Kỹ thuật trồng dưa hấu vụ Tết

Dưa hấu là loại trái cây thường dùng quanh năm và cũng là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả chưng tết theo phong tục của ông bà ngày xưa, với mong muốn năm mới luôn có những điều tốt đẹp, may mắn đến với gia đình. Vì vậy, ngoài chất lượng thơm ngon, người tiêu dùng còn quan tâm đến vẻ đẹp bên ngoài của dưa. Để có trái dưa hấu to tròn, ngon và đẹp, thu hoạch đúng dịp Tết, nông dân cần chú ý đến nhiều yếu tố trong kỹ thuật canh tác dưa hấu.

Dưa hấu là loại màu ngắn ngày dễ trồng, có thể trồng quanh năm; Tuy nhiên với điều kiện tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long, dưa hấu có thể trồng từ cuối mùa mưa cho đến hết mùa nắng (khoảng tháng 10 – tháng 4 âm lịch), chia làm 3 vụ là vụ dưa sớm, dưa Tết và dưa lạc hậu, trong đó dưa tết là vụ chính trong năm thường được trồng từ giữa tháng 10 âm lịch, thu hoạch trước Tết nguyên đán vài ngày. ÔngTrương Minh Chiến, ở Ấp Béc Tôn, xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú cho biết: “Thường khoảng rằm tháng 10 âl là tiến hành xuống giống vụ dưa tết, đến khảng 25 tết cắt bán, vụ dưa tết đa số người trồng thường chọn trái tròn cao, xanh bóng”.

Chăm sóc dưa hấu vụ Tết

Ngoài đạt năng suất, trồng dưa hấu tết cần nhất là mẫu mã đẹp, trái to tròn đều, dòn ngọt. Để đạt được điều này việc chọn giống là rất quan trọng ; Theo kinh nghiệm của nông dân thì trồng vụ tết nên chọn các giống như dưa hấu An Tiêm có sức sinh trưởng mạnh, dễ ra hoa, đậu trái, năng suất cao và phẩm chất tốt, trọng lượng trái 3 – 6 kg, năng suất 25 – 45 tấn/ha, hiện nay đã có các giống An Tiêm 94, An Tiêm 95, An Tiêm 98, An Tiêm 100; Hay như giống Tiểu Hắc Long vỏ đen, hạt lép, chất lượng ngon, ngọt, chưng lâu không bị úng, mỗi trái nặng từ 3 – 8kg nên được người trồng và người tiêu dùng ưa chuộng; Giống Hồng Cúc vỏ vàng thích hợp để người trồng sáng tạo nhiều hình dạng đẹp mắt, phục vụ thị hiếu người tiêu dùng.

Về mật độ trồng, do dưa hấu là loại thân thảo, thân chính dài từ 1 – 6 m, nên khoảng cách giữa các liếp trồng từ 5 – 6m, bề rộng liếp từ 1 – 1,1 m, mật độ giữa cây với cây phải thưa để tiện lợi cho dây dưa bò và các công đoạn sửa dây tuyển trái sau này, liếp trồng cao 30 – 40m, đảm bảo thoát nước tốt vì dưa hấu chịu úng rất kém. Về chế độ chăm sóc sau khi gieo hạt, kỹ sư Thạch Lai – Trung tâm khuyến nông tỉnh Sóc Trăng khuyến cáo: “Từng giai đoạn cây dưa hấu cần lượng nước khác nhau, từ giai đoạn xuống giống đến khi ra hoa, từ khi gieo hạt đến 20 – 25 ngày sau nên tưới nước thật đều, đối với những ruộng khôngcó màng phủ thì ngày tưới 2 lần. Giai đoạn dưa mang trái thì tăng lượng nước lên và tùy vào điều kiện từng vùng. Về phân bón, nếu có màng phủ nên bón phân lót liếp, ví dụ chúng ta sử dụng 100kg phân tổng hợp NPK, thì bón lót trước 50kg, còn lại thì bón thúc cho trái phát triển”.

Sửa dây là một kỹ thuật cần thiết trong việc trồng dưa hấu, bà con cần điểu chỉnh cho các dây bò song song nhau theo thứ tự thẳng góc với hàng trồng, không để dây quấn chồng lên nhau, gây khó khăn trong việc tuyển trái và ảnh hưởng khả năng quang hợp của cây, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển.

Hằng năm Sóc Trăng trồng khoảng 400 ha dưa hấu, tập trung nhiều ở các xã Phú Tân, Phú Tâm huyện Châu Thành, xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú và xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên;  Một số nơi trong tỉnh, bà con còn áp dụng thành công mô hình trồng dưa hấu dưới ruộng thay cho làm lúa vụ 3 do chủ động được nguồn nước.

Thu hoạch dưa hấu

Hiện tại các rẫy dưa đang kỳ cho trái, đây là thời gian bà con bắt đầu công đoạn tuyển trái, để cho trái dưa to, tròn đều thì mỗi dây chỉ để lại một trái trên dây chính. Việc tuyển trái sẽ được tiến hành khoảng 40 – 45 ngày sau khi gieo hạt. Đây là công đoạn quan trọng, quyết định đến chất lượng mẫu mã của trái dưa hấu tết. Kỹ sư Thạch Lai – Trung tâm khuyến nông tỉnh Sóc Trăng cho biết thêm: “Ở giai đoạn khi trái bằng trái chanh hoặc lớn hơn, khoảng 30 – 35 ngày sau khi trồng, đây là giai đoạn quyết định để tuyển trái. Cách chọn là khi dưa hâu chấm nụ, bà con nên để lại 2 trái/dây, khi trái bằng trái chanh thì tuyển lại lấy 1 trái/dây, tránh trường hợp mình để trái lớn quá mình tuyển thì làm yếu dây dưa. Chọn trái xong cần chỉnh sửa cho trái nằm ngay ngắn, lót bên dưới trái bằng rơm hoặc lá chuối, giai đoạn trái khoảng 2 – 3 kg mình sửa thêm lần nữa, thì sẽ có được trái dưa hấu như ý”.

Theo các nhà khoa học khuyến cáo dưa hấu được thu hoạch khi có độ chín 80-90%, tức là khoảng 60-70 ngày sau khi trồng, tuỳ điều kiện vận chuyển đến thị trường tiêu thụ xa hay gần. Cần ngưng nước 4-5 ngày trước khi thu hoạch giúp dưa ngon ngọt, để được lâu và ít bị bể khi vận chuyển. Việc ngưng tưới phân và phun thuốc 10 ngày trước khi thu hoạch nhằm bảo đảm phẩm chất dưa sạch cho người tiêu dùng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Mô hình chăn nuôi gà thịt trên nền đệm lót sinh học

Để góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái giai đoạn 2015-2020 và làm phong phú, đa dạng thêm giống gà nuôi trong tỉnh, năm 2017 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Yên Bái đã phối hợp với UBND xã Phú Thịnh, huyện Yên Bình xây dựng mô hình “Chăn nuôi gà thịt giống Minh Dư trên đệm lót sinh thái”.

Mô hình có quy mô 400 con được thực hiện tại hộ ông Mai Xuân Vinh ở thôn Thanh Bình, xã Phú Thịnh, huyện Yên Bình với hình thức hỗ trợ 100% con giống và 50% vật tư (thức ăn, vắc-xin, hóa chất sát trùng, chế phẩm xử lý mùi hôi…).

Sau 3 tháng thực hiện mô hình, hộ thực hiện đã áp dụng các chỉ tiêu kỹ thuật được tập huấn về chăn nuôi gà thịt Minh Dư trên đệm lót sinh thái. Gà thịt giống Minh Dư được mua tại Công ty TTHH giống gia cầm Minh Dư ở thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước,tỉnh Bình Định. Gà giống khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lông bông, bụng gọn, không khèo chân, không vẹo mỏ đủ tiêu chuẩn làm giống. Chuồng trại luôn được vệ sinh sạch sẽ, tiêu độc khử trùng đúng định kỳ, thay trấu đệm lót đảm bảo đúng kỹ thuật. Thời gian từ tuần đầu đến hết tuần 4, chiếu sáng 100% để đảm bảo duy trì nhiệt độ phù hợp sao cho đàn gà lúc nào cũng tản đều trong quây úm. Từ tuần thứ 5 trở đi chỉ chiếu sáng về đêm còn ban ngày tùy thuộc vào thời tiết. Về thức ăn, từ tuần 1 đến hết tuần 4 cho ăn thức ăn hỗn hợp đảm bảo độ đạm là 21%, từ tuần thứ 5 cho ăn thức ăn có độ đạm là 19%, từ tuần thứ 7 thả gà ra vườn, từ tuần thứ 10 trở đi cho ăn thức ăn phối trộn giữ thức ăn hỗn hợp và cám ngô, gạo… Cho gà uống đủ nước sạch, thuốc úm và bố trí các máng ăn máng uống phù hợp theo lứa tuổi.

Đàn gà giống Minh Dư lúc 04 tuần tuổi

Công tác thú y được tuân thủ nghiêm ngặt. Thường xuyên cọ rửa máng ăn, máng uống, dụng cụ chăn nuôi, định kỳ phun tiêu độc khử trùng, kịp thời thay đệm lót khi bị bẩn ướt, xử lý chế phẩm khử mùi hôi đúng thời điểm, tiêm phòng và xử lý các loại vắc-xin đúng và đầy đủ theo quy trình kỹ thuật.

Sau khi áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật cho thấy đàn gà tăng trọng nhanh, tỉ lệ nuôi sống ở 90 ngày tuổi đạt 99,75%, tiêu tốn thức ăn: 2,65 kg/1kg tăng trọng. Trọng lượng bình quân gà lúc 90 ngày tuổi đạt 2,0 kg/con đảm bảo chỉ tiêu của mô hình. Khi dùng chế phẩm vi sinh Balasa No1 xử lý trên đệm lót, giúp phân hủy phân, giảm mùi hôi thối và khí độc chuồng nuôi, tạo môi trường trong lành cho vật nuôi phát triển tốt, giảm tỉ lệ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh tiêu chảy, bệnh CRD, lông gà tơi xốp, mượt, sạch đẹp hơn, bán có giá cao hơn trước đây. Mô hình đã được hộ tham gia mô hình và các hộ dân vùng lân thăm quan học tập cận đánh giá cao và có khả năng nhân ra diện rộng.

Từ thực tế triển khai mô hình tại xã Phú thịnh cho thấy, nuôi gà thịt giống Minh Dư trên đệm lót sinh thái giảm đáng kể các chi phí đầu tư, kể cả công chăm sóc so với hình thức nuôi truyền thống trước đây. Lợi nhuận thu được từ 400 con gà sau hơn 3 tháng nuôi là trên 10 triệu đồng.

Đàn gà giống Minh Dư 10 tuần tuổi

Ông Mai Xuân Vinh hộ tham gia mô hình cho biết thêm, quá trình triển khai mô hình chăn nuôi gà thịt giống Minh Dư trên đệm lót sinh thái đã giảm 25% chi phí điện úm gà con, 40% công lao động và 30% thuốc thú y. Đặc biệt là chi phí công quét dọn phân hàng ngày với lượng trấu phải thay thường xuyên như trước đây đã giảm đáng kể. Mô hình đã giúp giảm đáng kể mùi hôi, khí độc trong chuồng nuôi và môi trường xung quanh. Từ đó, góp phần định hướng phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung, an toàn, bền vững và quản lý tốt dịch bệnh, tạo ra những sản phẩm an toàn, chất lượng và đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dung.

Mô hình chăn nuôi gà thịt giống Minh Dư được Trung tâm Khuyến nông tỉnh Yên Bái thực hiện tại xã Phú Thịnh sẽ là cơ sở để các hộ chăn nuôi trong vùng đến thăm quan học tập làm theo.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trồng thanh long sạch đón đầu thị trường đẳng cấp

Bình Thuận xác định đây là hướng đi tất yếu và bền vững để nâng cao chất lượng và giá trị thanh long của địa phương.

Hiện nay, để tránh lệ thuộc vào thị trường truyền thống, nhiều nông dân ở tỉnh Bình Thuận đã mạnh dạn đầu tư trồng thanh long theo tiêu chuẩn an toàn GlobalGAP (Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu). Ngành nông nghiệp Bình Thuận xác định đây là hướng đi tất yếu để nâng cao chất lượng và giá trị của loại nông sản lợi thế này của địa phương.

Gia đình ông Nguyễn Quốc Nguyên Vũ ở xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam gắn bó với nghề trồng thanh long từ hơn 20 năm qua. Nhận thấy giá cả thanh long canh tác theo lối truyền thống lên xuống thất thường, 3 năm trước, ông Vũ đã quyết định chuyển hướng qua sản xuất thanh long sạch.

Thanh long Bình Thuận đã trở thành thương hiệu

Trang trại thanh long sạch Phúc An của ông Vũ hiện có 25 ha đã cho thu hoạch xuất đi các nước New Zealand, Hàn Quốc và Cananada… Ông Vũ vừa xúc tiến trồng thêm 20 ha, nâng tổng diện tích thanh long trồng theo tiêu chuẩn GlobalGAP của trang trại lên 45 ha.

“Người trồng nên chủ động làm cho thanh long đạt chất lượng cao hơn, từ đó nâng giá thành sản phẩm lên bằng cách sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP hoặc theo hướng hữu cơ. Sản phẩm trồng theo tiêu chuẩn sẽ không phụ thuộc nhiều vào thị trường truyền thống”, ông Vũ cho biết.

Quy trình sản xuất GlobalGAP đòi hỏi kỹ thuật cao và có sự quản lý nghiêm ngặt, từ khâu chăm sóc đến khâu thu hoạch và đóng gói xuất khẩu. Theo quy trình này, vườn canh tác GlobalGAP hoàn toàn khác với vườn bình thường. Diện tích đất trong vườn phân ra thành từng khu, từng lô theo thứ tự có đánh số cụ thể để dễ dàng chăm sóc và quản lý cũng như truy nguyên nguồn gốc khi có sự cố dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hoặc mầm bệnh xảy ra.

Tại trang trại Sơn Trà, huyện Hàm Thuận Nam, với diện tích hơn 20 ha, các nhân công chăm sóc vườn theo một kế hoạch bài bản. Các công đoạn làm vườn như bón phân, cắt cành, tưới nước… đều được người phụ trách kỹ thuật ghi chép cẩn thận theo từng khu vực và quy trình chặt chẽ.

Anh Nguyễn Hữu Phương, quản lý kỹ thuật tại Trang trại Sơn Trà cho biết, thanh long sạch trồng và chăm sóc khó hơn, trong khi các thị trường khó tính luôn đòi hỏi yêu cầu chất lượng từ khâu sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển. Tuy nhiên khi đáp ứng được các yêu cầu này, sản phẩm thanh long sẽ có giá cao hơn.

Hiện nay, ngoài 2 trang trại lớn có tiếng là Hoàng Hậu và Rau quả Bình Thuận, hơn 10 trang trại khác ở tỉnh Bình Thuận cũng đang đẩy mạnh sản xuất thanh long sạch cho hiệu quả kinh tế cao, đáng kể đến như Gia Thành, Phúc An, Sơn Trà… Hầu hết sản lượng làm ra đều được xuất qua các thị trường khó tính như Đức, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… với giá ổn định xấp xỉ trên dưới 30.000 đồng/kg.

Theo Sở NN&PTNT Bình Thuận, toàn tỉnh hiện có 220 ha thanh long trồng theo tiêu chuẩn. Ngành nông nghiệp địa phương định hướng, từ nay đến năm 2020 phải tập trung sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn an toàn để mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khó tính.

Ngành nông nghiệp Bình Thuận đang khuyến khích nông dân sản xuất thanh long theo hướng an toàn

Mới đây, Chính phủ Australia cũng vừa chấp nhận cho phép nhập khẩu sản phẩm thanh long Việt Nam. Điều này đã mở ra thêm cơ hội cho người trồng thanh long sạch.

Kỹ sư Phạm Hữu Thủ, Chánh Văn phòng Sở NN&PTNT Bình Thuận cho biết, để xuất thanh long vào thị trường Australia phải cần có nguồn gốc xuất xứ rất rõ ràng, đặc biệt là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác kiểm dịch, kiểm soát côn trùng. “Sở đang tiếp tục vận động bà con nông dân trồng thanh long trên địa bàn tỉnh thực hiện sản xuất theo quy trình GAP và GlobalGAP”, Kỹ sư Phạm Hữu Thủ thông tin.

Toàn tỉnh Bình Thuận hiện có khoảng 27.000 ha thanh long, sản lượng khoảng nửa triệu tấn/năm, nhưng chủ yếu xuất khẩu qua Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch.

Nhìn vào bức tranh chung, diện tích sản xuất thanh long theo hướng an toàn GlobalGAP còn ít so với tiềm năng hiện có. Nhưng đứng trước xu thế hội nhập, đây là hướng đi vững chắc. Những nông dân tiên phong thay đổi tập quán, mạnh dạn đầu tư canh tác theo hướng nông nghiệp an toàn, đang mở ra hướng đi mới cho loại nông sản lợi thế này của tỉnh Bình Thuận.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá công nghiệp trên vùng biển Phú Quốc

Nuôi cá trên biển theo hướng công nghiệp được Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Trấn Phú (Công ty Trấn Phú) triển khai trên vùng biển xã Gành Dầu, huyện Phú Quốc, Kiên Giang. Mô hình này bước đầu đạt được những thành công nhất định, mở ra hướng đi mới cho nghề nuôi cá biển ở huyện đảo này.

Nuôi cá lồng bè ở Phú Quốc

Để khai thác tiềm năng kinh tế biển, cuối năm 2016, sau khi UBND tỉnh Kiên Giang cho chủ trương, Công ty Trấn Phú quyết định đầu tư thực hiện mô hình nuôi cá biển theo quy mô công nghiệp trên vùng biển xã Gành Dầu, huyện Phú Quốc. Giai đoạn I, Công ty Trấn Phú triển khai đầu tư quy mô 3ha mặt biển với 4 lồng tròn nuôi cá thương phẩm theo công nghệ Na Uy. Kinh phí đầu tư cho mỗi lồng nuôi là gần 650 triệu đồng. Toàn bộ quy trình nuôi, chăm sóc và kiểm soát dịch bệnh do Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 chuyển giao.

Trong giai đoạn I, Công ty Trấn Phú thả nuôi 163.000 con cá chim trắng và cá hồng mỹ. Đến nay, sau thời gian nuôi hơn 7 tháng thử nghiệm trên vùng biển cách xa đất liền, cá có khả năng chống chịu tốt với môi trường, nên tỷ lệ cá sống đạt gần 90%. Theo ông Thái Bảo Trấn, Giám đốc Công ty Trấn Phú, đầu tư lồng bè tròn theo công nghệ Na Uy tuy kinh phí cao, nhưng độ bền và chắc chắn, có thể chịu sóng lớn cấp 10, an toàn hơn so với cách nuôi bè truyền thống; đồng thời vừa hạn chế ô nhiễm môi trường trên biển, vừa tạo ra những tấn cá sạch cung cấp thị trường trong và ngoài nước.

Kiên Giang là tỉnh có diện tích ngư trường khá lớn, trên 63.000km2, với gần 200km bờ biển – thuận lợi để phát triển nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Tính đến nay, toàn tỉnh có 2.737 lồng bè nuôi cá trên biển, thu hoạch đạt sản lượng trên 1.300 tấn, chủ yếu thả nuôi các loại cá mú và cá bớp, tập trung chủ yếu ở vùng biển Phú Quốc, Kiên Hải, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên. Tuy nhiên, nghề nuôi cá lồng bè thương phẩm hiện nay tại Kiên Giang vẫn còn quy mô nhỏ lẻ. Bè nuôi có kết cấu thô sơ, chủ yếu tự chế bằng gỗ, luôn phải di dời tránh gió bão theo mùa.

Nuôi cá lồng bè ở Phú Quốc

Để nghề nuôi cá lồng bè bền vững tại Kiên Giang, ngoài điều kiện tự nhiên, nguồn thức ăn và cá giống thả nuôi phải đa dạng, thì việc phát triển nghề nuôi này cần tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết từ lồng nuôi đến thị trường tiêu thụ. Nuôi cá biển công nghiệp theo công nghệ lồng bè tiên tiến lại thả nuôi xa bờ giúp tránh ô nhiễm nguồn nước so với nuôi lồng bè thô sơ, năng suất lại đạt cao hơn. Tuy nhiên, để mô hình nuôi cá lồng bè trên biển theo hướng công nghiệp phát triển bền vững mở ra hướng đi mới cho ngư dân, vấn đề đặt ra là Kiên Giang cần phải tính đến quy hoạch vùng nuôi ổn định để doanh nghiệp yên tâm đầu tư, giúp người dân Kiên Giang làm giàu từ biển mà vẫn không làm ảnh hưởng đến môi trường và hoạt động du lịch.

Ông Huỳnh Quang Hưng, Phó Chủ tịch UBND huyện Phú Quốc, cho biết: Hiện nay, cùng với đầu tư phát triển du lịch, Phú Quốc xác định khai thác đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là một trong những lĩnh vực quan trọng, vừa đa dạng các sản phẩm đặc trưng phục vụ du khách, vừa tăng thu nhập cho cư dân trên đảo. Huyện Phú Quốc cũng khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân đầu tư nâng cấp tàu thuyền, ngư cụ, trang thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ, nâng cao chất lượng thủy – hải sản. Đặc biệt, chú trọng phát triển loại hình câu, thẻ kết hợp với nuôi trồng thủy sản ven bờ, nuôi cá lồng bè trên biển để cung cấp nguồn thủy – hải sản tươi sống có giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu ẩm thực của người dân và du khách.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Để cây cao su phát triển hiệu quả, bền vững

Sau thiệt hại do hai cơn bão liên tiếp xảy ra vào tháng 7 và tháng 10 năm 2017, người trồng cao su trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đang rất băn khoăn về hướng phát triển loại cây này trong những năm tới. Tìm giải pháp để làm sao vẫn phát triển cây cao su trên vùng đất vốn không có nhiều thuận lợi với đặc thù của loại cây này, trong điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt và diễn biến khó lường như hiện nay chính là vấn đề cần được các cấp, ngành quan tâm.

Sau bão số 10, vợ chồng chị Lê Thị Xuân, ở đội 1 thôn Nam Cường, xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh cặm cụi thu dọn vườn cây bị bão quật ngã. Hơn 7 sào với khoảng 190 cây cao su của gia đình chưa kịp khai thác, giờ chỉ còn lại một phần nhỏ may mắn chống chịu qua bão, còn phần lớn cây bị gãy đổ, vợ chồng chị Xuân chặt lấy củi, tận dụng chút nào hay chút đó. “Bão số 4 gia đình tôi cũng bị ảnh hưởng nhưng không nhiều như cơn bão số 10 này. Đa phần những cây bị gãy đều đến thời kỳ khai thác, coi như thất thu. Trồng cao su giống như “đánh bạc với trời” vậy, may mắn thuận lợi thì có khi thu tiền triệu mỗi ngày, bằng không thì cũng dễ tay trắng như chơi”, chị Xuân ngậm ngùi nói.

Tỉnh Quảng Trị hiện có hơn 19.945 ha cao su, tăng 570 ha so với cùng thời điểm năm 2016. Sản lượng thu hoạch mủ cao su 6 tháng đầu năm ước đạt 4.617 tấn, là loại cây chủ lực đem lại giá trị kinh tế cao cho người dân. Theo thống kê ban đầu do cơn bão số 10, toàn tỉnh có hơn 2.900 ha cao su bị ảnh hưởng, trong đó huyện Vĩnh Linh là địa phương thiệt hại nặng nhất với hơn 1.900 ha. Có khoảng 981 ha thiệt hại nặng trên 70%, hầu hết tập trung vào các xã vùng Đông Vĩnh Linh như Vĩnh Hiền, Vĩnh Hòa, Vĩnh Kim, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạch…

Hàng ngàn héc ta cao su trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại do bão số 10 gây ra

Huyện Gio Linh cũng là địa phương bị thiệt hại nặng nề với hơn 800 ha cao su bị ảnh hưởng, trong đó có xã như Trung Sơn có đến hơn 600 ha bị thiệt hại. Có nhiều nơi mật độ cây bị tàn phá rất dày, lại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản nên thiệt hại về giá trị kinh tế là rất lớn. Nhiều hộ dân gần như mất trắng vườn cây khi phần lớn cây cao su bị gió bão đánh gãy ngang gốc, không thể phục hồi.

Theo ông Trần Thanh Hiền, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để kịp thời khắc phục thiệt hại, sớm ổn định sản xuất, nhất là đối với người trồng cao su ở các địa phương trong tỉnh, ngành nông nghiệp đã kịp thời tham mưu đề xuất các biện pháp xử lý thích hợp. Riêng đối với diện tích cao su vùng Đông Vĩnh Linh, nhất là các địa phương vùng ven biển có vườn cao su bị thiệt hại trên 70% thì khuyến cáo người dân cần thanh lý, chuyển đổi sang cây trồng khác phù hợp như hồ tiêu, trồng cỏ nuôi bò hoặc các loại cây trồng khác có hiệu quả thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt.

Đối với những vườn cây cao su chưa đến thời kỳ cạo mủ, những cây bị gãy toác thân từ trên xuống hoặc đổ rạp xuống đất thì cần phải cưa bỏ để trồng lại cây mới, không dựng lên phục hồi nữa, vì làm vậy vừa tốn công, tốn tiền mà cây lại cho mủ quá ít, chất lượng kém. Đối với những cây bị gãy ngang thân, cần cưa vát theo góc nghiêng 30 độ ngay chỗ gãy cưa hết phần thân bị gãy xước, sau đó dùng mỡ vaseline bôi vào vết cắt để phục hồi. Đối với vườn cao su kinh doanh bị ảnh hưởng sau bão thì khuyến cáo tạm ngừng khai thác, tập trung chăm sóc và xử lý chờ cây phát triển ổn định trở lại mới khai thác.

Trồng cây cao su ở vùng đất thường xuyên chịu gió bão như Quảng Trị thì đòi hỏi các ngành chức năng phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trong việc định hướng cho người dân các khâu từ chọn giống, kỹ thuật trồng, thời điểm khai thác phù hợp để hạn chế thấp nhất thiệt hại do bão gây ra. Theo các nhà khoa học khuyến cáo, cần lựa chọn các giống rễ sâu, tán thấp, thân to, nên sử dụng các cây giống ươm trong bầu, có khả năng chịu được gió, rút ngắn được thời gian khai thác như GT1, PB 255, PB 260, RRIM 600… Ngoài việc mở rộng diện tích trồng thì cần quan tâm đến việc trồng các loài cây thân gỗ như cây keo có khả năng chống chịu gió làm vành đai chắn bão. Trên thực tế, đối với các vườn cao su tiểu điền hiện nay trong toàn tỉnh, hầu như người dân chưa quan tâm đến vấn đề này.

Ngoài ra, khi kiến thiết vườn cây cao su, người dân cần tránh trồng mật độ quá dày theo truyền thống (bình quân 500 – 550 cây/ha), bởi như vậy sẽ tạo nên sức cản gió lớn khiến cây nhanh chóng gãy đổ khi gặp bão. Ngoài ra, người trồng cao su cần tuân thủ việc cạo mủ theo đúng quy trình kỹ thuật, cạo hai ngày, nghỉ một ngày, không nên khai thác theo kiểu tận thu. Đối với vườn cao su đang giai đoạn kiến thiết cơ bản thì tăng cường bón phân để cây chắc rễ, chống chịu được với gió bão. Hiệu quả kinh tế mà cây cao su mang lại cho người trồng cao su trong tỉnh những năm qua đã được chứng minh.

Trong đề án tái cơ cấu các ngành kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2017 – 2020, tỉnh đặt ra mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu tăng diện tích trồng cao su lên 21.000 – 22.000 ha, sản lượng khai thác đạt từ 20.000 – 25.000 tấn. Để tiếp tục phát triển hiệu quả cây cao su tại địa phương, các cấp, ngành chức năng cần có những giải pháp mang tính lâu dài, cần điều chỉnh lại quy hoạch để xác định chỗ nào nên trồng, chỗ nào cần loại bỏ, hướng dẫn người trồng cao su nghiêm túc thực hiện cơ cấu giống và quy trình kỹ thuật áp dụng cho khu vực duyên hải miền Trung đã được Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam khuyến cáo, ban hành… nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại khi có thiên tai xảy ra.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Bình Thuận: Mô hình trồng nấm bào ngư ở Hàm Hiệp

Chúng tôi có dịp đến thăm cơ sở trồng nấm bào ngư thí điểm của gia đình ông Trần Văn Nhanh tại thôn Đại Lộc, xã Hàm Hiệp, Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận mới thấy hiệu quả của mô hình này. Trại trồng nấm bào ngư của ông chỉ khoảng 54 m2, làm bằng khung sắt, mái lợp xốp nhựa để giảm bớt độ nóng. Trong trại có 6.000 bịch phôi nấm được xếp lớp chồng lên nhau, cao khoảng 2,5 m, tạo thành 5 dãy song song. Trong đó có 2 dãy bịch phôi nấm đã hình thành quả thể ló ra ngoài phát triển rất nhanh, chỉ vài ngày nữa là cho thu hoạch.

Nấm bào ngư

Dẫn chúng tôi đi xem trại trồng nấm bào ngư, ông Trần Văn Nhanh cho biết: Vào tháng 6/2017, Trạm Khuyến nông huyện Hàm Thuận Bắc phối hợp Công ty TNHH Nông trại Quốc An (huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh) và UBND xã Hàm Hiệp triển khai thí điểm mô hình trồng nấm bào ngư cho 5 hộ dân tại thôn Đại Lộc, với tổng kinh phí 150 triệu đồng, bình quân mỗi hộ 30 triệu đồng. Đó là các hộ: Trần Văn Nhanh, Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Xuân Hiệp, Nguyễn Văn Xu, Nguyễn Văn Khánh. Riêng gia đình ông đã đầu tư 21 triệu đồng làm trại trồng nấm bào ngư bằng khung sắt, kệ sắt, được Công ty Quốc An hỗ trợ 6.000 bịch phôi nấm bào ngư, tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc theo đúng quy trình và sẽ đứng ra thu mua sản phẩm. Ông bắt đầu thực hiện trồng nấm bào ngư từ ngày 10/7/2017, đến nay đã thu hoạch 50% bịch phôi nấm được 130 kg nấm bào ngư, với giá bán 35.000 đồng/kg, thu được 4,55 triệu đồng. Sản phẩm nấm bào ngư của ông còn ít nên chỉ bán cho bà con trong xã và các chợ ở Phan Thiết. Khi nào các hộ dân sản xuất sản lượng nhiều Công ty Quốc An sẽ ra thu mua.

Trại nấm bào ngư của gia đình ông Trần Văn Nhanh tại thôn Đại Lộc, xã Hàm Hiệp.

Theo ông Nhanh, quy trình trồng, chăm sóc nấm bào ngư cũng đơn giản, sau khi nhận 6.000 bịch phôi nấm của công ty, ông xếp thành lớp trên các kệ sắt, cách mặt đất khoảng 25 – 30 cm và phun thuốc khử trùng lên bịch phôi nấm. Hàng ngày giữ nhiệt độ trong trại từ 25 – 32oC, khi nhiệt độ vượt quá 32oC cần phun nước tưới nền trại để giảm nhiệt độ và đảm bảo vệ sinh môi trường trong trại thông thoáng, không che chắn xung quanh. Thường xuyên kiểm tra phôi nấm để loại bỏ các bịch không đạt yêu cầu. Khi các bịch phôi nấm chuyển sang màu trắng hoàn toàn thì tháo nút bông trong nắp bịch ra để 1- 2 ngày không tưới nước rồi đậy nắp bịch phôi nấm lại. Sau 10 ngày tưới thật nhiều nước lên bịch phôi nấm, nền trại và tháo nắp ra, các bịch phôi nấm bắt đầu hình thành quả thể. Khoảng 4- 5 ngày sau, các quả thể trong bịch phôi nấm bào ngư đã ló ra phát triển rất nhanh, mủ nấm mỏng lại, căng rộng ra, mép hơi quằn xuống, tai nấm có đường kính 4 – 6 cm thì bắt đầu thu hoạch. Sau khi thu hoạch tiếp tục làm vệ sinh, phun nước vôi loãng vào miệng cổ các bịch phôi nấm, khoảng 1- 2 ngày đậy nắp bịch lại và tiến hành phun nước thật nhiều lên phôi nấm bào ngư, nền trại. Khoảng 7- 8 ngày tháo nắp ra, các phôi nấm sẽ hình thành quả thể ló ra ngoài phát triển thành nấm bào ngư có mủ nấm mỏng lại, căng rộng ra cho thu hoạch tiếp lần hai.

Để nhân rộng mô hình trồng nấm bào ngư, UBND xã Hàm Hiệp đã lập kế hoạch, tờ trình UBND huyện Hàm Thuận Bắc xem xét, phê duyệt, hỗ trợ triển khai mô hình trồng nấm bào ngư thêm 13 hộ dân tại 4 thôn Đại Lộc, Xuân Điền, Phú Nhang, Phú Điền, với tổng diện tích 620 m2, bằng nguồn kinh phí hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới khoảng 349,93 triệu đồng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Tìm hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên

Để phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững thì phải có quy hoạch chi tiết và quản lý quy hoạch này; không để xảy ra việc nuôi tự phát của người dân.

Trước tình trạng vùng nuôi tôm hùm liên tục bị thiệt hại thời gian qua do ô nhiễm, ngày 16.8, tại TP.Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên phối hợp Bộ NN-PTNT tổ chức hội thảo bàn giải pháp quy hoạch chi tiết và quản lý nuôi tôm hùm bền vững ở địa phương.

Nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên phát triển từ những năm 1990, từ năm 2000 tỉnh đã đưa vào quy hoạch phát triển nghề nuôi trồng này và TX.Sông Cầu được xem là vùng nuôi tôm hùm trọng điểm. Ông Lương Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND TX.Sông Cầu, cho biết hiện ở địa phương có hơn 2.142 hộ nuôi tôm hùm với khoảng 16.000 lồng nuôi tôm thương phẩm, sản lượng hơn 600 tấn/năm với doanh thu khoảng 500 – 600 tỉ đồng. Nghề nuôi này đã đóng góp đáng kể vào nền kinh tế – xã hội của địa phương.

Nuôi tôm hùm ở Sông Cầu, Phú Yên

Quản lý lỏng lẻo

Tuy nhiên, vùng nuôi tôm hùm ở xã Xuân Phương và Xuân Yên (TX.Sông Cầu) liên tiếp 2 năm liền bị chết, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm. Theo ông Nguyễn Tri Phương, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên, mật độ nuôi ở đây gấp 4 lần so với quy định. “Đó là do chúng ta không quản lý, thả lỏng việc nuôi tôm hùm ở vùng này”, ông Phương nói và thừa nhận về quản lý chỉ mới khoanh vùng, chứ chưa giao mặt nước cho người dân. Trong khi đó, những tồn tại hiện nay của nghề nuôi tôm hùm tại Phú Yên là nguồn giống vẫn khai thác tự nhiên nên không đủ cung cấp, phải nhập tôm hùm giống nước ngoài nhưng kiểm soát không tốt; thức ăn chính từ nguồn khai thác cá tạp tươi, ốc, sò, cua ghẹ… góp phần gây ra ô nhiễm môi trường; thị trường tiêu thụ chủ yếu là Trung Quốc.

Ông Trần Minh Phương ở xã Xuân Cảnh (TX.Sông Cầu) khẳng định nghề nuôi tôm hùm đã tạo ra nguồn thu lớn, thay đổi đời sống nhưng rủi ro nghề này càng ngày càng tăng cao vì phụ thuộc vào thị trường và tôm chết bất ngờ. Hơn nữa, người dân phát triển lồng nuôi tôm hùm rất nhanh, dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường. Vì vậy, đề nghị chính quyền địa phương quản lý chặt chẽ.

Ô nhiễm từ cách nuôi

Ông Võ Minh Khôi, Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản thuộc Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), cho biết khi đi khảo sát vùng tôm chết tại P.Xuân Yên và xã Xuân Phương (TX.Sông Cầu) thì thấy nghịch lý là tôm đang chết nhưng người dân vẫn đưa lồng ra vịnh Xuân Đài để thả mới. “Đây là vấn đề nan giải”, ông Khôi lo lắng.

Về nguyên nhân gây ra tôm hùm chết trong tháng 6 vừa qua, theo ông Phan Hữu Đức, Phó giám đốc thú y Vùng 4, Cục Thú y (Bộ NN-PTNT), là do ô nhiễm chất hữu cơ, dẫn đến làm giảm hàm lượng ô xy hòa tan ở cả tầng mặt nước và tầng đáy khu vực nuôi. Cũng do ô nhiễm chất hữu cơ đã tạo thuận lợi cho vi khuẩn, sinh vật phù du phát triển mạnh. “Số lượng lồng nuôi quá nhiều so với quy hoạch do người dân tự phát. Mật độ nuôi dày, lượng thức ăn tươi sống mỗi ngày đổ xuống vịnh từ 15 – 20 xe container (tương đương 400 tấn thức ăn tươi sống là cá giã cào, ốc, cua, ghẹ…) liên tục trong thời gian dài dẫn đến môi trường ô nhiễm nặng, nhiều chỉ tiêu thủy hóa vượt ngưỡng cho phép”, ông Đức nói, đồng thời chỉ ra việc quy hoạch chưa sát với thực tế nên vị trí quy hoạch làm vùng nuôi thì người dân không nuôi vì cho rằng không thích hợp với dòng chảy, vị trí không quy hoạch thì người dân lại đem lồng đến nuôi.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, cho biết đã tiến hành khảo sát vùng nuôi tôm hùm vịnh Xuân Đài (vùng nuôi tôm bị ô nhiễm nặng vừa qua) thì phát hiện nước thải từ các hồ nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi ốc hương, rác thải sinh hoạt của người dân đều đưa xuống vịnh Xuân Đài. Về lượng thức ăn cung cấp, nếu 8 kg thức ăn cho 1 lồng/ngày thì riêng ở xã Xuân Phương là 49 tấn/ngày, còn P.Xuân Yên khoảng 50 tấn/ngày… Thức ăn thừa trong lồng đều đổ xuống vịnh Xuân Đài. “Như vậy, vịnh Xuân Đài đã oằn mình gánh một lượng chất thải kinh khủng mỗi ngày”, bà Hòa nói.

Tôm hùm chết hàng loạt

Cần kiểm soát toàn diện

Ông Võ Minh Khôi cho biết nghề nuôi tôm hùm phát triển chủ yếu ở Khánh Hòa, Phú Yên. Số lượng lồng tăng 1,5 lần, nhưng nghịch lý là sản lượng giảm. Hiện nay có 4 loại tôm hùm, nhưng người dân nuôi chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Ông Khôi xác định việc phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm có nhiều yếu tố, đó là con giống, môi trường vùng nuôi, thị trường.

Vẫn theo ông Khôi, hiện nhu cầu tôm hùm giống hằng năm ở VN khoảng 24 triệu con, nguồn tôm tại địa phương chỉ đáp ứng khoảng 9 triệu con nên phải nhập tôm hùm giống nước ngoài về qua đường tiểu ngạch. “Qua tìm hiểu, chưa có cơ sở nào đăng ký nguồn tôm hùm giống. Nếu quản lý tốt sẽ tránh trường hợp tôm hùm giống trôi nổi. Nếu không kiểm soát được thì nguy cơ dịch bệnh rất cao, chất lượng tôm sẽ ảnh hưởng”, ông Khôi nói. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tôm hùm tương đối bấp bênh. Khi thị trường Trung Quốc “ăn” thì giá cao, ngược lại là giá rớt thê thảm. Giá trị xuất khẩu từ tôm hùm khoảng 40 triệu USD/năm. Quy hoạch đã có nhưng chưa đầy đủ, giám sát chưa sâu sát nên gây ra yếu tố ô nhiễm cục bộ, khiến tôm hùm chết.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa cho biết muốn vùng nuôi tôm hùm không bị ô nhiễm thì thức ăn thừa trong lồng, bè phải thu gom, đem vào bờ xử lý. “Nếu người dân đưa toàn bộ thức ăn thừa vào thì chứa ở đâu. Đây là chuyện địa phương phải tính đến”, bà Hòa nói. Bà Hòa cũng khuyến cáo không nên nuôi vẹm xanh ở khu vực nuôi tôm hùm vì như thế sẽ dẫn đến cạnh tranh về ô xy, khiến tôm hùm thiếu ô xy, đặc biệt là vào ban đêm hay thời tiết bất thường theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, tôm thẻ chân trắng cũng là nguy cơ lây nhiễm bệnh cần lưu ý. “Nếu tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh thì phải xử lý triệt để trong hồ không được xả ra bên ngoài”, bà Hòa nói.

Quy hoạch nuôi tôm gắn với du lịch

Ông Lương Minh Sơn, Phó bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, cho biết những vùng biển ở các huyện ven biển Phú Yên có nhà cao tầng, đó là nhờ nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, trong đó có nghề nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, hiện các vùng nuôi này ô nhiễm nên đề nghị các ngành chức năng đề xuất giải pháp làm sao giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường vùng nuôi tôm hùm ở Phú Yên, quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản gắn với phát triển du lịch, vì những vùng nuôi này đều là danh lam, thắng cảnh quốc gia. Làm sao có cơ chế quản lý, có quy hoạch chi tiết cho ngành nuôi tôm hùm ở Phú Yên.

Đảo Bình Ba, Khánh Hòa là nơi từng thực hiện thành công mô hình nuôi tôm hùm kết hợp du lịch

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nâng cao năng suất tôm hùm nuôi thương phẩm

Các chế độ chăm sóc, quản lý, thiết kế lồng nuôi và chọn mật độ thả thích hợp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến vụ nuôi. Sau đây là một số lưu ý nhằm giúp tăng năng suất trong nuôi tôm hùm thương phẩm…

Lồng nuôi: 

Để tận dụng tối đa diện tích thì lồng nên có dạng hình khối hộp vuông, vì hình vuông có diện tích lớn nhất, đồng thời lưu thông nước ở từng vị trí đặt lồng nuôi không theo hướng dẫn nhất định. Tùy theo quy mô nuôi, điều kiện chăm sóc quản lý và nguyên vật liệu làm lồng mà sử dụng kích thước lồng khác nhau.

Tuy nhiên, lồng càng lớn khả năng lưu thông nước bên trong và ngoài lồng càng giảm, đồng thời năng suất tôm hùm nuôi lồng tỉ lệ nghịch với độ lớn của lồng. Người nuôi nên dùng loại lồng 16-20m2 là phù hợp với quy mô hộ gia đình và năng suất tôm hùm nuôi.

Làm lồng nuôi tôm hùm

Vị trí đặt lồng:

Nên đặt lồng nuôi ra vùng xa bờ để trao đổi nước tốt hơn. Độ sâu mức nước nơi đặt lồng tối thiểu khi triều thấp là 4m (đối với nuôi lồng găm), từ 4–8m (đối với nuôi lồng sắt) và hơn 8m (đối với lồng nổi). Đáy lồng cách đáy biển hơn 0,5m là tốt nhất. Nơi đặt lồng nuôi phải đảm bảo cách bờ hơn 1.000m. Nền đáy là cát hoặc cát pha bùn có lẫn san hô gạc nai và không bị ô nhiễm.

Môi trường nước vùng nuôi tôm hùm phải đảm bảo các chỉ tiêu: nhiệt độ từ 24-31 độ C; pH: 7,5–8,5; độ muối từ 30–35‰; ôxy hòa tan: 6,2–7,2mg/l.

Mật độ thả: 

Mật độ ương nuôi tôm hùm tùy thuộc vào kích cỡ của tôm giống. Cỡ giống tôm trắng: 30-40 con/m2 lồng; Cỡ giống 1,5-4,0g/con thả 25-30 con/m2 lồng; Cỡ giống 4-10g/con thả 15-20 con/m2 lồng; Cỡ giống 10-50g/con thả 10-15 con/m2 lồng; Cỡ giống 50-200g/con thả 7-10 con/m2 lồng; Cỡ giống hơn 200g/con trở lên thả 3–5 con/m2 lồng.

Khoảng cách giữa các lồng nuôi:

 Khoảng cách giữa các lồng nuôi cần bố trí phù hợp để đảm bảo sự lưu thông nước tốt. Đối với các vùng nuôi nhiều nên duy trì 30–60 lồng/ha mặt nước.

Thức ăn cho tôm: 

Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống bao gồm các loại động vật giáp xác (tôm, cua, ghẹ…), động vật thân mềm (sò lông, sò đá, ốc bươu vàng…), các loài cá tạp (cá sơn, cá liệt, cá mối, cá chuồn…). Trong đó, thức ăn là giáp xác đóng vai trò quyết định trong thành phần dinh dưỡng của tôm hùm nuôi vì loại thức ăn này có hàm lượng axit béo không no phức hợp và axit béo không no cao phân tử (chiếm 6,1%) cao vượt trội hơn so với thức ăn là cá và thân mềm. Tuy nhiên, nếu kết hợp ba loại thức ăn tươi là cá, giáp xác và thân mềm theo một tỉ lệ nhất định ở từng thời kỳ phát triển của tôm nuôi là một giải pháp tối ưu về giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế trong tôm hùm nuôi lồng. Công thức cho ăn: 1 phần giáp xác + 1 phần thân mềm + 2 phần cá, tôm sẽ có tốc độ sinh trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp. Đây là thức ăn kết hợp có hiệu quả cao nhất và tiết kiệm được chi phí thức ăn so với việc sử dụng các loại thức ăn khác.

Tôm hùm nuôi lồng

Quản lý và chăm sóc tôm:

 Đối với tôm cỡ ≥ 200g/con, cho ăn 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối, lượng cho ăn vào chiều tối chiếm 70% lượng thức ăn trong ngày. Thức ăn cho tôm có thể để nguyên con hoặc cắt nhỏ. Tùy loại thức ăn mà xác định lượng cho ăn hợp lý, khẩu phần ăn hàng ngày bằng khoảng 15-17% khối lượng tôm thả. Hàng ngày nên kiểm tra, theo dõi tình trạng sức khỏe, hoạt động của tôm và mức độ sử dụng thức ăn để có điều chỉnh hợp lý. Loại bỏ thức ăn thừa, vỏ lột xác; định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bít lỗ lưới. Đối với các lồng nuôi tôm hùm con, do có mắt lưới nhỏ nên thường bị sun, hà bám vì vậy cần vệ sinh định kỳ để tạo sự lưu thông nước tốt, hạn chế ô nhiễm. Khi tôm đạt cỡ 500-600g/con nên san thưa tôm với mật độ 4-5 con/m2 lồng. Sau 20-24 tháng nuôi có thể thu hoạch tôm hùm thương phẩm.

Trong quá trình nuôi nếu thấy chất đáy có màu nâu và sinh vật đáy chủ yếu là nhuyễn thể thì đó là dấu hiệu tốt. Nếu chất đáy có màu đen đậm, mùi khó chịu và sinh vật đáy chủ yếu là giun nhiều tơ thì đó là những dấu hiệu không tốt, không nên tiến hành vụ nuôi. 

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm

Ngày 21-7, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, Trưởng bộ môn nuôi thủy sản nước mặn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (Trường Đại học Nha Trang) cho biết, ông và các cộng sự đã sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Đó là kết quả của dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) và tôm hùm xanh (Panulirus homarus)”. Dự án thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011 – 2015, do Trường Đại học Nha Trang chủ trì và Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng làm chủ nhiệm.

Tôm hùm bông sử dụng thức ăn công nghiệp.

Theo Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, thức ăn dự án sản xuất có hàm lượng protein chiếm 55-56%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn (FCR) 4,5-4,6 đối với tôm hùm bông giai đoạn giống và thương phẩm; protein 52-53%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn là 4,3-4,4 đối với tôm hùm xanh giống và thương phẩm. Qua quá trình nuôi thử nghiệm tôm hùm bằng thức ăn công nghiệp cho thấy tôm hùm sử dụng thức ăn tốt, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp, tỷ lệ sống cao; các chỉ số đều tốt hơn so với thức ăn truyền thống (cá tạp) đang được sử dụng hiện nay. Thức ăn công nghiệp đã được các hộ nuôi tôm hùm Khánh Hòa cũng như một số tỉnh Nam Trung Bộ sử dụng và đánh giá cao.

Việc sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm của dự án sẽ mở ra triển vọng sử dụng thức ăn công nghiệp cho tôm hùm thay thế nguồn thức ăn cá tạp, từ đó, góp phần phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững tại Việt Nam.

Quá trình sản xuất thức ăn viên cho tôm hùm

Dự án trên kế thừa kết quả đã đạt được từ đề tài “Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng, công thức và công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông và tôm hùm xanh” được thực hiện trước đó.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật khai thác và vận chuyển tôm hùm giống.

Tôm hùm hiện chưa thể sản xuất giống nhân tạo nên việc cung cấp con giống phụ thuộc hoàn toàn vào đánh bắt tự nhiên. Để khai thác và vận chuyển tôm có hiệu quả, cần thực hiện đúng kỹ thuật.

Kỹ thuật khai thác và vận chuyển tôm hùm giống

Khai thác bằng lưới:

Ngư cụ khai thác là lưới trủ: Mắt lưới có kích cỡ 5mm (2a =5mm). Kích thước lưới phụ thuộc vào quy mô khai thác. Ðộ dài lưới dao động khoảng 100 – 150m, độ cao 4 – 6m.

Các hoạt động khai thác được tiến hành vào ban đêm .Sử dụng ánh sáng đèn neon có cường độ khoảng 1000 – 2000W.

Lưới được giăng xuống biển bằng thuyền vào khoảng 8 giờ tối, sau 4 – 5 tiếng (vào khoảng 12 – giờ khuya) lưới được kéo lên thuyền lần thứ nhất để thu gom những con tôm hùm giống dính lưới. Ngay sau đó, lưới được giăng tiếp xuống biển, vào khoảng 4 giờ sáng lưới được kéo lên lần 2. Một đêm khai thác thường kết thúc vào khoảng 5 giờ sáng của ngày hôm sau.

Những tôm hùm giống mắc lưới được gỡ ra rất nhanh và được lưu giữ trong các thùng nhựa tròn có thể tích 4 lít, khoảng 100-150 con/thùng và máy sục khí. Kích cỡ tôm giống thu được khá đồng đều, chúng trong suốt và chiều dài giáp đầu ngực chỉ dao động từ 7 – 8mm/con và trọng lượng từ 0,25 – 0,35 g/con.

Khi thuyền cập bến, tôm hùm giống được chuyển sang các thùng xốp với nước biển sạch. Kích thước của thùng là 30 x 50 x 25 cm, dưới đáy rải một lớp cát mỏng 5 -7mm. Mật độ lưu giữ khoảng 200 – 300 con/thùng và có sục khí liên tục. 

Tôm hùm giống mới nở

Khai thác bằng bẫy:

Loại bẫy được làm bằng lưới thường có chiều dài 60cm và đừơng kính khoảng 40cm. Riêng san hô được sử dụng làm bẫy có nhiều kích cỡ khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại san hô. Ða số san hô tảng được chọn là những khối có trọng lượng khoảng 2-5kg, các lỗ trên bền mặt được khoan cách nhau khoảng 10 – 15cm, kích thước mỗi lỗ từ 2 – 2,5cm. Ðối với bẫy được làm bằng những gỗ cây cũng được khoan lỗ tương tự như đối với san hô.

Các loại bẫy được thả xuống nước ở độ sâu khoảng 4-5 m vào tháng 11 hàng năm, nghĩa là vào thời gian xuất hiện tôm hùm giống. Sau khoảng 3-5 ngày, khi bẫy đã ổn định ngư dân sẽ thu bắt tôm hùm hàng ngày vào các buổi sáng bằng cách giũ bẫy vào trong vợt lưới hoặc bắt chúng ra bằng tay từ các lỗ đã khoan. Kích cỡ con giống thu được khoảng 7,5 – 10 mm CL/con và trọng lượng xấp xỉ  0,3 – 1 g/con. Vào cuối tháng 5 bẫy cũng được thu lên bờ và cất giữ ở nơi thoáng mát để sử dụng cho mùa khai thác năm sau.

Với cách khai thác này, trong một diện tích thả bẫy khoảng 50 x 100m có thể thu gom được khoảng 50 – 200 con/ngày vào những tháng đỉnh cao như tháng 1 hoặc tháng 2 trong năm. Và tôm giống cũng được giữ trong các thùng xốp hoặc xô nhựa với nước biển có sục khí.

 Khai thác bằng lặn bắt:

Ðây là loại hình khai thác truyền thống của ngư dân miền Trung. Năm 1998 trở về trước, tôm hùm giống được khai thác chỉ bằng lặn bắt. Hình thức này đảm bảo con giống khỏe, với kích cỡ lớn từ 12 – 15 mm CL/con và trọng lượng 7 – 9 g/con. Song số lượng con giống được khai thác mỗi ngày tối đa chỉ được 100 – 150 con/thuyền/10 ngày/5 người vào mùa khai thác chính trong năm. Vào các tháng sau số lượng khai thác chỉ đạt 3 – 10% so với vụ chính.

Ngư dân khai thác và bán tôm hùm giống

Kỹ thuật vận chuyển tôm hùm giống:

Tôm hùm giống đã được vận chuyển bằng nhiều phương pháp khác nhau từ các vùng khai thác đến các vùng nuôi dọc ven biển miền Trung. Từ những số liệu điều tra cho thấy các hình thức vận chuyển đều đảm bảo tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt khoảng trên 80%

Phương pháp vận chuyển khô:

Thường được sử dụng để vận chuyển con giống lớn khoảng 30 – 100 g/con. Dụng cụ vận chuyển là các thàng xốp có kích thước 30 x 40 x 25 cm; hoặc 60 x 70 x 45 cm tùy thuộc vào số lượng giống cần vận chuyển. Mật độ tôm vận chuyển khoảng 150 – 300 con/thùng xốp. Thời gian vận chuyển khoảng 3 – 7 giờ với nhiệt độ được duy trì 21 – 22 0C bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi ni-lon kín. Tôm được giữ độ ẩm của nước biển bằng rong hoặc bằng khăn vải dày và chuyên chở bằng xe máy hoặc xe ôtô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt 90 – 95%.

Phương pháp vận chuyển nước

Ðược sử dụng để vận chuyển con giống nhỏ, từ post-puerulus (tôm trắng) đến juveniles (tôm bò cạp). Trọng lượng của cỡ giống này chỉ xấp xỉ 0,25 – 1 g/con, và rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của môi trường sống.

Dụng cụ vận chuyển cũng là các thùng xốp có kích cỡ 30 x 50 x 25 cm hoặc 45 x 60 x 35 cm. Dưới đáy thùng được phủ một lớp rong câu tươi hoặc một lớp cát dày 0,5 – 1cm. Ðổ nước biển sạch vào thùng xốp cao ngập cát hoặc rong khoảng 5 -7cm và sục khí trong suốt thời gian vận chuyển. Nhiệt độ nước được duy trì 21 – 220C với thời gian vận chuyển từ 5 – 15 giờ; và khoảng 23 – 25 0C với thời gian vận chuyển 3 – 5 giờ bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi ni – lon kín.

Tôm giống được đưa vào thùng xốp với mật độ 300 – 400 con/thùng nhỏ hoặc 700-1000 con/thùng lớn. Song hầu hết các phương tiện vận chuyển bằng xe máy thường sử dụng các thùng nhỏ vì tính gọn, nhẹ và dễ dàng xử lý trên đường vận chuyển. Thùng lớn được sử dụng khi chuyển giống với số lượng lớn bằng xe ô tô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển thường đạt 95 – 97%.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam