sản lượng trên 25 tấn, bán với giá 112.000 đ/kg.

Ông Phan Thanh Sinh, Phó Chủ tịch xã Ninh Phú cho biết, toàn xã có khoảng 170ha nuôi tôm, trong đó 4ha nuôi trải bạt. Năm nay ở 2 vụ nuôi bà con đều thả 100% diện tích. Vụ đầu tiên hầu hết người nuôi có lãi, còn vụ thứ 2 đã thu hoạch hơn 50%, trong đó khoảng 15% diện tích có lãi, số còn lại huề vốn.

Tại vùng nuôi tôm ở phường Ninh Giang, người nuôi đã thu hoạch gần kết thúc. Ông Huỳnh Chiếm Đạt, Phó Chủ tịch phường cho hay, toàn phường có 81ha nuôi tôm, qua 2 vụ chỉ có 7,1ha bị dịch bệnh, giảm nhiều so với mọi năm. Số diện tích còn lại bà con thu hoạch đạt 1,5 tấn/ha. Sản lượng cả 2 vụ ước đạt 110 tấn.

“Đây là vụ tôm được mùa hơn mọi năm trước. Việc người nuôi có lãi có thể do thời tiết thuận lợi và tuân thủ thả giống có nguồn gốc, nuôi mật độ thưa. Thêm vào đó, địa phương cũng phối hợp cơ quan chuyên môn tổ chức nhiều lớp tập huấn nuôi tôm an toàn”, ông Đạt chia sẻ.

Tại vùng nuôi tôm trên bạt ở xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh, người nuôi tôm cũng vui mừng không kém vì thu hoạch trúng đậm. Ông Ngô Chín, một người nuôi tôm ở đây cho biết, 2 vụ thả nuôi diễn ra suôn sẻ, rất nhiều hộ lãi tiền tỷ. Gia đình ông có ao nuôi 3.000m2, mỗi vụ thả từ 60 – 80 vạn tôm giống. Sau khi thu hoạch bán sản phẩm, trừ chi phí còn lãi hơn 1 tỷ đồng.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

 

 

Tìm hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên

Để phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững thì phải có quy hoạch chi tiết và quản lý quy hoạch này; không để xảy ra việc nuôi tự phát của người dân.

Trước tình trạng vùng nuôi tôm hùm liên tục bị thiệt hại thời gian qua do ô nhiễm, ngày 16.8, tại TP.Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên phối hợp Bộ NN-PTNT tổ chức hội thảo bàn giải pháp quy hoạch chi tiết và quản lý nuôi tôm hùm bền vững ở địa phương.

Nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên phát triển từ những năm 1990, từ năm 2000 tỉnh đã đưa vào quy hoạch phát triển nghề nuôi trồng này và TX.Sông Cầu được xem là vùng nuôi tôm hùm trọng điểm. Ông Lương Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND TX.Sông Cầu, cho biết hiện ở địa phương có hơn 2.142 hộ nuôi tôm hùm với khoảng 16.000 lồng nuôi tôm thương phẩm, sản lượng hơn 600 tấn/năm với doanh thu khoảng 500 – 600 tỉ đồng. Nghề nuôi này đã đóng góp đáng kể vào nền kinh tế – xã hội của địa phương.

Nuôi tôm hùm ở Sông Cầu, Phú Yên

Quản lý lỏng lẻo

Tuy nhiên, vùng nuôi tôm hùm ở xã Xuân Phương và Xuân Yên (TX.Sông Cầu) liên tiếp 2 năm liền bị chết, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm. Theo ông Nguyễn Tri Phương, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên, mật độ nuôi ở đây gấp 4 lần so với quy định. “Đó là do chúng ta không quản lý, thả lỏng việc nuôi tôm hùm ở vùng này”, ông Phương nói và thừa nhận về quản lý chỉ mới khoanh vùng, chứ chưa giao mặt nước cho người dân. Trong khi đó, những tồn tại hiện nay của nghề nuôi tôm hùm tại Phú Yên là nguồn giống vẫn khai thác tự nhiên nên không đủ cung cấp, phải nhập tôm hùm giống nước ngoài nhưng kiểm soát không tốt; thức ăn chính từ nguồn khai thác cá tạp tươi, ốc, sò, cua ghẹ… góp phần gây ra ô nhiễm môi trường; thị trường tiêu thụ chủ yếu là Trung Quốc.

Ông Trần Minh Phương ở xã Xuân Cảnh (TX.Sông Cầu) khẳng định nghề nuôi tôm hùm đã tạo ra nguồn thu lớn, thay đổi đời sống nhưng rủi ro nghề này càng ngày càng tăng cao vì phụ thuộc vào thị trường và tôm chết bất ngờ. Hơn nữa, người dân phát triển lồng nuôi tôm hùm rất nhanh, dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường. Vì vậy, đề nghị chính quyền địa phương quản lý chặt chẽ.

Ô nhiễm từ cách nuôi

Ông Võ Minh Khôi, Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản thuộc Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), cho biết khi đi khảo sát vùng tôm chết tại P.Xuân Yên và xã Xuân Phương (TX.Sông Cầu) thì thấy nghịch lý là tôm đang chết nhưng người dân vẫn đưa lồng ra vịnh Xuân Đài để thả mới. “Đây là vấn đề nan giải”, ông Khôi lo lắng.

Về nguyên nhân gây ra tôm hùm chết trong tháng 6 vừa qua, theo ông Phan Hữu Đức, Phó giám đốc thú y Vùng 4, Cục Thú y (Bộ NN-PTNT), là do ô nhiễm chất hữu cơ, dẫn đến làm giảm hàm lượng ô xy hòa tan ở cả tầng mặt nước và tầng đáy khu vực nuôi. Cũng do ô nhiễm chất hữu cơ đã tạo thuận lợi cho vi khuẩn, sinh vật phù du phát triển mạnh. “Số lượng lồng nuôi quá nhiều so với quy hoạch do người dân tự phát. Mật độ nuôi dày, lượng thức ăn tươi sống mỗi ngày đổ xuống vịnh từ 15 – 20 xe container (tương đương 400 tấn thức ăn tươi sống là cá giã cào, ốc, cua, ghẹ…) liên tục trong thời gian dài dẫn đến môi trường ô nhiễm nặng, nhiều chỉ tiêu thủy hóa vượt ngưỡng cho phép”, ông Đức nói, đồng thời chỉ ra việc quy hoạch chưa sát với thực tế nên vị trí quy hoạch làm vùng nuôi thì người dân không nuôi vì cho rằng không thích hợp với dòng chảy, vị trí không quy hoạch thì người dân lại đem lồng đến nuôi.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, cho biết đã tiến hành khảo sát vùng nuôi tôm hùm vịnh Xuân Đài (vùng nuôi tôm bị ô nhiễm nặng vừa qua) thì phát hiện nước thải từ các hồ nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi ốc hương, rác thải sinh hoạt của người dân đều đưa xuống vịnh Xuân Đài. Về lượng thức ăn cung cấp, nếu 8 kg thức ăn cho 1 lồng/ngày thì riêng ở xã Xuân Phương là 49 tấn/ngày, còn P.Xuân Yên khoảng 50 tấn/ngày… Thức ăn thừa trong lồng đều đổ xuống vịnh Xuân Đài. “Như vậy, vịnh Xuân Đài đã oằn mình gánh một lượng chất thải kinh khủng mỗi ngày”, bà Hòa nói.

Tôm hùm chết hàng loạt

Cần kiểm soát toàn diện

Ông Võ Minh Khôi cho biết nghề nuôi tôm hùm phát triển chủ yếu ở Khánh Hòa, Phú Yên. Số lượng lồng tăng 1,5 lần, nhưng nghịch lý là sản lượng giảm. Hiện nay có 4 loại tôm hùm, nhưng người dân nuôi chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Ông Khôi xác định việc phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm có nhiều yếu tố, đó là con giống, môi trường vùng nuôi, thị trường.

Vẫn theo ông Khôi, hiện nhu cầu tôm hùm giống hằng năm ở VN khoảng 24 triệu con, nguồn tôm tại địa phương chỉ đáp ứng khoảng 9 triệu con nên phải nhập tôm hùm giống nước ngoài về qua đường tiểu ngạch. “Qua tìm hiểu, chưa có cơ sở nào đăng ký nguồn tôm hùm giống. Nếu quản lý tốt sẽ tránh trường hợp tôm hùm giống trôi nổi. Nếu không kiểm soát được thì nguy cơ dịch bệnh rất cao, chất lượng tôm sẽ ảnh hưởng”, ông Khôi nói. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tôm hùm tương đối bấp bênh. Khi thị trường Trung Quốc “ăn” thì giá cao, ngược lại là giá rớt thê thảm. Giá trị xuất khẩu từ tôm hùm khoảng 40 triệu USD/năm. Quy hoạch đã có nhưng chưa đầy đủ, giám sát chưa sâu sát nên gây ra yếu tố ô nhiễm cục bộ, khiến tôm hùm chết.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa cho biết muốn vùng nuôi tôm hùm không bị ô nhiễm thì thức ăn thừa trong lồng, bè phải thu gom, đem vào bờ xử lý. “Nếu người dân đưa toàn bộ thức ăn thừa vào thì chứa ở đâu. Đây là chuyện địa phương phải tính đến”, bà Hòa nói. Bà Hòa cũng khuyến cáo không nên nuôi vẹm xanh ở khu vực nuôi tôm hùm vì như thế sẽ dẫn đến cạnh tranh về ô xy, khiến tôm hùm thiếu ô xy, đặc biệt là vào ban đêm hay thời tiết bất thường theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, tôm thẻ chân trắng cũng là nguy cơ lây nhiễm bệnh cần lưu ý. “Nếu tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh thì phải xử lý triệt để trong hồ không được xả ra bên ngoài”, bà Hòa nói.

Quy hoạch nuôi tôm gắn với du lịch

Ông Lương Minh Sơn, Phó bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, cho biết những vùng biển ở các huyện ven biển Phú Yên có nhà cao tầng, đó là nhờ nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, trong đó có nghề nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, hiện các vùng nuôi này ô nhiễm nên đề nghị các ngành chức năng đề xuất giải pháp làm sao giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường vùng nuôi tôm hùm ở Phú Yên, quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản gắn với phát triển du lịch, vì những vùng nuôi này đều là danh lam, thắng cảnh quốc gia. Làm sao có cơ chế quản lý, có quy hoạch chi tiết cho ngành nuôi tôm hùm ở Phú Yên.

Đảo Bình Ba, Khánh Hòa là nơi từng thực hiện thành công mô hình nuôi tôm hùm kết hợp du lịch

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nâng cao năng suất tôm hùm nuôi thương phẩm

Các chế độ chăm sóc, quản lý, thiết kế lồng nuôi và chọn mật độ thả thích hợp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến vụ nuôi. Sau đây là một số lưu ý nhằm giúp tăng năng suất trong nuôi tôm hùm thương phẩm…

Lồng nuôi: 

Để tận dụng tối đa diện tích thì lồng nên có dạng hình khối hộp vuông, vì hình vuông có diện tích lớn nhất, đồng thời lưu thông nước ở từng vị trí đặt lồng nuôi không theo hướng dẫn nhất định. Tùy theo quy mô nuôi, điều kiện chăm sóc quản lý và nguyên vật liệu làm lồng mà sử dụng kích thước lồng khác nhau.

Tuy nhiên, lồng càng lớn khả năng lưu thông nước bên trong và ngoài lồng càng giảm, đồng thời năng suất tôm hùm nuôi lồng tỉ lệ nghịch với độ lớn của lồng. Người nuôi nên dùng loại lồng 16-20m2 là phù hợp với quy mô hộ gia đình và năng suất tôm hùm nuôi.

Làm lồng nuôi tôm hùm

Vị trí đặt lồng:

Nên đặt lồng nuôi ra vùng xa bờ để trao đổi nước tốt hơn. Độ sâu mức nước nơi đặt lồng tối thiểu khi triều thấp là 4m (đối với nuôi lồng găm), từ 4–8m (đối với nuôi lồng sắt) và hơn 8m (đối với lồng nổi). Đáy lồng cách đáy biển hơn 0,5m là tốt nhất. Nơi đặt lồng nuôi phải đảm bảo cách bờ hơn 1.000m. Nền đáy là cát hoặc cát pha bùn có lẫn san hô gạc nai và không bị ô nhiễm.

Môi trường nước vùng nuôi tôm hùm phải đảm bảo các chỉ tiêu: nhiệt độ từ 24-31 độ C; pH: 7,5–8,5; độ muối từ 30–35‰; ôxy hòa tan: 6,2–7,2mg/l.

Mật độ thả: 

Mật độ ương nuôi tôm hùm tùy thuộc vào kích cỡ của tôm giống. Cỡ giống tôm trắng: 30-40 con/m2 lồng; Cỡ giống 1,5-4,0g/con thả 25-30 con/m2 lồng; Cỡ giống 4-10g/con thả 15-20 con/m2 lồng; Cỡ giống 10-50g/con thả 10-15 con/m2 lồng; Cỡ giống 50-200g/con thả 7-10 con/m2 lồng; Cỡ giống hơn 200g/con trở lên thả 3–5 con/m2 lồng.

Khoảng cách giữa các lồng nuôi:

 Khoảng cách giữa các lồng nuôi cần bố trí phù hợp để đảm bảo sự lưu thông nước tốt. Đối với các vùng nuôi nhiều nên duy trì 30–60 lồng/ha mặt nước.

Thức ăn cho tôm: 

Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống bao gồm các loại động vật giáp xác (tôm, cua, ghẹ…), động vật thân mềm (sò lông, sò đá, ốc bươu vàng…), các loài cá tạp (cá sơn, cá liệt, cá mối, cá chuồn…). Trong đó, thức ăn là giáp xác đóng vai trò quyết định trong thành phần dinh dưỡng của tôm hùm nuôi vì loại thức ăn này có hàm lượng axit béo không no phức hợp và axit béo không no cao phân tử (chiếm 6,1%) cao vượt trội hơn so với thức ăn là cá và thân mềm. Tuy nhiên, nếu kết hợp ba loại thức ăn tươi là cá, giáp xác và thân mềm theo một tỉ lệ nhất định ở từng thời kỳ phát triển của tôm nuôi là một giải pháp tối ưu về giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế trong tôm hùm nuôi lồng. Công thức cho ăn: 1 phần giáp xác + 1 phần thân mềm + 2 phần cá, tôm sẽ có tốc độ sinh trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp. Đây là thức ăn kết hợp có hiệu quả cao nhất và tiết kiệm được chi phí thức ăn so với việc sử dụng các loại thức ăn khác.

Tôm hùm nuôi lồng

Quản lý và chăm sóc tôm:

 Đối với tôm cỡ ≥ 200g/con, cho ăn 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối, lượng cho ăn vào chiều tối chiếm 70% lượng thức ăn trong ngày. Thức ăn cho tôm có thể để nguyên con hoặc cắt nhỏ. Tùy loại thức ăn mà xác định lượng cho ăn hợp lý, khẩu phần ăn hàng ngày bằng khoảng 15-17% khối lượng tôm thả. Hàng ngày nên kiểm tra, theo dõi tình trạng sức khỏe, hoạt động của tôm và mức độ sử dụng thức ăn để có điều chỉnh hợp lý. Loại bỏ thức ăn thừa, vỏ lột xác; định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bít lỗ lưới. Đối với các lồng nuôi tôm hùm con, do có mắt lưới nhỏ nên thường bị sun, hà bám vì vậy cần vệ sinh định kỳ để tạo sự lưu thông nước tốt, hạn chế ô nhiễm. Khi tôm đạt cỡ 500-600g/con nên san thưa tôm với mật độ 4-5 con/m2 lồng. Sau 20-24 tháng nuôi có thể thu hoạch tôm hùm thương phẩm.

Trong quá trình nuôi nếu thấy chất đáy có màu nâu và sinh vật đáy chủ yếu là nhuyễn thể thì đó là dấu hiệu tốt. Nếu chất đáy có màu đen đậm, mùi khó chịu và sinh vật đáy chủ yếu là giun nhiều tơ thì đó là những dấu hiệu không tốt, không nên tiến hành vụ nuôi. 

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm

Ngày 21-7, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, Trưởng bộ môn nuôi thủy sản nước mặn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (Trường Đại học Nha Trang) cho biết, ông và các cộng sự đã sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Đó là kết quả của dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) và tôm hùm xanh (Panulirus homarus)”. Dự án thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011 – 2015, do Trường Đại học Nha Trang chủ trì và Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng làm chủ nhiệm.

Tôm hùm bông sử dụng thức ăn công nghiệp.

Theo Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, thức ăn dự án sản xuất có hàm lượng protein chiếm 55-56%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn (FCR) 4,5-4,6 đối với tôm hùm bông giai đoạn giống và thương phẩm; protein 52-53%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn là 4,3-4,4 đối với tôm hùm xanh giống và thương phẩm. Qua quá trình nuôi thử nghiệm tôm hùm bằng thức ăn công nghiệp cho thấy tôm hùm sử dụng thức ăn tốt, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp, tỷ lệ sống cao; các chỉ số đều tốt hơn so với thức ăn truyền thống (cá tạp) đang được sử dụng hiện nay. Thức ăn công nghiệp đã được các hộ nuôi tôm hùm Khánh Hòa cũng như một số tỉnh Nam Trung Bộ sử dụng và đánh giá cao.

Việc sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm của dự án sẽ mở ra triển vọng sử dụng thức ăn công nghiệp cho tôm hùm thay thế nguồn thức ăn cá tạp, từ đó, góp phần phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững tại Việt Nam.

Quá trình sản xuất thức ăn viên cho tôm hùm

Dự án trên kế thừa kết quả đã đạt được từ đề tài “Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng, công thức và công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông và tôm hùm xanh” được thực hiện trước đó.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam