Kỹ thuật trồng và chăm sóc Mít Thái ra trái quanh năm

Mít Thái là giống cây dễ trồng, ít công chăm sóc, không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thời gian sinh trưởng ngắn, cho thu hoạch nhanh, năng suất cao, đậu trái quanh năm, múi mọng và giòn ngọt, đặc biệt cây trồng phù hợp với vùng đất đồi

1, Tiêu Chuẩn Chọn Giống:

Dùng hạt cây Mít mật, Mít rừng gieo làm gốc ghép cho mít dai. Tiến hành ghép khi cây gốc ghép được 5-6 tháng, cao 30-40cm, lá đã ổn định. Có thể ghép mắt kiểu cửa sổ hoặc ghép áp, trong đó tỷ lệ thành công của ghép áp cao hơn. Thời vụ cho chiết, giâm hom, ghép cây tốt nhất là tháng 3-4 (vụ xuân) và tháng 8-9 (vụ thu) khi nhựa trong cây ổn định. Bí quyết thành công của các phương pháp nhân giống mít là giâm, ghép phải làm nhanh ngay sau khi cắt; với chiết cần để nhựa khô 2-3 ngày mới bó bầu nếu không sẽ bị nhiễm khuẩn mà chết khô cành.

 

2, Thời Vụ và Mật Độ Trồng:

Đầu mùa mưa tháng 5 đến tháng 7 dương lịch. Nếu chủ động nguồn nước tưới có thể trồng sớm hơn, thậm chí trồng quanh năm.

– Trồng dầy: Cây cách cây 5m, hàng cách hàng 6m. Một ha trồng khoảng 300 cây (vì phải chừa đường đi nội bộ).

– Trồng thưa: Cây cách cây 6m hàng cách hàng 7m. Một ha trồng khoảng 210 cây. – Đất cằn cỗi nên trồng dầy, đất tốt nên trồng thưa. Hiện nay, người ta có xu hướng trồng dầy để tăng sản lượng và rút ngắn thời gian hoàn vốn, sau đó áp dụng phương pháp tỉa cành hay đốn tỉa bớt.

 

3, Làm Đất Và Đào Hố Trồng:

– Đất bằng phẳng phải xẻ mương rãnh sâu ít nhất 30 – 40cm (tùy nước thủy cấp ở từng nơi) để chống úng vào mùa mưa. Làm hốc sâu 40 x 40 x 40cm và đắp mô cao 40 – 70cm.

– Đất có độ dốc khoảng 5%, không cần đắp mô, chỉ cần làm hốc có kích thước 40 x 40 x 40cm.

– Độ dốc cao hơn 7%, làm hốc có kích thước 40 x 40cm và sâu 60cm.

– Mỗi hốc có thể trộn: 0,5kg vôi bột, 1-3kg phân hữu cơ Better HG01 3-2-2. Hố trồng đào 50 cm x 50 cm x 50 cm, khi đào hố nên để riêng lớp đất trên mặt ra một bên và đất ở lớp phía dưới ra một bên, bón lót mỗi hố 10-12 kg phân chuồng đã ủ hoai, hoặc phân hữu cơ Komix 1 kg, 150-250 g Super lân, trộn đều với lớp đất mặt xung quanh, trộn thêm với 50 g Basudin 10H và 0,5 kg vôi để phòng trừ mối kiến và nâng cao độ pH đất. Ngoài vật liệu bón lót trên không nên dùng phân hữu cơ chưa hoai hay tro bếp bón lót dễ gây thối rễ và làm mặn đất.

 

4, Phân Bón Lót:

Bón lót mỗi hố 10-12 kg phân chuồng đã ủ hoai, hoặc phân hữu cơ Komix 1 kg, 150-250 g Super lân, trộn đều với lớp đất mặt xung quanh, trộn thêm với 50 g Basudin 10H và 0,5 kg vôi để phòng trừ mối kiến và nâng cao độ pH đất. Ngoài vật liệu bón lót trên không nên dùng phân hữu cơ chưa hoai hay tro bếp bón lót dễ gây thối rễ và làm mặn đất.

 

5, Kỹ Thuật Trồng Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

Dùng tay móc một lỗ nhỏ giữa hố trồng sâu hơn chiều cao túi đựng thanh trà khoảng 2-3 cm, kích thước to hơn bầu cây đôi chút, để túi cây trên mặt đất, dùng dao sắc rạch một đường xung quanh túi nilon, cách đáy 2-3 cm, bóc lấy đáy túi ra. Xem xét bộ rễ, cắt bỏ tất cả các phần rễ cái, rễ con ăn ra khỏi bầu đất, sau đó đặt vào hố trồng, lấp đất và rút bọc nilon ra. Dùng tay lấp và ém chặc lớp đất xung quanh để cố định gốc cây con không bị gió lay, chú ý đặt cây vào hố trồng sao cho sau khi trồng cổ rể ngang bằng với nền đất xung quanh, không trồng âm hay lấp phần thân cây. Sau khi trồng cần làm bồn đường kính khoảng 1 m để nước tưới không chảy ra ngoài. Trồng xong lấy cọc cắm, buộc thân cây vào cọc tránh gió lay gốc, nên buộc lỏng bằng dây nilon. Nếu trồng vào mùa mưa không cần che mát như sầu riêng hay măng cụt.

 

6, Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

6.1 Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

 

6.2 Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:

Chú ý chỉ tỉa cành tạo tán khi cây mít đạt chiều cao khoảng 1m trở lên, khi cây chưa cho trái tỉa cành 2-3 lần/năm. Cây đã cho trái tỉa cành 1 năm/lần vào thời điểm thu hoạch trái xong. Khi tỉa cắt bỏ các cành gần sát mặt đất, cành tược, cành nhỏ mọc không đúng hướng, cành sâu bệnh. Giữ lại cành cấp 1 cách gốc khoảng 40cm trở lên, chọn các cành mọc theo các hướng khác nhau, cành trên cách cành dưới khoảng 40 – 50cm, tạo thành tầng không quá 5 cành cấp 1. Tỉa bỏ bớt cành cấp 2, cấp 3… cho cây thoáng nhằm chống sâu bệnh và tăng năng suất.

 

6.3 Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

+ Năm thứ 1: Sau khi trồng cứ 1-1,5 tháng bón phân 1 lần, bón cho mỗi gốc 100-150 g NPK(15:15:15), xịt bổ sung phân bón lá vi lượng như: number one hay Fetrilon-combi theo liều hướng dẫn, mục đích giúp cây có đủ dưỡng chất và chất vi lượng cần thiết khi bộ dễ chưa bén đất.

+ Năm thứ 2: lượng bón cho một cây là: 1,5-2,0 phân NPK theo tỷ lệ 2:1:2.

+ Năm thứ 3: Cây bắt đầu cho trái kinh doanh, lượng phân tăng so với năm trước 0,5-1,0 kg/cây. Chia làm hai lần bón đầu và cuối mùa mưa. Trong thời gian quả đạt trọng lượng tối đa sử dụng phân bón gốc Kali sulphate (K2SO4), bón mỗi gốc 400-500 g, kết hợp với phân bón lá 0-52-34 hoặc 10-52-17 phun cho cây 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần như vậy trái sẽ chính tập trung, màu thịt quả vàng hơn vàng mùi vị thơm ngon hơn.

 

7, Phòng Trừ Sâu Bệnh Cho Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

SÂU ĐỤC THÂN, ĐỤC CÀNH: Có tên Margronia, thành trùng đẻ trứng trên lá non, trái non sau đó đục vào thân cành. Xịt thuốc trừ sâu vào giai đoạn ra lá non, trái non như Cyperan 5 EC, 10 EC, Decis 2,5EC, Bian 40-50 EC, Basudin 50 EC.

RUỒI ĐỤC TRÁI: Do loài dacus sp, đẻ trứng vào trái già, gây thối nhũn trái. Dùng chất dẫn dụ sinh học để diệt ruồi đực. Bao bọc trái hay xịt thuốc diệt ruồi như trebon 10 Nd, decis 25 ec…

SÂU ĐỤC TRÁI: Gây hại nặng trên mít làm giảm chất lượng và sản lượng. Thường ở các phần tiếp giáp các trái hay giữa trái tiếp giáp với thân, bị gây hại nặng nhất.Trái có thể bị hư hỏng hay bị rụng sớm. Không nên dùng biện pháp xử lý thuốc hóa học mà dùng biện pháp sinh học để phòng trừ sự gây hại hay bao trái vào cuối giai đoạn trái rụng sinh lý.

NGÀI ĐỤC TRÁI: Có nhiều loài gây hại khác nhau, chúng chích hút vào ban đêm ở giai đoạn trái chín. Cách phòng trị giống như sâu đục trái.

RẦY, RỆP: Có rất nhiều loài gây hại trên mít, chúng chích hút nhựa lá non, đọt non, trái làm lá quăn queo, cây chậm lớn, trái dị hình và kèm theo là Nấm đốm bồ hóng tấn công làm giảm khả năng quang hợp của cây và trái không đẹp. Khi trồng ở nơi cao ráo thường bị rệp sáp tấn công ở phần gốc và rễ. Dùng các loại thuốc hóa học sau đây để trị rầy rệp khi điều tra có mật số cao: Bassan 50 EC, Supracide 40 EC, Basudin 50 ec..

 

8, Thu Hoạch và Bảo Quản:

Cây mít cho trái rải vụ quanh năm, song vụ chính ở Đồng nai vào tháng 6, 7. Thời gian từ lúc ra hoa đến lúc trái già khoảng 5 tháng, do đó có thể căn cứ vào màu sắc trái để thu hoạch. Trái mít già, các gai nở căng, chuyển từ màu xanh sang màu xanh vàng hoặc nâu nhạt, mủ lỏng và trong, vỗ kêu bồm bộp, để vận chuyển đi xa nên thu hoạch lúc trái già. Hiện ở Đồng Nai có nhiều giống mít cho năng suất cao như: mít Viên Linh, mít Thái, mít nghệ, mít tố nữ… Song, nông dân nên trồng giống mít nghệ trong nước được tuyển chọn qua các cuộc thi trái ngon, giống tốt hoặc những giống mít trong nước có phẩm chất ngon được nhiều người ưa chuộng, đồng thời thích hợp để chế biến, sấy khô đóng gói xuất khẩu.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Thu nhập cao nhờ trồng Mít Thái kết hợp chăn nuôi Dê

Những năm gần đây, người dân trên địa bàn xã Long Tân, huyện Đất Đỏ (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã chuyển đổi từ trồng tiêu sang trồng mít Thái, tre lấy măng, nhãn, bơ… kết hợp chăn nuôi dê, bò mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình là hộ ông Lê Văn Vàng (ấp Tân Thuận) với mô hình trồng mít Thái, tận dụng lá mít làm nguồn thức ăn để phát triển đàn dê, cho thu nhập khá.

Trồng Mít Thái kết hợp chăn nuôi Dê

 

Ông Lê Văn Vàng (ấp Tân Thuận, xã Long Tân) đã tận dụng lá mít Thái để chăn nuôi đàn dê của gia đình, ổn định về kinh tế.

Trong căn nhà khang trang, nằm xen giữa màu xanh của những bụi tre cao vút và những cây mít trĩu quả, nhâm nhi ly trà nóng, chỉ tay ra phía sau vườn, ông Vàng vui vẻ cho biết: “Có được cơ ngơi như hôm nay cũng nhờ đàn dê và vườn mít Thái. Dê dễ nuôi, ít tốn công, thức ăn chủ yếu từ cây cỏ tự nhiên và lá mít có sẵn trong vườn”.

Theo ông Vàng, nhờ nguồn nước từ hồ Suối Môn, năm 2015, ông đã đầu tư trồng thử 100 cây mít Thái trên diện tích 1 sào, cho trái hơn 60kg/cây. Với giá hơn 20.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi gần 100 triệu đồng/năm từ loại cây ăn trái dễ trồng này.

“Các thương lái đến tận vườn của gia đình tôi thu mua. Nhờ cây mít Thái, gia đình tôi có thêm nguồn thu nhập hàng năm. Hiện nay, tôi đã mở rộng thêm diện tích 1ha, trồng 1.000 cây mít Thái. Vừa cắt tỉa được lá để nuôi dê, vừa tăng thêm nguồn thu nhập của gia đình”, ông nói.

Ông Vàng cho biết, ông chọn nuôi dê bách thảo và dê boer lai (nguồn gốc Nam Phi) vì dễ nuôi, lớn nhanh, khoảng 5 tháng là sinh sản. Lứa đầu mỗi dê mẹ sinh 1 con, từ lứa thứ 2 trở đi sẽ sinh từ 2-3 con. Dê con sau 4 tháng nuôi có trọng lượng khoảng 25kg là có thể bán. Giá dê giống từ 180-200 ngàn đồng/kg, dê thịt từ 130-145 ngàn đồng/kg hơi. Do biết cách chăm sóc nên đàn dê của gia đình ông không ngừng sinh sản, phát triển, đến nay đã có hơn 10 dê mẹ và đàn dê thịt hơn 30 con. Bình quân mỗi tháng ông Vàng thu hơn 10 triệu đồng từ bán dê thịt. “Thời gian tới, gia đình tôi sẽ nhân đàn lên 20 con dê sinh sản, liên kết với các cơ sở mua bán dê giống, dê thịt ở trong và ngoài tỉnh nhằm tạo đầu ra ổn định”, ông Vàng cho biết thêm.

Để thành công như hôm nay, ông Vàng không chỉ cần cù, chịu khó trong lao động mà còn là người tích cực tham gia các lớp tập huấn chăn nuôi, trồng trọt do Hội Nông dân các cấp tổ chức.

Ông Nguyễn Hồng Phúc, Chủ tịch UBND xã Long Tân cho biết: Hiện nay tổng đàn dê của xã có khoảng 672 con, tập trung nhiều nhất ở ấp Tân Thuận. Nhiều nông dân đã biết tận dụng mô hình trồng trọt và chăn nuôi kết hợp, điển hình như ông Vàng. Nhờ tận dụng được nguồn thức ăn dồi dào như lá mít, lá keo, cỏ để nuôi dê mà nhiều hộ dân đã cải thiện được cuộc sống, vươn lên làm giàu… Thực tế, mô hình này cần được nhân rộng vì phát huy hiệu quả kinh tế cao, vốn đầu tư ít và thị trường tiêu thụ khá dễ dàng.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Đột phá công nghệ, nâng cao giá trị Gạo Việt

Xu hướng hiện nay của các nước nhập khẩu gạo luôn đòi hỏi chất lượng gạo phải ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và truy suất nguồn gốc. Vì vậy để lúa gạo Việt Nam phát triển bền vững cần có những giải pháp nâng cao chất lượng hạt gạo.

Thu hoạch Lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long

 

Lúa gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, có giá trị XK hàng tỷ USD/năm, là sản phẩm nòng cốt giữ vững thương hiệu quốc gia nông nghiệp trên thế giới.

Những thành quả liên tiếp đạt được về kim ngạch XK gạo trong những năm gần đây tới các thị trường truyền thống cũng như năng lực mở rộng tiếp cận tới các thị trường mới, có tính khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã tiếp tục khẳng định khả năng tăng trưởng và phát triển của gạo Việt.

Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong SX, chế biến và bảo quản vẫn còn rất hạn chế đối với các DN SX gạo trong nước. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và giá thành của gạo Việt Nam so với giống gạo cùng loại của các quốc gia XK gạo lớn như Thái Lan và Ấn Độ.

Theo Bộ Công thương, trong giai đoạn 2010 – 2018, tổng lượng gạo tiêu dùng của Việt Nam dao động từ 19 – 23 triệu tấn/năm, sản lượng gạo XK dao động từ 4,9 – 7,7 triệu tấn/năm, giá trị XK luôn đạt trên 2 tỷ USD/năm và mức kỷ lục 3,08 tỷ USD năm 2018. Song, ứng dụng công nghệ trong chuỗi giá trị lúa gạo còn thấp nên thu nhập của nông dân và DN chưa cao.

Riêng 8 tháng đầu năm 2019 XK gạo đạt 5,4 triệu tấn nhưng trị giá chỉ đạt 1,96 tỷ USD (-15%). Trong năm nay gạo Việt XK sang thị trường Trung Quốc cũng giảm 65% về lượng và 67% về trị giá. Nguyên do vì hiện nay Trung Quốc tăng quản lý về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, siết chặt quản lý biên giới không còn là thị trường dễ tính nữa.

Từ lý do đó lúa gạo Việt Nam cần đột phá về nhiều mặt như nâng công nghệ chất lượng hiệu quả trong SX và tiêu thụ lúa gạo sang các nước trên thế giới.

Ông Nguyễn Hồng Sơn, GĐ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN-PTNT) nhấn mạnh: Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo quản, chế biến hiện đang là khâu xung yếu nhất trong chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được xác định là cơ hội và tiềm năng phát triển mạnh cho những sáng kiến mang tính đột phá của ngành lúa gạo, của các DN là chủ thể của chuỗi SX lúa gạo Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách cũng như mục tiêu lâu dài về nâng cao chất lượng, giá trị và năng lực cạnh tranh của gạo Việt.

Hiện tỷ lệ cơ giới hóa khâu thu hoạch lúa trên cả nước là 50%, riêng ĐBSCL đạt 82%. Sấy lúa là khâu quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thu hồi và chất lượng gạo xay xát, nhưng năng lực sấy lúa của Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp, chỉ đạt khoảng 56%.

Các hệ thống kho chứa chưa đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật để bảo quản lúa dài ngày (từ 6 – 12 tháng). Hiệu quả chuỗi giá trị ngành lúa gạo vẫn còn thấp, do tỷ lệ thất thoát cao, chất lượng gạo XK còn thấp, phân phối lợi nhuận, chia sẻ rủi ro giữa nông dân và các đối tác còn bất cập. Cơ sở hạ tầng, công nghệ bảo quản, chế biến ở địa phương còn lạc hậu làm gia tăng tổn thất, và giảm chất lượng trong bảo quản.

 

Lượng gạo XK của Việt Nam đang chiếm khoảng 15% thị trường thế giới nhưng lại không có thương hiệu gạo nổi bật, nên không thu được giá trị gia tăng nhờ thương hiệu.

 

Theo ông Sơn, để có thể nâng cao giá trị nông sản, nhất là lúa gạo, thông tin về các sản phẩm được chế biến sau lúa, gạo là vô cùng hữu ích cho nông dân, nhà khoa học, các DN và quản lý nhà nước trong nỗ lực nghiên cứu, học hỏi các phương thức SX mới trên thế giới, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng lúa, hạt gạo, và các phụ phẩm sau thu hoạch.

Hiện nay Bộ NN-PTNT đã và đang có nhiều chương trình, kế hoạch hành động cụ thể về nội dung này và tin tưởng với tính hấp dẫn về đầu tư ngành nông nghiệp, cùng với những cơ hội ngày một mở rộng hơn từ các hiệp định thương mại ký kết gần đây, các DN tham gia trong ngành công nghệ chế biến và bảo quản lúa gạo quan tâm sẽ quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam, hợp tác với DN SX trong nước để thúc đẩy ứng dụng công nghệ, tăng hiệu quả và chất lượng của gạo Việt Nam.

Ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết: Giá trị của hạt gạo trên thị trường, ngoài chất lượng gạo còn có rất nhiều yếu tố khác tác động như thương hiệu (uy tín của DN), quy trình canh tác và truy xuất nguồn gốc. Để nâng cao hơn nữa giá trị XK gạo của Việt Nam, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chọn tạo giống đã đạt được, đề nghị các DN XK cần có sự hợp tác và đầu tư nhiều hơn nữa trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng quy trình canh tác lúa phù hợp, lúa hữu cơ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Lượng Gạo XK của Việt Nam đang chiếm khoảng 15% thị trường trên toàn Thế Giới nhưng lại không có thương hiệu Gạo nổi bật

 

Quan trọng hơn là đẩy mạnh hợp tác với các đơn vị nghiên cứu để tiếp nhận và quảng bá các giống lúa mới có phẩm chất tốt ra thị trường và duy trì được sự ổn định của chất lượng giống và lúa hàng hóa trong vùng nguyên liệu. Ngoài ra, cũng cần quan tâm hơn nữa đến các giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng và gạo chức năng, mặc dù thị phần không lớn, nhưng có giá trị kinh tế rất cao, mà chưa được quan tâm đúng mức.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Những mô hình canh tác né hạn: Đậu phộng chinh phục đất lúa

Vụ hè thu 2019, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phú Yên triển khai mô hình trồng đậu phộng trên đất trồng lúa, màu kém hiệu quả lại thiếu nước tại xã Hòa An (huyện Phú Hòa) và thị trấn La Hai (huyện Đồng Xuân).

Mô hình trồng Đậu Phộng (Lạc) trên đất trồng lúa

 

Trên 3 xứ đồng đậu phộng

 

Mô hình chuyển đổi cây trồng mang lại hiệu quả cao nên thời gian tới, các địa phương tiếp tục nhân rộng. Mô hình trồng đậu phộng giống TB25 tại xứ đồng Gò Chàm, Soi Dưới, Soi Trên, thuộc thôn Vĩnh Phú, xã Hoà An (huyện Phú Hòa) trên diện tích 8ha, với 48 hộ nông dân tham gia. Trong thời gian sinh trưởng, đậu phộng TB25 có khả năng phân cành cấp 1 nhiều, chống chịu khá tốt với sâu bệnh hại; năng suất thực thu đậu phộng tươi đạt 46 tạ/ha, lợi nhuận bình quân gần 30 triệu đồng/ha.

 

Ông Đặng Minh Nghĩa, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Tây Hòa An cho hay: Vùng đất này, trước đây bà con nông dân trồng lúa thì lợi nhuận chỉ đạt 8 triệu đồng/ha, như vậy trồng đậu phộng lợi nhuận cao hơn trồng lúa trên 20 triệu đồng/ha. Đầu ra ổn định, có thương lái tiêu thụ. Không những thế, trồng đậu phộng trả lại đất nguồn dinh dưỡng, dây đậu phộng sau khi thu hoạch làm phân xanh.

Ông Trần Hay, một nông dân tham gia mô hình trồng đậu phộng trên xứ đồng Soi Trên chia sẻ: “Tôi trồng 3 sào (1.500m2) đậu phộng, cuối vụ gia đình tôi thu hoạch nhổ được 279 kg/sào, với giá bán 17.000 đồng/kg, thu trên 4,7 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí từ khi làm đất đến thu hoạch, còn lãi trên 2,1 triệu đồng/sào, với 3 sào tôi thu lãi 6,3 triệu đồng. So sánh với trồng lúa, vùng này lâu nay 3 sào đất nhà tôi bình quân thu 600kg, với giá bán 5.500 đồng/kg thì thu 3, 3 triệu đồng. Đó là chưa trừ chi phí phân thuốc, cày bừa”.

Ông Nguyễn Thành Phương, một nông dân tham gia mô hình trồng đậu phộng trên xứđồng Gò Chàm, cho hay: “Gia đình tôi trồng 3 sào, hôm tổ chức hội nghị tham quan mô hình, nhổ thí điểm 1m2 được 22 bụi, lặc lấy hột cân, quy ra năng suất đạt 220kg đậu tươi/sào. Trước khi trồng, gia đình tôi được nhận hỗ trợ 36kg giống, tương đương mỗi sào 12kg”.

Còn bà Bùi Thị Hiền, cũng tham gia trồng đậu phộng trên xứ đồng Soi Dưới, cho hay: “Tôi trồng 2 sào, thu hoạch được gần 5 tạ. Tôi chăm sóc, bón phân theo hướng dẫn kỹ thuật của cán bộ khuyến nông. Cuối vụ nhổ lên trái sai, hột đậu no. Trước đây tôi trồng đậu phộng nhưng dính lép, hột đậu phộng hơi nghiêng (bị xốp)”.

 

Giống TB25, LDH.01 trên Soi Họ

 

Vụ hè thu 2019, Trung tâm Khuyến nông Phú Yên triển khai mô hình trồng đậu phộng giống TB25, LDH.01 tại xứ đồng Soi Họ, thị trấn La Hai (huyện Đồng Xuân), trên diện tích 8ha, trong đó giống LDH.01 là 5ha, TB25 là 3ha, với 56 hộ nông dân tham gia.

Tại hội nghị tổng kết tham quan thực tế mô hình trồng đậu phộng tại Soi Họ, nông dân cân đo đong đếm, năng suất thực thu đậu phộng tươi đối với giống LDH.01 đạt 44,4 tạ/ha, giống TB25 là 40 tạ/ha, với giá bán 13.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí thì lãi ròng đối với giống LDH.01 gần 15 triệu đồng/ha, giống TB25 là 5,7 triệu đồng. Trong khi đó, nếu bà con nông dân trồng bắp lợi nhuận chỉ đạt 2,3 triệu đồng/ha, như vậy trồng đậu phộng lợi nhuận cao hơn trồng bắp từ 3,7 đến 12,7 triệu đồng/ha.

Ông Trần Văn Bình, tham gia mô hình cho hay: “Tôi tham gia mô hình trồng 1 giạ giống (1.000m2). Trước khi xuống giống, tôi được tập huấn kỹ thuật từ khâu cày bừa đất, sạch cỏ dại, bón lót phân chuồng, vôi, phân lân. Bón lót kết hợp với các biện pháp phòng trừ mối, kiến để khi rắc xuống không bị kiến, mối ăn hột giống. Đến khi đậu phộng ra hoa 10-15 ngày, tôi bón vôi, sau đó phun Bidamin 15WP (thuốc ức chế tăng trưởng) để giúp đậu phộng tập trung dinh dưỡng nuôi củ, chắc hột”.

Bà Đặng Thụ Duyên, Phó chủ tịch UBND thị trấn La Hai cho rằng, mô hình trồng đậu phộng trên đất trồng lúa, màu kém hiệu quả triển khai tại Soi Họ, kết quả năng suất 2 giống đậu phộng lần lượt là TB25 đạt 40, còn LDH.01 đạt 44,4 tạ/ha. Mô hình còn tiết kiệm nước tưới, cải tạo đất, cắt cầu nối sâu bệnh giữa 2 vụ trồng cây màu và giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn tại địa phương. Thông qua mô hình, nông dân nắm bắt kỹ thuật trồng cây đậu phộng giống mới.

Ông Nguyễn Văn Tri, Phó phòng NN-PTNT huyện Đồng Xuân cho biết, mô hình trồng đậu phộng thuộc Dự án “Phát triển vùng chuyên canh đậu phộng ứng phó biến đổi khí hậu gắn với chuỗi tiêu thụ sản phẩm”. Trồng đậu phộng về mặt chi phí đầu tư cũng tương tự như trồng bắp nhưng đậu phộng có giá bán cao hơn.

Mặc khác, nếu trồng đậu phộng trên nền đất lúa kém hiệu quả giảm được từ 4 – 5 lần tưới tràn/vụ và lượng nước dùng tưới cho đậu phộng giảm từ 60 – 70% so với lúa. Vì vậy, mô hình này không những có hiệu quả về mặt kinh tế mà còn tiết kiệm một lượng lớn nước dùng trong công tác tưới tiêu, phù hợp với định hướng của ngành nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam

Cà Phê Việt: Thế mạnh top 2 thế giới, Việt Nam vẫn ôm nỗi buồn đội sổ

Đứng thứ 2 thế giới, song xuất khẩu cà phê của Việt Nam lại đang sụt giảm mạnh. Đáng buồn hơn, giá xuất khẩu cà phê Việt đang xếp vị trí gần như đội sổ, rẻ hơn nhiều so với giá cà phê cùng loại của các nước.

Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu Cà Phê

Theo báo cáo của Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, xuất khẩu cà phê 8 tháng năm 2019 ước đạt 1,17 triệu tấn và gần 2 tỷ USD, giảm 11,8% về khối lượng và giảm 21,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.

Từ đầu năm đến nay, Đức và Mỹ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam với thị phần lần lượt là 13,7% và 9%. Ngoại trừ Philippines và Malaysia có giá trị xuất khẩu cà phê tăng lần lượt 22% và 3,7%, hầu hết các thị trường chính còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2018.

Không những giảm về sản lượng xuất khẩu, giá giá cà phê xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2019 chỉ đạt 1.708 USD/tấn, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2018.

Thực tế, giá cà phê Việt Nam đang giảm theo xu hướng chung. Giá cà phê thế giới tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2019 và giảm xuống mức thấp nhất trong 13 năm trở lại đây do áp lực dư cung của thị trường cà phê toàn cầu.

Song, điều đáng buồn, giá cà phê Việt xuất khẩu lại đang xếp vị trí gần như đội sổ, rẻ hơn nhiều so với giá cà phê cùng loại của các nước khác.

Đơn cử, tại Tây Ban Nha, Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn nhất cho nước này với hai loại chủ yếu gồm: cà phê chưa rang; chưa khử caffein và khử caffein (không bao gồm rang) chiếm 42,8% và 39,5% trong tổng trị giá nhập khẩu hai chủng loại cà phê này trong 4 tháng đầu năm 2019.

Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Tây Ban Nha đạt mức 2.712 USD/tấn. Trong khi đó, giá nhập khẩu bình quân cà phê từ Việt Nam chỉ ở mức 1.779 USD/tấn, thấp hơn nhiều giá bình quân nhập khẩu tại thị trường này.

Đáng chú ý, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Tây Ban Nha từ Pháp đạt mức cao 15.670 USD/tấn. Tức cao gấp gần 9 lần so với giá cà phê nước này nhập từ Việt Nam.

Tương tự, Bộ Công Thương cũng dẫn số liệu từ Ủy ban thương mại Hàn Quốc, trong 4 tháng đầu năm nay, Việt Nam cũng là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất vào thị trường này với sản lượng 11.000 tấn, song giá chỉ đạt 1,8 USD/kg.

Brazil là nước đứng thứ hai về sản lượng với gần 10.600 tấn nhưng xuất khẩu được vào Hàn Quốc với giá 2,6 USD/kg. Còn cà phê Colombia đứng thứ 3 với trên 9.000 tấn, giá bình quân đạt 3,2 USD/kg.

Cà Phê Việt xuất khẩu thô là chủ yếu nên giá trị thu về thấp

Một chuyên gia trong ngành cho biết, cà phê Việt Nam hiện được xuất khẩu sang trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD, chiếm 14% thị phần và 10,4% giá trị cà phê nhân xuất khẩu toàn cầu, đứng thứ 2 sau Brazil.

Tuy nhiên, lượng cà phê xuất khẩu chủ yếu là cà phê nhân, chiếm khoảng 90%. Do đó, lợi nhuận thu về chưa tương xứng với lượng hàng xuất đi. Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam cũng thấp hơi nhiều, thậm chí còn xếp bét bảng so với các nước có thế mạnh xuất khẩu cà phê.

Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, phần lớn cà phê Việt Nam khi thu hoạch không đáp ứng được độ chín, lẫn nhiều tạp chất, máy móc thiết bị sơ chế lạc hậu, sân phơi tạm bợ trên nền đất hoặc nền xi măng,… dẫn đến chất luọng thấp.

Trong khi xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô nên cà phê Việt không có thương hiệu mà phần lớn trở thành nguyên liệu của nhiều nước dùng để chế biến sâu và tái xuất lại tiêu thụ ở Việt Nam dưới dạng cà phê bột, hòa tan, pha sẵn…

Đơn vị này dự báo, giá cà phê trong ngắn hạn sẽ tăng do nguồn cung có phần sụt giảm từ các nước sản xuất chính, tuy nhiên giá sẽ vẫn ở mức thấp trong nhiều năm. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng cà phê tăng nhanh hơn so với sản xuất sẽ thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu cà phê trong trung và dài hạn.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nấm sạch Tuấn Linh khẳng định chất lượng

Được thành lập năm 2016, Hợp tác xã Sản xuất nấm sạch và kinh doanh nông nghiệp Tuấn Linh ở xã Sơn Lộc (huyện Bố Trạch, Quảng Bình) đã thành công trong việc trồng các loại nấm và sản xuất các sản phẩm từ nấm.

Ông Nguyễn Quốc Hương, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Tuấn Linh cho biết: Trong giai đoạn 2016 – 2018, HTX đã ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao cho hệ thống máy móc, nhà xưởng phục vụ sơ chế, chế biến.

“Từ khâu giống, nguyên liệu, bịch phôi, nấm thành phẩm, đến chế biến nấm ra các sản phẩm hàng hóa là quy trình khép kín. Qua đó, mang lại hiệu quả kinh tế cao và tăng năng suất, hiệu quả kinh tế cho các thành viên”, ông Hưởng nói.

Định hướng của HTX là quyết tâm đưa thực phẩm an toàn để phục vụ tốt cho người tiêu dùng trên khắp mọi miền và hướng đến thị trường xuất khẩu. Từ định hướng này, HTX đã xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nấm và ứng dụng công nghệ cao để sản xuất các loại giống bấm, nấm ăn và nấm dược liệu…

Ngoài ra còn có các sản phẩm chế biến sâu như trà linh chi, rượu linh chi. Sản phẩm sản xuất sạch theo quy trình khép kín, bảo đảm các tiêu chuẩn nông nghiệp sạch theo hướng hữu cơ. Qua đó đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của HTX.

 

Sản xuất Nấm sạch tại HTX Tuấn Linh

Theo ông Hưởng, hằng năm, HTX sản xuất 170 vạn bịch nấm/năm. Sản lượng 170 tấn nấm (gồm các loại nấm linh chi, nấm sò, mộc nhĩ, kim phúc, hoàng đế, nấm rơm…). Tổng doanh thu khoảng 7 tỷ đồng.

Vừa qua, HTX Tuấn Linh đã được Sở Công thương Quảng Bình công nhận là doanh nghiệp đầu mối bao tiêu sản phẩm nấm linh chi, nấm mộc nhĩ trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, HTX thực hiện dự án đầu tư phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu giữa HTX với các hộ dân, tổ hợp tác (THT) trồng nấm. Đầu tư nâng cao năng lực thiết bị chế biến và chất lượng sản phẩm, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường.

Để bảo đảm nguyên liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ cho sản phẩm nấm, Sở NN-PTNT Quảng Bình tổ chức ký kết bao tiêu sản phẩm chuỗi sản xuất nấm giữa các THT và doanh nghiệp. Đến nay, HTX đã liên kết trực tiếp với 28 THT trên địa bàn huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh,Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch…

HTX cung cấp nấm giống theo yêu cầu của các đối tác. Dự kiến nấm linh chi khoảng 150.000 bịch phôi/năm; nấm sò 30 triệu bịch và nấm mộc nhĩ 28 triệu bịch. Đồng thời, sản phẩm nấm do các THT sản xuất sẽ được HTX Tuấn Linh thu mua, bao tiêu sản phẩm.

Qua đó, tạo công ăn việc làm cho hơn 360 lao động ở các địa phương với mức thu nhập bình quân mỗi người 4 triệu đồng/tháng. Từ kết quả này, tháng 2/2018, HTX Tuấn Linh đã được Bộ trưởng Bộ NN-PTNT tặng Bằng khen điển hình liên kết, sản xuất nông nghiệp.

Sản phẩm nấm sạch, chất lượng cao của HTX Tuấn Linh đã được thị trường chấp nhận. HTX đã ký kết hợp đồng và liên kết sản xuất, tiêu thụ nấm thương phẩm với các Công ty, Siêu thị Co.opmart Quảng Bình, Co.opmart Hà Tỉnh, Co.opmart Huế , Co.opmart Quảng Trị, các cửa hàng nông sản trong và ngoài tỉnh. Sản phẩm từ nấm đã được đa dạng hóa như nấm linh chi quả thể, nấm linh chi thái lát, nấm linh chi bột…

 

Sản phẩm của HTX Tuấn Linh có mặt ở nhiều siêu thị lớn

Theo bà Ngô Thị Kim Liên, Giám đốc điều hành HTX Tuấn Linh, hiện đã có sản phẩm trà uống có lợi cho sức khỏe con người. “Đó là các sản phẩm trà xanh linh chi, trà linh chi, trà cà gai leo linh chi. Ngoài ra còn có nhiều dạng sản phẩm khác như nấm mộc nhĩ quả thể khô, nấm mộc nhĩ thái sợi, nấm sò tươi, nấm sò khô, nấm hương khô, nấm hoàng đế, nấm kim phúc, rượu nấm linh chi, cao linh chi”, bà Liên giới thiệu thêm.

Cũng theo bà Liên, hiện HTX đã dùng bã thải nấm để trồng rau má quy trình hữu cơ và đã sản xuất ra sản phẩm trà thảo mộc rau má túi lọc.

Từ những sản phẩm đầu tiên, HTX đã chú trọng đến việc thiết kế bao bì, nhãn mác. Lãnh đạo HTX luôn lắng nghe các phản hồi của khách hàng để điều chỉnh bao bì, nhãn mác phù hợp với nhu cầu của thị hiếu. Nhờ vậy, các sản phẩm của HTX được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh, thậm chí cả thị trường nước ngoài (Thái Lan, Lào, Nga) tin tưởng, lựa chọn.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Ba giống Ngô ưu việt

Những giống Ngô lai đơn VINO 688, VINO 678 và VINO 812 đều do Công ty TNHH Việt Nông nghiên cứu lai tạo và đưa vào sản xuất.

 

Các giống Ngô mới của Việt Nông

Giống VINO 688

Đây là giống ngô trung ngày (từ 98 – 105 ngày ở Nam bộ và 105 – 115 ngày ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc). VINO 688 chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, sinh khối đạt 50 – 60 tấn/ha; bộ lá đứng, thích hợp cho việc trồng dày. Chiều cao cây trung bình từ 200 – 220 cm, độ cao đóng trái từ 100 – 110 cm. Cây vẫn giữ được bộ lá xanh khi thu hoạch.

Giống VINO 688 có thể trồng với mật độ 65.000 – 70.000 cây/ha mà vẫn cho năng suất ổn định. Bắp có chiều dài từ 19 – 20 cm, 12 – 16 hàng hạt, dạng hạt đá, màu hạt vàng cam rất bắt mắt. Đặc biệt tỷ lệ hạt/bắp khá cao (khoảng 79%). Năng suất hạt trung bình đạt từ 9 – 11 tấn/ha. Giống VINO 688 có phổ trồng rộng, có thể trồng tất cả các vùng trong cả nước và có thể trồng quanh năm.

“Tôi ấn tượng với 2 giống ngô VINO 678 và VINO 688. Tôi trồng cả 2 giống thấy thân cây to, khỏe, tốc độ phát triển cũng như khả năng chịu hạn rất tốt”, ông Lò Văn Thanh (xã Chiềng Sung, huyện Mai Sơn) chia sẻ tại hội thảo trình diễn 3 giống ngô mới của Công ty TNHH Việt Nông tại Sơn La.

Giống VINO 678

Giống VINO 678 được lựa chọn theo định hướng vừa có thể thu hạt, vừa thu cây lấy thân làm thức ăn cho gia súc. Là giống ngô dài ngày: 100 – 104 ngày ở Đông Nam Bộ, 103 – 114 ngày ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Giống đạt sinh khối lấy thân có thể đạt 60 – 70 tấn/ha, mật độ trồng từ 57.000 – 65.000 cây/ha.

Giống có bộ lá xanh, rễ chân kiềng phát triển, cây cao từ 220 – 235 cm, chiều cao đóng trái từ 110 – 115 cm. Vì là giống có sinh khối lớn nên trong quá trình trồng cần đảm bảo cung cấp đủ nước để cây phát triển tốt. Giống VINO 678 có thể kháng sâu bệnh hại khá tốt.

Bắp ngô VINO 678 có chiều dài đạt 20 – 22cm, 14 – 16 hàng hạt, đường kính 4,4 – 4,7 cm, tỷ lệ hạt trên trái đạt 78%, hạt dạng bán đá, có màu cam. Giống thích hợp trồng vụ đông xuân, hè thu và thu đông. Năng suất hạt của giống đạt từ 10 – 12 tấn/ha.

Ông Lò Văn Luyện (xã Chiềng On, huyện Yên Châu) cho biết: “Năm vừa qua tôi trồng 2 giống ngô VINO 688 và VINO 812. Ưu điểm ở 2 giống ngô này mà tôi ấn tượng nhất là khả năng chống chịu sâu bệnh và tốc độ phát triển nhanh trên đất đồi. Đặc biệt bắp to, màu sắc rất đẹp.”

Giống VINO 812

Đây là giống khá đặc biệt, được kết hợp giữa 2 dòng bố mẹ có sức sinh trưởng mạnh và thích thích nghi tốt nhất trong bộ nguồn của Công ty TNHH Việt Nông hiện có. Giống có tiềm năng đạt năng suất cao: 11 – 12 tấn/ha, năng suất lấy thân đạt 55 – 60 tấn/ha.

Bộ lá xanh, lá dày và thân cây lớn, bắp to là những nhận xét của người dân Sơn La về giống ngô này. Giống VINO 812 là giống bắp dài ngày, 100 – 105 ngày ở Đông Nam Bộ, 110 – 120 ngày ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Giống có chiều dài trái 20 – 21 cm, đường kính trái 5,0 – 5,2 cm, dạng hạt răng ngựa, màu vàng. Tỷ lệ hạt/trái cao: từ 80 – 81%. Bắp có từ 16 – 20 hàng hạt. Giống VINO 812 có thể trồng quanh năm và rất thích hợp trồng ở vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên.

Mặc dù mới đưa vào trồng thử nghiệm trong vòng 1 năm trở lại đây nhưng người dân Sơn La đều đánh giá rất cao 3 giống ngô trên. Ông Lò Văn Phái (xã Chiềng Sung, huyện Mai Sơn) có 5.000 m2 trồng thử nghiệm, đã nhận xét: “Trong năm nay, người dân tại địa phương rất hứng thú với 3 giống ngô của Việt Nông. Kháng sâu bệnh tốt là đặc điểm mà bà con quan tâm nhất vì thời gian gần đây trồng ngô phải đối mặt với nạn sâu keo mùa thu”.

Năm 2019, xã Chiềng Sung trồng hơn 1.000 ha ngô, trong đó người dân gieo hơn 2.000 kg hạt giống của Công ty TNHH Việt Nông. Dự báo trong năm 2020, con số đó sẽ tăng lên đến 8.000 – 10.000 kg.

“Bắp của 3 giống ngô đều có màu vàng đẹp, bắp to, mang lại năng suất cũng như hiệu quả kinh tế rất cao. Vì chất lượng hạt giống tốt nên đối với người nông dân quá trình trồng khá đơn giản. Giá thương lái thu mua hiện khoảng 2.800 – 2.900 đ/kg, tương đương 38 – 40 triệu/ha”, ông Lò Văn Phái chia sẽ.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nhãn Việt lần đầu tiên xuất khẩu sang Úc

Sau vải, xoài, thanh long được xuất sang Úc, ngày 9/9/2019, quả nhãn đầu tiên của Việt Nam chính thức được cấp phép nhập khẩu vào thị trường Úc, mở ra cơ hội cho nhiều loại trái cây Việt tiếp tục xuất ngoại. Tuy nhiên, để trái cây Việt xuất khẩu bền vững vẫn còn nhiều thách thức.

 

Nhãn Việt được quản bá tại thị trường Úc

Vào được các thị trường khó tính nhất

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2017, trái cây Việt Nam xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với năm 2016 (1,7 tỷ USD). Năm 2018, đạt trên 4 tỷ USD. Tính đến nay, trái cây Việt Nam đã thâm nhập thị trường của 60 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, việc trái nhãn tươi của Việt Nam tiếp tục được xuất khẩu vào Úc không chỉ mở ra cơ hội mới cho trái cây Việt mà còn là nền tảng rất tốt để trái cây Việt Nam thâm nhập vào các thị trường khác, bởi một khi đã vượt qua được sự kiểm duyệt từ một thị trường khắt khe như Úc, sẽ thuận lợi để tỏa đi nhiều thị trường mới nữa với giá bán  tốt hơn. Đến thời điểm này, Việt Nam đã xuất khẩu nhãn vào nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc , EU… và đều đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn, đồng nhất, chất lượng và có đủ sản lượng cung ứng quanh năm.

Đại diện Hiệp hội Xuất khẩu rau quả Việt Nam cũng cho biết, hiện nay trái thanh long, nhãn tươi là một trong hai mặt hàng có kim ngạch cao nhất trong top 10 hoa quả xuất khẩu có kim ngạch cao của Việt Nam. Mặc dù Úc là một nước nông nghiệp và cũng có nhãn tươi nhưng diện tích trồng không nhiều, chủ yếu tập trung tại bang Queensland và một phần tại phía Bắc bang New South Wales. Nhãn tươi của Úc chỉ có một mùa kéo dài từ tháng 1 đến giữa tháng 6. Vì vậy, nếu nhãn tươi Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Úc, nhất là vào thời điểm trái mùa thì có thể được tiêu thụ với giá cao. Bên cạnh đó, cơ hội thị trường cũng rất lớn khi giao dịch thương mại giữa Việt Nam và Úc trong 10 năm gần đây tăng bình quân gần 10%/năm và Úc cũng là bạn hàng xuất khẩu lớn thứ 8 và nhập khẩu đứng thứ 12 của Việt Nam.

Hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết

Theo các chuyên gia trong ngành, việc được cấp phép nhập khẩu mới chỉ là giai đoạn đầu, thách thức lớn nhất với các doanh nghiệp là làm sao  trụ vững trên thị trường Úc và các thị trường khó tính khác. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải nỗ lực hơn nữa để hướng đến một nền sản xuất sạch hơn, ở đó chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải là sản lượng và giá cả thấp. Do vậy, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết.

Nhìn lại quá trình thâm nhập thị trường Úc của trái cây Việt trước đó, mới thấy chặng đường không hề dễ dàng. Chỉ tính riêng vải thiều và xoài, quá trình đàm phán hai loại trái cây này vào thị trường Úc mất lần lượt là 12 năm và 7 năm. Tương tự, lô thanh long tươi đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu sang Úc cũng mất 9 năm đàm phán và làm thủ tục.

Tuy nhiên, vào được thị trường rồi vẫn chưa vội mừng. Bởi thực tế, những chuyến hàng vải thiều và xoài đầu tiên khi nhập khẩu vào Úc có chất lượng rất tốt, bảo đảm, mang ra chợ bán được giá rất cao, nhưng sau đó giá bị giảm nhanh chóng do trong các lô hàng xuất khẩu tiếp theo, doanh nghiệp không đáp ứng được đủ các quy trình như các lô hàng đầu tiên, dẫn tới việc mất khách hàng.

Theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp Úc, các doanh nghiệp cần lưu ý về liều lượng chiếu xạ tối thiểu và tối đa trong việc xử lý quả nhãn, phải tuân thủ hàng loạt các quy định về kiểm tra chất lượng, dịch bệnh, đóng gói và các vấn đề kiểm dịch, vệ sinh thực phẩm. Ngoài việc phải được chứng minh nguồn gốc, sản xuất và xuất khẩu, quả nhãn cũng phải trải qua các biện pháp quản lý rủi ro bắt buộc. Đó là một trong những điều kiện để xuất khẩu nhãn tươi từ Việt Nam vào Úc được Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Úc chính thức công bố mới đây.

Ông Nguyễn Đình Tùng-  Tổng giám đốc Công ty T&T Vina cho biết, trái cây Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh rất lớn tại thị trường Mỹ, Úc, EU… Tuy nhiên, thông thường, trong 10 tấn sản phẩm thì chỉ lựa được vài ba tấn hàng đáp ứng thị trường. Tuy nhiên, đây chỉ một phần trong các điều kiện cần, doanh nghiệp còn phải xây dựng quy trình thu hoạch, đóng gói, vận chuyển, đặc biệt là sở hữu được công nghệ bảo quản mới giữ được chất lượng trái cây tốt cho đến khi đến tay người tiêu dùng”. Đơn cử như quả bưởi của Việt Nam hiện mới chỉ có 30% sản lượng đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Con số này sẽ tăng lên 70-80% nếu có đầu tư về chế biến, bảo quản.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi FarmTech Vietnam

Trồng Cà Rốt đều tăm tắp, nhà nông Cẩm Giang thu tiền tỷ

Trước đây, bà con nông dân xã Đức Chính (Cẩm Giàng, Hải Dương) chuyên trồng lạc, ngô nhưng do hiệu quả kinh tế kém nên đã mạnh dạn chuyển đổi sang trồng cà rốt.

Dự án trồng cà rốt an toàn được người dân triển khai từ năm 2007. Đến nay, Đức Chính đã trở thành một trong những vựa cà rốt sạch lớn nhất miền Bắc, sản phẩm không chỉ tiêu thụ nhiều trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Nhờ cây cà rốt, nhiều hộ đã trở thành tỷ phú.

Để có được những củ cà rốt to đẹp, chất lượng thơm ngon, người dân Đức Chính đã phát triển các vùng trồng chuyên canh tập trung, áp dụng quy trình chăm sóc, bón phân cẩn thận. Báo NTNN xin giới thiệu với bà con một số kỹ thuật trồng cà rốt của nông dân xã Đức Chính.

Nông dân Đức Chính, Huyện Cẩm Giang thu hoạch Cà Rốt vụ Đông

  1. Thời vụ gieo trồng:

Cà rốt được gieo trồng từ tháng 8 đến đầu tháng 2 năm sau; thu hoạch từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau; và có thể phân ra thành 3 trà:

– Trà sớm gieo hạt từ: Đầu tháng 8-15.10, cho thu hoạch từ tháng 11.

– Trà chính vụ gieo hạt từ: 16.10 -15.12, thu hoạch xung quanh tết âm lịch.

– Trà muộn gieo hạt từ: 16.12 đến 30.1 năm sau, thu hoạch đến tháng 5.

  1. Chọn giống:

Có rất nhiều giống, tuy nhiên hiện nay nông dân tại 2 xã Cẩm Văn và Đức Chính (huyện Cẩm Giàng) và các vùng phụ cận trồng chủ yếu 2 giống cà rốt lai là: Super VL-444 F1 và Ti-103 (Nhật Bản). Giống này có thời gian sinh trưởng từ 100-130 ngày. Năng suất trung bình đạt 1,5 tấn/sào, cao hơn có thể đạt 3 tấn/sào.

  1. Kỹ thuật làm đất:

– Nên chọn đất bãi bồi ven sông là đất thịt nhẹ, đất cát pha hoặc đất phù sa để trồng cà rốt là tốt nhất. Đất phải được dọn sạch cỏ dại, sau đó cày bừa kỹ, phay nhỏ, san phẳng rồi lên luống. Chiều rộng của luống từ: 85-90cm (trà sớm) và 80-85cm (trà chính vụ và trà muộn); độ cao từ: 20-25cm; rãnh rộng từ: 25-30cm.

– Sau khi san phẳng mặt luống, kẻ 3 hàng trên mặt luống theo chiều dọc và sâu khoảng 5cm, hàng cách hàng từ 13-15cm. (Nếu gieo bằng máy thì máy tự kẻ hàng).

  1. Phân bón:

* Cách bón:

Cây cà rốt là cây lấy củ nên cần bón phân sớm, bón tập trung và bón cân đối; hạn chế bón đạm, nhất là bón đạm muộn; không nên phun các chất kích thích sinh trưởng. Cụ thể cách bón và liều lượng bón như sau:

– Trộn toàn bộ phân chuồng ủ mục hoặc phân vi sinh với phân lân supe Lâm Thao rồi đem bón lót bằng cách rắc đều trên mặt luống, nếu lượng phân ít có thể chỉ rắc theo 3 đường kẻ trên mặt luống- Bón thúc lần 1 khi cây có lá thật (xoay lá); bón thúc lần 2 sau khi tỉa cây sơ bộ (khi cây có 3-4 lá thật); bón thúc lần 3 sau khi tỉa định cây lần cuối (rễ đã phát triển to bằng que đan). Bón thúc lần 4 sau khi củ đã hình thành (bón kali từ: 3-4kg/sào), hoặc chỉ bón (tưới) dặm những chỗ cây có biểu hiện thiếu đạm.

  1. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh:

* Phủ rơm, rạ:

Phủ một lớp rơm, rạ mỏng trên mặt luống nhằm hạn chế đất bị đóng váng (bề mặt bị lỳ do mưa, tưới); ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm đồng thời phủ rơm còn có tác dụng giữ ẩm, hạn chế cỏ dại và giữ cho cây không bị đổ khi còn nhỏ.

* Tưới nước:

– Sau khi phủ rơm, rạ xong nên tưới nhẹ bằng vòi sen, tưới phun mưa hoặc thùng doa; đảm bảo cho độ ẩm của đất từ 84-90% để cho cây mọc đều và phát triển tốt. Nếu ruộng có tỷ lệ cát cao, kết hợp với thời tiết hanh khô thì phải tưới hàng ngày. Khi thời tiết có mưa nhỏ, mưa phùn thì không phải tưới.

– Giai đoạn cây con từ 3 lá đến tỉa định cây lần cuối: Áp dụng phương pháp tưới rãnh (hạn chế tưới ẩm quá bề mặt -> củ ngắn).

– Giai đoạn phát triển củ cho đến trước khi thu hoạch: Duy trì độ ẩm đất khoảng từ: 60-75%. Không được tưới rãnh, không được tưới quá ẩm, khi có mưa ruộng phải thoát nước và cũng không được để ruộng quá khô (vì để quá khô khi gặp mưa lớn, nước nhiều, ẩm độ cao sẽ gây nứt củ).

* Thuốc trừ cỏ:

Sau khi gieo hạt, phủ rơm – rạ, tưới nước từ 1 – 3 ngày cho bề mặt đất ổn định mới phun thuốc trừ cỏ. Sử dụng thuốc với liều lượng theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. Đặc biệt lưu ý, khi hạt cà rốt đã mọc thì không được sử dụng thuốc trừ cỏ nữa.

* Nhổ, tỉa cố định cây:

– Khi cây mọc cao 4-5cm cần nhổ tỉa bỏ các cây mọc dày, không để 2 cây cùng 1 hốc, cây cách cây từ 7-8cm;

– Khi cây cao 7-10 cm, rễ đã to bằng que đan… ta tỉa định cây lần cuối.

– Khi tỉa nhổ cây kết hợp dọn, nhổ bỏ cỏ dại.

* Phòng trừ sâu, bệnh

Cây cà rốt có rất nhiều đối tượng sâu, bệnh (dịch hại) gây hại:

– Ở giai đoạn đầu, giai đoạn cây con, cần chú ý: Sâu hại rễ, bệnh lở cổ rễ và chuột hại. Ở giai đoạn phát triển thân lá: Thường xuất hiện giòi hại lá, sâu khoang, sâu đo xanh, bệnh phấn trắng, bệnh nấm hạch, bệnh sương mai… Ở giai đoạn phát triển củ cho đến trước khi thu hoạch: Cũng vẫn xuất hiện các đối tượng dịch hại như thời kỳ phát triển thân lá và bệnh thối đen, thối khô, thối nhũn. Ở giai đoạn này cần chú ý các bệnh về thối củ…

– Để phòng trừ các đối tượng dịch hại trên, nông dân nên sử dụng những loại thuốc đặc hiệu, ít độc, thân thiện với môi trường:

+ Đối với giòi hại lá nên sử dụng các loại thuốc có hoạt chất là Abamectin và Cyromazine.

+ Đối với sâu ăn lá có thể lựa chọn được rất nhiều loại thuốc có hoạt chất có tính đặc hiệu, ít độc như các dòng thuốc: Sinh học, thảo mộc, vi sinh, ức chế điều hòa sinh trưởng, dầu khoáng…

+ Đối với nấm bệnh, cần chú trọng các biện pháp canh tác như: Thời vụ, phân bón (đạm) và độ ẩm. Thuốc nên chọn thuốc có độ độc thấp, mang tính đặc hiệu như Valydamycin; Carbenzadim; Difenoconazole…

  1. Thu hoạch:

Cây cà rốt có thời gian sinh trưởng từ 100-130 ngày. Căn cứ vào thời vụ và nhu cầu tiêu thụ trên thị trường, bà con tiến hành thu hoạch khi cà rốt đạt kích cỡ củ trung bình dài 18-22cm, đường kính 3-4cm. Sau khi nhổ củ, cắt bỏ dọc, chọn lọc củ không mấu, tật, nứt, thối, thu gom đóng bao và tiêu thụ. Nếu thời tiết hanh khô có thể tưới ẩm trước khi nhổ từ 10-12 tiếng; để đất ẩm rễ nhổ (thu hoạch).

Cây cà rốt là cây trồng không thể thay thế được tại xã Đức Chính và Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng. Do đất đai tại địa phương có hạn cho nên nhiều gia đình tại đây phải đi thuê đất trồng cà rốt ở các vùng đất bãi ven sông Thái Bình, Kinh Thầy… Để tăng hiệu quả kinh tế, giảm chi phí nên việc gieo trồng cà rốt đã không ngừng được cải tiến và áp dụng cơ giới hóa ở tất cả các khâu như: Làm đất, lên luống, gieo hạt, tưới nước…

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam

Phát triển thương hiệu Bưởi Da Xanh Khánh Vĩnh

Là một trong bốn loại cây trồng chủ lực của huyện miền núi Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa, cây bưởi da xanh không chỉ giúp người trồng thoát nghèo mà còn là sinh kế bền vững.

Bưởi Khánh Vĩnh được chứng nhận tiêu chuẩn VietGap

Sau một thời gian “bưởi da xanh Khánh Vĩnh” được công nhận là nhãn hiệu tập thể, nông dân Khánh Vĩnh đang phấn đấu đưa bưởi da xanh tiếp cận rộng rãi hơn với thị trường tiêu thụ.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Vĩnh, huyện có hơn 500 ha bưởi da xanh được cấp thương hiệu, tập trung ở các xã Khánh Đông, Khánh Nam, Khánh Bình, Khánh Trung. Song song với việc xây dựng thương hiệu, huyện Khánh Vĩnh cũng phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền nông dân sản xuất theo hướng an toàn VietGAP.

Ông Phùng Văn Thông, xã Khánh Nam là một trong những nông dân trồng bưởi da xanh có năng suất và chất lượng cao của huyện. Ban đầu ông chỉ trồng xen canh bưởi với các loại cây ăn trái khác, nhưng càng về sau, cây bưởi cho giá trị thu nhập cao, ông đã phát triển vườn bưởi của mình lên đến 2 ha với khoảng 1.000 gốc bưởi da xanh. Sau khi trừ chi phí, kết thúc thu hoạch ông Thông lãi khoảng 400 triệu đồng/năm.

Không chỉ có ông Thông, ông Nguyễn Xuân Long, Tổ trưởng Tổ hợp sản xuất trái cây an toàn Khánh Vĩnh, một trong những người đầu tiên trồng bưởi da xanh tại đây cho biết, từ năm 2005 khi có chương trình bán hỗ trợ cây giống của huyện, gia đình ông đã mua 20 cây bưởi da xanh về trồng.

Thời tiết thuận lợi cộng thêm được hướng dẫn cách canh tác hiệu quả, 6 năm sau, cây cho quả và bán được 20 triệu đồng/năm. Kể từ đó, ông tích lũy vốn liếng và đầu tư mở rộng diện tích trồng. Đến nay gia đình ông có 2 ha bưởi da xanh. Bình quân mỗi năm thu hoạch khoảng 10 tấn bưởi/ha, trừ chi phí lãi 300 triệu đồng/ha.

Ông Nguyễn Xuân Long cho rằng: “Sau khi có được thương hiệu sẽ là cơ hội lớn để sản phẩm bưởi da xanh Khánh Vĩnh mở rộng thị trường, người tiêu dùng biết đến nguồn gốc sản xuất bưởi của địa phương, từ đó mở rộng cơ hội tiêu thụ. Đầu tiên là người nông dân, sau đó là các tổ hợp tác, do đó, Hợp tác xã của chúng tôi xác định cần tiếp tục sản xuất theo đúng quy trình mà nhà nước hướng dẫn, đảm bảo chất lượng bưởi da xanh khi đưa ra thị trường”.

Còn ông Thông thì khẳng định, thương hiệu bưởi da xanh Khánh Vĩnh sẽ giúp người trồng như ông có thể bán được giá hơn, mặc khác khi gắn với thương hiệu, vai trò, trách nhiệm sản xuất nông sản sạch của nông dân cũng được đề cao hơn.

“Do đó, không chỉ bản thân tôi áp dụng quy trình trồng VietGAP mà rất nhiều hộ khác đều chủ động tham gia, nhằm đưa đến người tiêu dùng những quả bưởi ngon và an toàn nhất”, ông Thông chia sẻ.

Ông Lương Nguyễn Nhật Trường, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Vĩnh cho biết, mới đây, Trung tâm Chất lượng Nông lâm thủy sản vùng 3 cấp giấy chứng nhận VietGAP đã cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn VietGAP đối với các sản phẩm bưởi da xanh, cam xoàn, xoài cho 54 hộ với vùng trồng rộng 85 ha.

Đây là kết quả nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc xây dựng thương hiệu cho cây ăn quả Khánh Vĩnh. Do đó, trong thời gian tới, các ban ngành chức năng của huyện xác định thực hiện nhiều giải pháp để phát triển được thương hiệu bưởi da xanh Khánh Vĩnh. Trong đó, tập trung vào công tác tuyên truyền, vận động nông dân sản xuất theo hướng an toàn; tiếp tục nghiên cứu sản xuất theo hướng hữu cơ để nâng cao chất lượng.

Theo lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện Khánh Vĩnh, định hướng đưa bưởi da xanh Khánh Vĩnh có chỗ đứng vững chắc không chỉ nhắm đến thị trường trong nước mà còn ở nước ngoài. Để phát triển bưởi da xanh vào các thị trường khác, các hộ đang áp dụng quy trình VietGAP cần tuyên truyền, vận động thêm bà con xung quanh phát triển VietGAP để phát triển vùng trồng rộng lớn hơn.

Các sở, ngành, cơ quan chuyên môn cần tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ nông dân các tiến bộ, khoa học kĩ thuật trong việc truy xuất nguồn gốc điện tử về: vùng trồng, mã số vườn theo tiêu chuẩn của các nước trên thế giới, có như vậy bưởi da xanh Khánh Vĩnh mới rộng đường xuất khẩu ra nước ngoài.

Nguồn: Tổng hợp và kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam