Công nghệ phát hiện tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản

Bộ kit này dựa trên cơ chế cạnh tranh miễn dịch giữa chất kháng sinh Enrofloxacin và cộng hợp enzyme đánh dấu lên kháng thể đặc hiệu. Nồng độ Enrofloxacin sẽ được hiển thị dựa trên mức độ phát quang của enzyme.

Sự cần thiết

Enrofloxacin là loại thuốc kháng sinh thuộc họ Fluroquinolone giúp kháng bệnh cho tôm cá, tuy nhiên chất này có thể gây hại cho sức khỏe người sử dụng sản phẩm (gây giảm thị lực cho mắt, gây viêm khớp…). Là một loại kháng sinh nằm trong danh mục cấm. Trên thực tế nhiều hộ nuôi trồng thủy sản vẫn lạm dụng thuốc này. Các nước nhập khẩu tôm của Việt Nam đang lên tiếng cảnh báo về tình hình nhiễm Enrofloxacin. Các mặt hàng thủy sản trong nước cũng có nguy cơ nhiễm Enrofloxacin.

ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay) là một kỹ thuật sinh hóa để phát hiện kháng thể hay kháng nguyên trong mẫu cần phân tích. Bộ kit ELISA phát hiện nhanh dư lượng kháng sinh Enrofloxacin có nhiều ưu điểm, đặc biệt là tất cả các quy trình từ đưa mẫu vào phân tích đến cho ra kết quả chỉ mất 30 phút, nhanh hơn rất nhiều so với các phương pháp khác.

Thực hiện nhanh, thao tác đơn giản, dễ thực hiện. Không đòi hỏi thiết bị đắt tiền. Không cần nhân viên chuyên môn cao. Độ nhạy cao, có khả năng phát hiện dư lượng Enrofloxacin ở ngưỡng phát hiện 1 ppb. Chi phí kiểm mẫu thấp do có thể kiểm đồng thời một số lượng mẫu lớn.

Ngoài ra, bộ kit này là có thể phân tích khoảng 50 – 80 mẫu cùng một lúc.

Thành phần của bộ kit bao gồm:

– Đĩa giếng: Đĩa ELISA 96 giếng được sử dụng nhiều nhất thường là polystyrene hoặc các dẫn xuất của polystyrene thu được bằng cách biến đổi hóa học hoặc chiếu xạ bề mặt. Phổ biến nhất là đĩa 96 giếng được thiết kế thành 8 hàng và 12 cột. Mỗi giếng giữ khoảng 350 µl thể tích với một khu vực bên trong khoảng 2,5 cm2.

– Chứng âm, chứng dương: Có tác dụng kiểm tra xem mẫu, hóa chất và điều kiện chạy đã chuẩn chưa.

– Cộng hợp, cơ chất, dung dịch hãm màu.

Quy trình

Nguyên lý: Kháng thể đặc hiệu kháng Enrofloxacin được gắn lên giếng. Cho mẫu vào, nếu Enrofloxacin có trong mẫu phân tích sẽ bị kháng thể bắt giữ, các tạp chất bị rửa trôi. Cho thêm cộng hợp giữa Enrofloxacin và enzyme vào giếng, khi đó nồng độ Enrofloxacin sẽ được hiển thị dựa trên mức độ phát quang của mỗi giếng. Nếu nồng độ Enrofloxacin cao tương ứng với màu nhạt, còn nồng độ Enrofloxacin thấp tương ứng với màu đậm. Vì vậy, chỉ cần nhìn vào 2 màu đậm hoặc nhạt là có thể biết được thủy sản có nhiễm Enrofloxacin hay không.

Xử lý mẫu: Thông thường có thể xử lý mẫu theo hai cách:

Đối với hệ số pha loãng 3 lần: Cho 2 g mẫu vào ống ly tâm, sau đó cho thêm 4 ml dung dịch methanol 70% vào. Lắc mẫu trong 20 phút. Tiếp đến, ly tâm 10.000 vòng/phút trong 15 phút. Lấy 2 ml dịch trong, thổi khô, sau đó hòa cặn lại bằng dung dịch methanol 35%. Độ pha loãng là 3 lần.

Đối với hệ số pha loãng 6 lần: Cho 2 g mẫu vào ống ly tâm, sau đó cho thêm 4 ml dung dịch methanol 70% vào. Lắc mẫu trong 20 phút. Ly tâm 10.000 vòng/phút trong 15 phút. Rút 1 ml dịch trong pha loãng với 1 ml dung dịch pha loãng đi kèm.

Tiến hành phản ứng

Cho 50 µl dung dịch chuẩn Enrofloxacin và dung dịch mẫu vào mỗi giếng. Cho 50 µl cộng hợp enzyme vào các giếng đã cho chuẩn và mẫu. Ủ tại nhiệt độ phòng trong 30 phút. Rửa các giếng bằng dung dịch rửa 3 lần. Cho 100 µl cơ chất hiện màu vào tất cả các giếng, ủ trong 30 phút.

Kết quả

Để đọc mật độ quang bằng máy so màu thì cho vào mỗi giếng 50 µl dịch hãm màu, hỗn hợp sẽ chuyển sang màu vàng, sau đó đọc tại bước sóng 450 nm. Cách đọc như sau:

Đối chứng dương: Màu rõ ràng, độ hấp thụ ánh sáng (A) phải > 0,6

Đối chứng âm: Không màu hoặc màu nhạt, A phải < 0,1

Mẫu dương tính: Có màu rõ ràng, A phải > 0,3

Lưu ý: Toàn bộ thuốc thử phải bảo quản trong lạnh (4 – 80C). Khi tiến hành thí nghiệm phải đưa toàn bộ thuốc thử về nhiệt độ phòng. Không để các thuốc thử tiếp xúc ánh nắng.

Nguồn: Contom.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vai trò của vaccine được dùng trong nuôi trồng thủy sản

Vaccine là một chế phẩm sinh học chứa vật chất của mầm bệnh được gọi là “kháng nguyên”.Khi đưa vào cơ thể người hoặc động vật sẽ kích thích cơ thể tạo ra một trạng thái miễn dịch, giúp cơ thể chống lại mầm gây bệnh.

Vaccine phòng bệnh trong nuôi thủy sản được bắt đầu nghiên cứu và phát triển từ năm 1973 nhưng mãi đến cuối những năm 1987 mới được đưa vào sử dụng (Newman, S, 1993). Cho đến tháng 7 năm 2005, đã có 35 loại vaccine phòng bệnh vi khuẩn và 2 loại vaccine phòng bệnh virut được đăng ký bản quyền và sử dụng cho 6 đối tượng nuôi phổ biến trên 41 quốc gia trên thế giới bao gồm cá hồi, cá chẽm châu âu, cá chẽm châu á, cá rô phi, cá Turbot, và cá bơn đuôi vàng…

Hình ảnh tiêm Vaccine cho cá

Mặc dù chưa được sử dụng phổ biến, tuy nhiên Vaccine có vai trò quan trọng trong nuôi trồng thủy sản như:

  • Phòng bệnh, tăng tỉ lệ sống cho đối tượng nuôi, tăng năng suất nuôi:Theo kết quả thống kê của FAO,2006 thì cho đến năm 2005 có đến 95% tổng số cá được tiêm vaccine trước khi đưa vào nuôi thương phẩm và tỉ lệ sống của cá nuôi thương phẩm đạt trên 90%
  • Giảm thiểu việc sử dụng thuốc kháng sinhDựa vào kết quả thống kê của FAO,2006 là một ví dụ điển hình về ảnh hưởng củasử dụng vaccine đối với hai đối tượng nuôi chính tại châu Âu và Mỹ đó là cá hồi và cá hồi vân.Với thực tế hiện nay, đa số người nuôi thủy sản đều sử dụng đến thuốc, hóa chất trong hầu hết các khâu liên quan, với mục đích xử lý môi trường, phòng trừ dịch bệnh nhằm nâng cao năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên việc lạm dụng thuốc, hóa chất trong quá trình sản xuất đã dẫn đến hiện tượng kháng thuốc, nhờn thuốc cho đối tượng nuôi; dư lượng hóa chất có trong sản phẩm thuỷ sản gây bất lợi đến sức khoẻ người tiêu dùng; sản phẩm làm ra không đảm bảo chất lượng về an toàn vệ sinh thực phẩm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường xuất khẩu và lợi nhuận thu về không cao.  Người ta sử dụng vaccine thay cho các loại thuốc kháng sinh vì tác dụng giống thuốc kháng sinh nhưng  an toàn hơn vì là chế phẩm sinh học.
  • Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm: Vaccine là một loại chế phẩm sinh học nên chúng khác với các loại thuốc, hóa chất. vacine không gây
  • Giảm giá thành sản phẩm: Theo số liệu thống kê của FAO,2006, chi phí sản xuất ra 1kg cá hồi từ năm 1987 là gần 7 euro thì đến năm 2003 đã giảm xuống dưới 2 euro/kg. có nhiều nguyên nhân giúp cho chi phí sản xuất cá hồi giảm trên 300% từ năm  1987 đến 2003 như cải thiện công nghệ nuôi, hoàn thiện thức ăn công nghiệp và đặc biệt là tăng tỉ lệ sống của cá nhờ vào việc sử dụng các loại vaccine phòng bệnh vi khuẩn trên đối tượng này. Chi phí sản xuất giảm nên giá thành sản phẩm cũng giảm.Chính vì những hiệu quả mà Vaccine mang lại mà chúng ta cần quan tâm triệt để đến công tác nghiên cứu vi sinh vật để sản xuất vaccine sử dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Hành ta – thuốc kháng sinh tự nhiên

Hành ta có lá dài, củ nhỏ, thường được sử dụng trong nấu ăn như một gia vị quen thuộc. Thế nhưng cây hành ta nhỏ bé còn chứa đựng trong nó nhiều bí mật mà không phải bà nội trợ nào cũng biết.

                                Hành ta – thuốc kháng sinh tự nhiên

Hành chứa một lượng đáng kể can xi, phốt pho và kali, carotene và chất sắt, rất tốt cho cơ thể. Tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng không phải điều quý nhất của nó.

Hành chứa rất nhiều thành phần hóa học có tác dụng phòng chữa bệnh như acid malic, phytin và alylsulfit, tinh dầu, đặc biệt là chất kháng sinh alicine hòa tan trong nước. Alicine giúp diệt khuẩn rất mạnh đối với một số bệnh như thương hàn, lỵ, vi trùng tả, trực khuẩn, bệnh bạch hầu. Tuy nhiên, nó lại dễ mất tác dụng bởi nhiệt, kiềm. Vì vậy, trong khi nấu ăn, hành là gia vị cho vào cuối cùng để tránh mất chất alicine.

Hành cũng chứa chất kháng khuẩn fitoncidi. Khi có dịch bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp, nên ăn hành sống để dự phòng.

Do chứa nhiều chất kháng sinh nên tinh dầu hành có tác dụng sát khuẩn mạnh, dùng thoa bên ngoài chữa mụn nhọt mưng mủ. Vì hành có thể kích thích được tuyến mồ hôi nên còn được sử dụng như một thức ăn giải độc. Người ta vẫn nấu cháo hành để chữa cảm mạo, phong hàn, nhức đầu ăn cháo hành nóng, chữa đau lưng, kiết lỵ.

Ngoài ra, hành còn có tác dụng hạ thấp mỡ trong máu, có hiệu quả trị liệu nhất định đối với bệnh tim mạch. Nước ép hành rất tốt cho việc điều trị bệnh thiếu máu. Hợp chất lưu huỳnh có trong gia vị này giúp ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư.

Một số bài thuốc chữa bệnh từ cây hành ta

Hành giã nát ngâm trong nước sôi, xông hoặc nhỏ mũi chữa ngạt mũi cấp tính và mãn tính, viêm niêm mạc mũi

Cảm cúm, nhức đầu: Lấy hành ta 6-8 củ, gừng sống 10 g, xắt mỏng, đổ vào 1 cốc nước sôi, xông miệng mũi mỗi ngày 2-3 lần. Đồng thời, nên sắc nước gừng và hành để uống (1 ly giữa bữa ăn và 1 ly trước khi đi ngủ).

Động thai: Hành ta tươi 60 g, sắc uống dần đến khi yên thai thì thôi.

Tăng huyết áp: Hành tây 2-3 củ xắt lát, trộn đường ăn, hoặc nấu nước uống thường xuyên. Uống 4-5 lần, huyết áp sẽ hạ.

Tắc ruột do giun đũa: Lá hành tươi 30 g giã nát, trộn với 30 g dầu vừng (dầu mè). Uống ngày 2-3 lần Nghiền nát hành sống đắp lên trên trán có thể làm giảm đau đầu.

Các củ hành nhỏ có thể được sử dụng như thuốc long đờm. Nghiền nát rồi trộn với đường phèn, để một lúc cho nước chảy ra. Dùng khoảng 3-4 thìa cà phê nước ép này để làm dịu đi chứng ho và đau họng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Công nghệ nuôi gà không cần kháng sinh

Kee Song Brothers Poultry của Singapore đã trở thành công ty đầu tiên ở Đông Nam Á có thể nuôi gà quy mô lớn mà không cần dùng kháng sinh.

Để chứng minh cho sự thành công của công nghệ này, Kee Song đã tiến hành một nghiên cứu trong giai đoạn tháng 5-8/2013 và mời 6 công ty quốc tế trong các lĩnh vực thực phẩm, nông nghiệp và dược phẩm tham gia một thử nghiệm nuôi 180.000 con gà tại trang trại của công ty ở bang Johor, Malaysia.

Kết quả nghiên cứu cho thấy gà được cho ăn loại khuẩn sữa riêng, vốn hay được dùng trong chế biến sữa chua và phomát, có tỷ lệ sống sót từ 98 đến 99% so với gà được cho dùng kháng sinh (95%). Gà do Kee Song nuôi cũng ít bị chứng tiêu chảy hơn.

Công nghệ nuôi gà không cần kháng sinh ở SingaporeCông nghệ nuôi gà không cần kháng sinh

Dù kháng sinh được các trại chăn nuôi gia cầm sử dụng rộng rãi để giúp gà có thêm sức đề kháng, nghiên cứu cho thấy một số loại vi khuẩn hoặc “siêu vi trùng” trong gà có thể nhờn kháng sinh trong dài hạn, theo tiến sĩ Chia Tet Fatt – tác giả công nghệ mới.

Công nghệ này được Kee Song Brothers Poultry và Otemchi Biotechnologies – một công ty chuyên nghiên cứu công nghệ khuẩn sữa, cùng nghiên cứu và phát triển.

Tiến sĩ Chia, cũng là Giám đốc Otemchi Biotechnologies cho biết chúng tôi muốn loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng kháng sinh không chỉ để giúp gà có thể khỏe mạnh hơn mà còn bảo vệ người lao động, những người đầu tiên sẽ bị nhiễm bệnh (nếu vi khuẩn xuất hiện) do họ làm việc tại các nông trại.

Kee Song hiện đã bán gà được nuôi bằng khuẩn sữa trên trang web của công ty. Sản phẩm gà đông trùng hạ thảo đang được bán tại nhiều siêu thị, được cho có thể giúp người dùng tăng cường sức đề kháng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam