Lợi ích cá rô phi trong ao tôm

Môi trường vùng nuôi xuống cấp sau nhiều năm nuôi liên tục, quy trình nuôi thâm canh tăng mạnh thì ít nhất giải pháp này sẽ góp phần giảm bớt lượng thuốc, hóa chất đưa xuống ao nuôi, cá rô phi còn giúp giảm áp lực khí độc dưới đáy ao nuôi tôm, như các nhà khoa học nhận định: “cá rô phi là máy lọc nước sinh học” cho ao nuôi tôm.

Ông Nguyễn Văn Nhiệm – Chủ tịch Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh tỉnh Sóc Trăng cho biết: “Môi trường xuống cấp nghiêm trọng, ở đây nhiều bà con trong hiệp hội cũng đã nuôi cá rô phi ghép trong ao nuôi, lấy nước nuôi cá rô phi để nuôi tôm thời gian vừa qua bà con làm rất hiệu quả. Tuy nhiên đây là biện pháp nuôi để ổn định môi trường, hạn chế thuốc hóa chất nhất là môi trường nước trong ao rất tốt, ít tốn chi phí để xử lý”.

Khi môi trường vùng nuôi thâm canh, tăng vụ với quy mô hơn 30.000 ha, canh tác mang tính chuyên canh nhiều năm liên tục đã gây ra tình trạng suy thóai, môi trường ao nuôi thì biện pháp nuôi cá luân canh, nuôi ghép cá rô phi trong ao là giải pháp khắc phục môi trường ao nuôi hữu hiệu trong giai đoạn này.

KS Trần Hoàng Dũng – Phó Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trần Đề cho biết: “Ngoài con cá rô phi thì cá kèo, cá chẻm,… có thể nuôi để rồi sau đó lấy nước để nuôi tôm.

Chúng ta có thể nuôi một vụ cá kèo, cá chẻm sau vài tháng thì lấy nước vào ao nuôi rất hiệu quả. Tuy nhiên cá chẻm chi phí nuôi rất cao nên tốt nhất là nuôi cá rô phi để lấy nước nuôi tôm là tốt nhất, dễ làm nhất”.

Thạc sĩ Lâm Ánh Tiên – Phó Trưởng Phòng Kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng cho biết thêm: “Các nhà khoa học cũng đã chứng minh được hình thức nuôi cá phi trong ao, nuôi lồng, nuôi cá lấy nước nuôi tôm thì lợi ích khá lớn vì nguồn nước này có chứa các loại vi khuẩn có lợi.

Nuôi cá rô phi trong ao lắng là một phương pháp vệ sinh nước trước khi nuôi tôm, giảm bớt tối đa sự phát sinh mầm bệnh xảy ra trong ao tôm. Theo thống kê thì ao nuôi cá rô phi có màu nước tốt, ít tảo tàn, môi trường ổn định. Cá rô phi có khả năng làm xanh nước, giảm sự phát triển vi sinh vật. Nhiều nhà khoa học cho rằng lấy nước nuôi cá rô phi phục vụ nuôi tôm có lợi ích khá lớn, vì nguồn nước này chứa vi khuẩn có lợi. Hơn nữa, cá rô phi còn sử dụng xác tôm, cá, động vật thủy sản chết, từ nguồn nước lấy vào hệ thống ao lắng, nhằm hạn chế sự phát tán của sinh vật gây bệnh từ ngoài vào hệ thống nuôi. Như vậy, nuôi cá rô phi trong ao lắng để có nguồn nước chất lượng tốt, dùng trong ao nuôi tôm hạn chế tối đa sự phát triển mầm bệnh.

Nghiên cứu của Đại học Arizona (Mỹ) đã xác định cá rô phi giúp thiết lập hệ sinh thái vi sinh trong nước với các quần thể tảo và vi khuẩn cân bằng. Trong một hệ sinh thái vi sinh cân bằng như vậy, vi khuẩn gây bệnh ít có cơ hội phát triển đến đủ mật độ có thể gây bệnh cho tôm. Vì vậy, nuôi cá rô phi trong ao lắng trước khi bơm vào ao nuôi có thể đem lại tác dụng phòng bệnh tích cực, giúp khống chế bệnh hoại tử gan tụy cấp.

Nuôi ghép cá phi sẽ làm giảm các độc tố đáy ao tôm, như khí NH3 gây ô nhiễm nền đáy ao. Mặt khác khi lấy nguồn nước này thì các chất lơ lững trong ao nuôi rất hạn chế, có lợi cho nuôi tôm”.

Lợi ích từ quy trình luân canh để lấy nước từ ao nuôi cá sang nuôi tôm, hình thức nuôi ghép, nuôi đăng quầng… đã khẳng định được tính hiệu quả, song hình thức này cũng chỉ phù hợp với mật độ thấp, còn đối với quy trình nuôi tôm thâm canh hiệu quả nhất cũng chỉ ở mật độ 30 – 40 con/m2 là thích hợp.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, đặc biệt là hệ thống thủy lợi vừa giữ vai trò cấp nước vừa thoát nước như hiện nay thì xu hướng nuôi tôm an toàn sinh học là hướng phát triển trước mắt đối với vùng nuôi tôm giai đoạn hiện nay.

Những ao lắng được nuôi cá rô phi, những đăng quần giữa ao nuôi, nuôi ghép cá rô phi trong ao tôm xuất hiện ngày càng nhiều là một tín hiệu đáng phấn khởi trước xu thế nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh tăng nhanh như hiện nay.

Nguồn: Tomvang được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Tổng hợp giá tôm trên thị trường trong nước tháng 10/2017

Tháng 10/2017, đang chính vụ xuất khẩu tôm, nguồn tôm nguyên liệu rất hút kéo theo giá tôm tăng mạnh. Dưới đây là chi tiết giá tôm các loại trong tháng :

Giá tôm nhìn chung tăng cao trong tháng vừa rồi, trung bình tăng khoảng 10% so với 2 tháng trước và tăng 15% so với cùng ký năm ngoái. Dự báo trong tháng tiếp theo giá tôm vẫn có thể duy trì ở mức này.

Tuy nhiên, hiện tại là là mùa tôm nghịch vụ, lượng mưa lớn, thời tiết thất thường nên bà con nên cẩn trọng trong việc thả nuôi. Giá tôm tăng cao, kích thích người dân xuống giống nhưng lượng mưa lớn làm biến động môi trường, khiến người nuôi tôm phải hết sức chú ý đến khâu chăm sóc. Đặc biệt, những vùng có điều kiện bất lợi, thường xuyên mưa lũ, bà con nên hạn chế thả tôm, đợi đến chính vụ mới bắt đầu thả. Đối với nuôi quảng canh cần lưu ý, khi độ mặn dưới 7‰ bà con nên dừng thả tôm mà tập trung chăm sóc đàn tôm đang có, mặt khác cũng chú ý đến các yếu tố môi trường dễ biến động trong mùa mưa như pH, độ kiềm, rong tảo. Còn đối với nuôi thâm canh và siêu thâm canh, bà con cũng nên thả với mật độ thưa để dễ chăm sóc và giảm rủi ro.

Hiện nay giá tôm tăng do nguồn cung cho thị trường dịp lễ sắp tới

Hiện nay, thị trường EU và Mỹ đang nhập mạnh mặt hàng tôm để chuẩn bị cho dịp lễ, tết cuối năm dẫn đến giá tôm tăng mạnh. Tuy nhiên, thông thường chỉ đến khoảng cuối tháng 11 nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường này sẽ giảm mạnh và giá tôm khó duy trì. Chính vì vậy, người nuôi tôm cần cân nhắc xuống giống vụ mới khi điều kiện nuôi hiện nay không thật sự thuận lợi và một vụ tôm kéo dài ít nhất 2 tháng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi tôm trên cạn: Mô hình tương lai

Khoa học công nghệ ngày càng phát triển giúp chúng ta phát minh ra những mô hình mới hiện đại và không tưởng. Nuôi tôm trên cạn hứa hẹn là một là một mô hình tương lai đầy hứa hẹn thay đổi diện mạo ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu vì tính bền vững và hiệu quả.

Một số nước trên thế giới đã thực hiện mô hình này và có những kết quả tốt như: công ty Blue Oasis, trang trại Karlanea Brown…của Mỹ, Công ty Camanor Produtos Marinhos Ltda của Brazil

Nuôi tôm trên cạn tại Mỹ

Trại nuôi tôm trong nhà của Blue Oasis có hệ thống kiểm soát nhiệt độ chặt chẽ

Bắt đầu nuôi tôm siêu sạch trên cạn cách đây 5 năm, đến nay, Công ty Blue Oasis đã tạo dựng tên tuổi trên thị trường tôm Las Vegas bằng những sản phẩm sạch và bền vững nhất.

Trại nuôi tôm của Blue Oasis Pure Shrimp được xây dựng trên mảnh đất khô cằn giữa hoang mạc Mojave, cách Las Vegas 30 dặm. Mỗi lứa, trại nuôi hàng ngàn tôm thẻ giống Thái Bình Dương bằng bể chứa nước mặn trong nhà kín có hệ thống kiểm soát nhiệt độ hiện đại. Nhiều người từng nghĩ, mô hình này quá viển vông và mạo hiểm vì Majave không phải là mảnh đất thích hợp để nuôi trồng. Tuy nhiên, Kevin McManus, Giám đốc diều hành Blue Oasis khẳng định trại nuôi tôm sẽ thành công nhờ công nghệ nuôi hiện đại, độc đáo. Đối tượng khách hàng mà Công ty nhắm tới là các chuỗi nhà hàng, khách sạn hạng sang ở Las Vegas. Với khách hàng này, giá cả không phải là điều tiên quyết, mà tôm phải đảm bảo 3 tiêu chí: bền vững, sinh thái và nội địa.

Nói về quy trình, Kevin chia sẻ: Trại chỉ nuôi tôm trong 120 ngày nhưng luôn kiểm soát chặt chẽ nhiệt độ 800F. Tôm được nuôi bằng hỗn hợp tảo biển và đạm thủy sản, tối đa 12 cữ ăn/ngày; năng suất trung bình 450.000 pound/năm. Blue Oasis tái sử dụng toàn bộ nguồn nước trong quá trình nuôi để tiết kiệm nước tối đa. Công ty sẽ mở rộng trại nuôi tôm ở New York, Dallas, Chicago và những thành phố chính ở Mỹ.

Tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương là đối tượng nuôi thích hợp nhất

Nhân viên kỹ thuật loại bỏ váng bẩn trên mặt bể nuôi

Cho tôm ăn

Giám đốc điều hành Kevin McManus đang kiểm tra nồng độ ôxy hòa tan trong nước

Tôm trưởng thành tại Blue Oasis, thịt săn chắc, thơm và ngọt

Tuy nhiên, hướng tiếp cận nuôi tôm bền vững như mô hình của Brown cũng có hạn chế: hệ thống tái tuần hoàn thường phải sử dụng bột cá làm thức ăn. Nguyên liệu chế biến bột cá chủ yếu từ các loài cá nhỏ, sống theo đàn như cá mòi, cá cơm ngoài khơi biển Thái Bình Dương thuộc Nam Mỹ – vốn được khai thác bằng lưới kéo hoặc các ngư cụ mang tính hủy diệt. Như vậy, đây là nguồn thức ăn nuôi tôm không bền vững. Và để khắc phục tình trạng này, các trại nuôi tôm tại đây không ngừng nghiên cứu để tìm ra nguồn thức ăn thay thế có nguồn gốc thực vật như tảo hoặc đậu nành, côn trùng.

Nuôi tôm trên cạn tại Brazil

Mô hình nuôi tôm trên cạn mật độ cao có thể tái chế nước, không sử dụng kháng sinh của Công ty Camanor Produtos Marinhos Ltda, Brazil được nhiều chuyên gia đánh giá cao và khuyến cáo các quốc gia có điều kiện tự nhiên tương tự nghiên cứu, học hỏi.

Đóng tại Barra – thủ phủ của nghề nuôi tôm Brazil – Công ty Camanor trong quá trình phát triển luôn phải loay hoay nghiên cứu, ứng dụng nhiều mô hình nuôi để đối phó với vấn đề sản xuất tôm không hiệu quả, tôm chết hàng loạt. Năm 2013, Công ty cho ra đời một công nghệ nuôi tôm AquaScience.

Công nghệ AquaScience được phát triển dựa trên sự tích hợp nhiều hệ thống và ý tưởng như sản xuất tôm nước mặn, sản xuất cá rô phi phụ phẩm, tái chế, khử trùng và tái sử dụng nước. Tất cả chúng được kết nối trong một hệ thống nuôi trồng, trong khi vẫn tồn tại độc lập. Với nó, bạn có thể nuôi tôm trên cạn mật độ cao, tái sử dụng nước nhiều lần trong khi vẫn hạn chế được tác hại tới môi trường cũng như việc sử dụng chất hóa học và kháng sinh.

Hệ thống AquaScience gồm khoảng 4.000m2 mặt nước được che bằng lớp lót nhựa PAED, một cống thoát chính, không có sự trao đổi nước. Việc tái chế và tái sử dụng nước diễn ra giữa các chu kỳ nuôi, sử dụng công nghệ biofloc. Việc xử lý chất thải hữu cơ như thức ăn thừa, phân… được thực hiện thông qua quá trình phân rã và phân hủy bởi vi khuẩn. Hệ thống này tái sinh hỗn hợp nitrogen bằng các quá trình sinh học nitrat hóa và khử nitơ, đồng thời tái chế hỗn hợp phốtpho bằng vi khuẩn và tảo.

Điểm đặc biệt của hệ thống này là các chỉ số nước đều rất ổn định. “Sự biến động của ôxy hòa tan chỉ ở mức 0,5mg/L và độ pH là 0,3 trong hơn 24 giờ. Điều này cho phép ao nuôi tránh các tác nhân gây bệnh. Nhiệt độ ao được giữ ở mức 27-280C trong bóng mát” – Werner Jost – Giám đốc điều hành Camanor – nói.

Theo ông Jost, để sản xuất một kilôgam tôm, nếu trang trại nuôi tôm kiểu cũ cần 19.000 lít nước thì hệ thống mới chỉ cần 240 lít. “Trong năm 2013, chúng tôi sản xuất 10 tấn/ha, mỗi con tôm nặng 12g, tỷ lệ sống sót là 90%. Mật độ nuôi là 100 tôm giống/m2. Đến tháng 2/2015, chúng tôi đã sản xuất được 48,5 tấn/ha mỗi chu kỳ nuôi, mỗi con tôm nặng 22g. Mật độ nuôi là 230 con/m2 và tỷ lệ sống sót 95%” – Jost nói. Năm 2016, năng suất tôm đã đạt trên 50 tấn/ha.

Werner Jost cũng cho biết thêm: “Với công nghệ mới này, mỗi năm chúng tôi có thể sản xuất được 4 vụ, nuôi trồng được 300 con/m2”. Trong mô hình này, nước thoát ra từ ao tôm sẽ được xử lý khử nitơ để sau đó đưa vào ao nuôi cá rô phi. Khử nitơ và phốtpho là hai vấn đề khó giải quyết nhất trong hệ thống nuôi tôm; nhưng với AquaScience, kể cả tới lần nước thứ năm sau tái chế, nồng độ nitơ và phốtpho vẫn được bảo đảm. Hơn nữa, mô hình này còn giúp người nuôi quản lý các loại virus gây bệnh cho tôm một cách dễ dàng hơn, tránh được những thiệt hại đáng tiếc.

Với công nghệ này, năm 2016, Camanor đã được Hiệp hội Nuôi trồng thủy sản thế giới trao giải thưởng Người lãnh đạo và đổi mới sáng tạo nghề nuôi trồng thủy sản thế giới.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Công nghệ ozone cho nuôi tôm

Công nghệ ozone từ lâu đã được sử dụng trong nuôi tôm với những tác dụng hữu ích trong sản xuất giống, nuôi vỗ bố mẹ, thuần dưỡng tôm giống, nuôi tôm thương phẩm…

Sử dụng công nghệ ozone trong sản xuất tôm giống

Lợi ích

Ozone là chất khí có công thức hóa học là O3 có khả năng ôxy hóa cực mạnh, tốc độ diệt khuẩn cao gấp 3.100 lần so với Clo. Nhờ đó, mà nó có thể phá vỡ màng tế bào và phá hủy enzyme của vi sinh vật. Khả năng khử trùng của O3 cũng rất rộng, chúng có thể xử lý cả vi khuẩn, virus, nấm men, nấm mốc và các bào tử. Hơn nữa, O3 lại là chất không bền vững, phân hủy rất nhanh trong không khí và nước để tạo thành ôxy phân tử nên tôm cá ít bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, O3 còn có khả năng làm vô hiệu hóa các chất vô cơ và các kim loại nặng trong nước như sắt, mangan… Do đó, O3 được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản với những hiệu quả chính như:

• Tiêu diệt vi khuẩn, loại bỏ virus gây bệnh, khử màu các chất vô cơ và hữu cơ;

• Khử mùi hóa chất có trong nước, mùi chất hữu cơ lên men hôi thối, mùi tanh của động vật thủy sản

• Tăng nhanh môi trường ôxy hóa giúp môi trường nước không còn ô nhiễm

• Tăng tốc độ sinh trưởng, diệt mầm bệnh, giảm chất hữu cơ trong nước

• Tăng hiệu suất sử dụng thức ăn của tôm nuôi

• Sát khuẩn; tiêu độc; làm sạch; điều chỉnh độ pH

• Hạn chế thay nước, giúp tránh rủi ro do mầm bệnh từ ngoài đưa vào

• Giúp giảm lượng khí NH3, H2S dưới đáy ao và gia tăng lượng khí ôxy hòa tan

• Giúp giảm thiểu sử dụng hóa chất hay các chế phẩm khác

Việc sử dụng khí O3 trong nuôi trồng thủy sản đã được sử dụng phổ biến tại Mỹ, Hàn Quốc và Ấn Độ… Tuy nhiên, công nghệ O3 chưa được áp dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam bởi công nghệ này có giá bán rất đắt (Một máy ozone có công suất 3 – 4g O3/giờ (xử lý 3 m3 nước/giờ) lắp ráp tại Mỹ để dùng cho một trại tôm giống có quy mô trung bình 10 – 15 bể, có giá bán khoảng 10.000 USD, loại công suất 5 g O3/giờ là 12.000 USD.

Các ứng dụng trên tôm

Sản xuất tôm giống

O3 hoàn toàn có thể thay thế Chlorine dùng để khử trùng trại giống và xử lý nước trong các bể ương nuôi. Theo Thạch Thanh và cộng sự (2003), ozone hoàn toàn có thể thay thế Chlorine trong xử lý nước  trước khi thả ương ấu trùng. Tuy nhiên, cần phải được lắng lọc kỹ càng trước khi xử lý. Nếu nước biển có độ đục cao thì có thể kết hợp O3 với Chlorine liều nhẹ (7 – 15 ppm) để làm trong nước nhanh và khử trùng hiệu quả. Sử dụng O3 xử lý nước có thể thay thế hóa chất, kháng sinh, hạn chế dịch bệnh, chất lượng nước được cải thiện rõ rệt, ấu trùng tôm cá phát triển nhanh, đồng đều, nâng cao chất lượng con giống.

Ozone còn ứng dụng xử lý nước bể đang ương ấu trùng bằng cách, kết hợp Ozone với bộ tách đạm trong hệ thống tuần hoàn và xử lý định kỳ 1 – 2 ngày/lần trực tiếp vào bể ương ấu trùng. Mục đích duy trì chất lượng nước nhờ khả năng ôxy hóa các chất thải của tôm và thức ăn dư thừa trong bể ương đồng thời hạn chế sự phát triển của mầm bệnh. Ngoài việc khử trùng nước, ozone cũng được dùng để khử trùng không gian trong trại giúp hạn chế lây lan vi khuẩn gây bệnh trong không khí trên bề mặt bể ương nuôi.

Phương pháp xử lý nước cho các trại sản xuất tôm, cá giống bằng công nghệ ozone đã được áp dụng nhiều nơi trên thế giới. Tại nước ta, Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III đã áp dụng thành công công nghệ ozone xử lý nguồn nước đầu vào và công nghệ sinh học trong suốt quá trình sản xuất tôm giống cho kết quả khả quan, tôm post to và khỏe hơn so với phương pháp truyền thống. Thực tế thử nghiệm tại Đại học Cần Thơ cũng cho thấy các chỉ tiêu chất lượng nước trong sản xuất tôm giống được cải thiện rõ rệt. Ấu trùng tôm biến thái, chuyển giai đoạn đồng loạt hơn.

Nuôi vỗ tôm mẹ

Trong nuôi tôm, cá bố mẹ, O3 xử lý nước giúp hạn chế được dịch bệnh do virus, vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên, ứng dụng ozone trong nuôi vỗ tôm mẹ đến nay vẫn chưa được phổ biến mà mới chỉ dừng ở các thử nghiệm. Tại trại sản xuất tôm giống thực nghiệm của Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ bước đầu cho thấy trên sử dụng O3 để xử lý các bệnh trên tôm bố mẹ như ký sinh trùng, mòn đuôi, hoại tử, đen mang so với sử dụng hóa chất (formaline…) có kết quả tốt hơn. Tôm mẹ nuôi vỗ có xử lý ozone cũng có biểu hiện bên ngoài rất tốt so với tôm nuôi vỗ thông thường.

Nuôi tôm thương phẩm

Đối với nuôi tôm thương phẩm, O3 làm tăng lượng ôxy hòa tan, phân hủy độc tố trong nước (NH3, H2S) và hạn chế tối đa việc thay nước. Có thể đưa khí O3 vào đường hút khí của máy thổi khí nhằm tạo ra bọt khí O3 nhỏ để tăng diện tích tiếp xúc và thời gian lơ lửng trong nước giúp sát trùng được hiệu quả. Tuy nhiên, do giá thành máy cao, việc ứng dụng ozone chỉ có thể thực hiện trong hình thức nuôi tôm công nghiệp. Xử lý nước ao nuôi tôm thịt có thể tiến hành một cách có hiệu quả bằng cách đưa khí O3 vào đường hút khí của máy thổi Ventury dùng trong ao tôm (còn gọi là máy ôxy nhủi hay máy hỏa tiễn).

Nguyên tắc chung là phải tạo bọt khí ozone càng nhỏ càng tốt để tăng hiệu quả tiếp xúc và lơ lửng trong nước. Một máy ozone 4 g/giờ được thiết kế để sục cho 2.500 m3 nước ao nuôi tôm công nghiệp. Cho đến nay, vẫn chưa có cứ liệu khoa học đầy đủ cho việc ứng dụng ozone trong hệ thống nuôi tôm thâm canh.

Tại Thái Lan, một số thử nghiệm ban đầu cho thấy khi sục ozone vào ao nuôi tôm biển ở mức 0,1 – 2 ppm trong khoảng thời gian 18 giờ/ngày, sẽ làm giảm tổng số vi khuẩn, NO2- và NO3- trong nước ao và tăng trọng của tôm nuôi tỷ lệ thuận với liều lượng ozone sục vào ao.

Tại nước ta, Công ty Cổ phần Ứng dụng và Phát triển công nghệ mới ADNT đã triển khai mô hình thí nghiệm nuôi tôm càng xanh thương phẩm có ứng dụng công nghệ ozone tại Nam Định. Với diện tích ao nuôi 750 m2, mật độ thả 40 con/m2, sử dụng công nghệ O3 xử lý nước trước và trong quá trình nuôi. Kết quả thu được: Tỷ lệ tôm sống cao, sau 3,5 tháng tỷ lệ tôm sống đạt tới 70%; Sản lượng ước tính đạt 550 kg tương đương với năng suất 7.000 kg/ha; Chi phí cho con giống, thức ăn, điện vào khoảng 16 triệu đồng với năng suất nêu trên lợi nhuận đạt được 17 triệu đồng/750 m2. Đây là năng suất tôm cao chưa từng có từ trước đến nay tại địa bàn tỉnh Nam Định cũng như các địa phương khác trong cả nước.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Đánh giá và theo dõi sức khỏe tôm nuôi

Việc theo dõi sức khỏe của tôm rất quan trọng và cần được thực hiện liên tục trong suốt thời gian nuôi. Nhờ đó có thể phát hiện sớm các dấu hiệu bất ổn và kịp thời xử lý.

Căn cứ theo số ngày nuôi tính từ khi thả giống và dựa vào kinh nghiệm, người nuôi tôm nên dự báo các thời điểm tôm có thể bị sự cố để quan sát, theo dõi kỹ hơn từ nhiều ngày trước đó. Thông thường, sức khỏe của tôm nuôi có thể được đánh giá dựa trên quan sát trực tiếp, gián tiếp thông qua lượng thức ăn tôm sử dụng và gửi mẫu xét nghiệm. Giải pháp gửi mẫu xét nghiệm cho kết quả chính xác nhưng thường mất thời gian và không tiện lợi do vùng nuôi thường ở xa cơ quan thú y. Vì thế, cần dựa vào các thông tin thu thập được ngay tại ao nuôi bao gồm:

Tỉ lệ sống

Tỉ lệ sống giảm dần theo vụ nuôi và phụ thuộc vào chất lượng con giống, điều kiện môi trường và khả năng chăm sóc. Có thể ước tỉ lệ sống qua số lượng tôm vào nhá hoặc chính xác hơn dùng chài kiểm tra khi tôm đã lớn. Tỉ lệ sống của tôm sau 30, 60, 90 và 120 ngày nuôi ở mức 95, 90, 85 và 80% được coi như đạt. Nếu phát hiện tôm chết rải rác trong nhá hoặc trên đáy thì nên lặn kiểm tra ngay.  Trong trường hợp tỉ lệ rớt đáy đã ở mức 25 – 30% thì nên thu hoạch gấp để giảm thiểu thiệt hại.

Tốc độ tăng trưởng

Tôm nuôi tăng trưởng tốt là dấu hiệu khả quan về sức khỏe. Thông thường sau 30, 60 và 90 ngày nuôi kích cỡ phải đạt 500, 80 và 60 con/kg. Tốc độ tăng trưởng kém có thể do điều kiện nuôi không tốt, tôm bị bệnh còi hoặc chất lượng con giống không đảm bảo.

Hoạt động bắt mồi

Tôm bắt mồi tốt, lượng thức ăn tăng đều đặn theo thời gian nuôi là dấu hiệu khả quan. Nếu tôm đột ngột bỏ ăn mà không phải đang vào thời gian lột xác thì cần phải kiểm tra lại điều kiện môi trường ao, kết hợp với lặn kiểm tra đáy và bắt tôm để quan sát thật kỹ. Trong nhiều trường hợp, khi môi trường ao nuôi được xử lý, tốt trở lại tôm sẽ bắt mồi bình thường.

Hoạt động bơi lội

Tôm mạnh khỏe luôn có phản xạ tốt và lẩn tránh nhanh khi có người đến gần. Tôm yếu hoặc bị bệnh thường dạt bờ, nổi đầu, bơi lờ đờ hoặc xoắn vặn theo hình lò xo. Trong những trường hợp thiếu thức ăn hoặc nền đáy ao bị ô nhiễm, tôm có thể kéo đàn bơi vòng quanh ao.

Tình trạng của đường ruột, tuyến gan tụy và phân tôm.

Tuyến gan tụy của tôm nằm ở phần đầu ngực, có thể quan sát dễ dàng. Tôm khỏe có đường ruột đầy thức ăn, tuyến gan tụy có màu nâu sáng, kích thước bình thường. Phân tôm mạnh khỏe sẽ có màu của thức ăn. Phân tôm có màu khác hoặc nhớt là dấu hiệu bất ổn. Khi thấy phân tôm của một vài con có màu đỏ, thường là trong ao đã có tôm chết và bị những con này ăn.

Các dấu hiệu tôm bị bệnh

Một số dấu hiệu như: thay đổi màu sắc, vết tổn thương trên cơ thể hoặc biến đổi hình dạng. Các cơ quan cần quan sát là mang tôm, phần giáp đầu ngực, các phụ bộ và đuôi.

Các thời điểm cần tập trung quan sát tôm là sáng sớm, khi kiểm tra nhá cho tôm ăn, khoảng 1 – 2 giờ sáng, trước và sau khi thay nước hoặc can thiệp vào môi trường nuôi, khi thời tiết thay đổi đột ngột. Khi thấy các biểu hiện bất thường như tôm chậm bắt mồi hoặc bỏ ăn, rớt trong nhá, dạt bờ, nổi đầu … cần thu mẫu kiểm tra xem cơ thể bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc, đường ruột đứt đoạn hoặc rỗng, tuyến gan tụy có màu sắc hình dạng không bình thường. Tiếp theo đối chiếu với mô tả triệu chứng các loại bệnh thường gặp để phán đoán và tham khảo hướng giải quyết. Liên hệ ngay với cán bộ kỹ thuật hoặc cơ quan quản lý dịch bệnh thủy sản tại địa phương để được tư vấn thêm.

Nguồn: ‘Kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả và bền vững’ của Skretting 

Nuôi tôm công nghệ cao lót bạt, lãi 2 tỷ đồng/năm

Từ khi có chủ trương của nhà nước cho phép chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm, cũng như nhiều nông dân khác trong vùng, năm 2007 lão nông Nguyễn Văn Gìn ở phường Tân Xuyên, TP Cà Mau cải tạo 1,2ha đất nuôi tôm sú theo hình thức quảng canh.

Sau khi đi tham quan, học hỏi mô hình nuôi tôm công nghệ cao ở các tỉnh bạn và Thái Lan, ông Gìn quyết tâm đầu tư nuôi tôm theo hình thức công nghệ cao sử dụng nhà lưới, lót bạt đáy ao (hay còn gọi nuôi tôm trên bạt).

Nuôi tôm công nghệ cao đáy ao có lót bạt

Ông Gìn chia sẻ, giữa năm 2016, ông đầu tư hơn 1 tỷ đồng cải tạo 1,2ha đất thành ao ương, ao lắng, ao xử lý, ao sẵn sàng và ao nuôi (trong đó, diện tích ao nuôi là 1.600m2). Mô hình này vốn cao nhưng an toàn, năng suất tôm trung bình đạt 100 – 120 tấn/ha, mỗi năm thả nuôi được từ 3 – 4 vụ.

Nuôi tôm công nghệ cao theo quy trình khép kín có nhiều ưu thế, như quản lý được dịch bệnh từ ban đầu, quản lý được thức ăn, môi trường, không dùng kháng sinh, mật độ thả nuôi dày, rủi ro tôm chết là rất thấp. Nuôi theo quy trình vi sinh cho sản phẩm tôm sạch.

Nói về kỹ thuật, ông Gìn chia sẻ, nuôi tôm thẻ thả trên bạt ngay từ đầu phải xử lý môi trường bằng công nghệ vi sinh, giúp tôm có sức đề kháng cao hơn, hạn chế dịch bệnh.

Để ứng dụng công nghệ này, người nuôi phải tuân thủ đúng quy trình xử lý nguồn nước đầu vào qua ao lắng, ao xử lý, ao sẵn sàng, cuối cùng là đến ao nuôi. Chọn tôm giống sạch, chất lượng, ươm trong bể từ 20 – 30 ngày đạt kích cỡ đồng đều mới thả ra ao nuôi. Trong quá trình ươm thấy tôm yếu thì loại ngay, mua giống thả vô ươm tiếp.

Trong ao nuôi sử dụng vi khuẩn có lợi cạnh tranh với vi khuẩn có hại. Dưới đáy lót bạt cao phân tử chống rò rỉ nước từ môi trường bên ngoài vào ao nuôi. Ao nuôi và ao sẵn sàng phải che lưới lan, giảm được nhiệt độ trong ao nuôi để tôm nhanh lớn, đồng thời hạn chế tảo xuất hiện.

Đặc biệt ao được thiết kế để các chất thải, chất bẩn có hại tập trung lắng xuống khu trũng (hố ga). Những con tôm yếu sẽ rớt vào hố ga, cùng chất thải sẽ được tống ra ngoài theo đường ống thiết kế riêng. Nhờ đó, ao nuôi luôn sạch sẽ.

Nuôi tôm thả trên bạt mật độ rất cao, khoảng 300 con/m2 phải sử dụng máy quạt khí tạo oxy. Vì vậy, ông Gìn đầu tư thêm máy phát điện loại lớn phòng khi mất điện cung cấp kịp thời cho tôm.

Ông Gìn thường xuyên quan sát, chăm sóc ao tôm trong suốt quá trình nuôi

Nếu nuôi tôm theo hình thức truyền thống, người nuôi còn phải cho tôm ăn theo cách thủ công. Nuôi theo hình thức công nghệ cao, ông Gìn cho ăn bằng máy tự động nên tôm ăn liên tục, hạn chế thức ăn nằm lâu tan trong nước. Không phải tắt quạt khi tôm ăn, hạn chế thiếu hụt oxy giúp tôm ăn mạnh hơn. Có thể bớt lại lượng thức ăn nếu tôm ăn yếu hoặc thời thiết bất lợi. Tôm phát triển tốt và đồng đều hơn, đồng thời giảm được công lao động.

Từ tháng 6/2016 – 3/2017, qua 3 vụ thả nuôi, ông Gìn thu hoạch được gần 30 tấn tôm thương phẩm, bình quân 30 con/kg, giá bán dao động từ 160 – 170 ngàn đồng, trừ chi phí, đạt lợi nhuận hơn 2 tỷ đồng. Mỗi vụ thả nuôi có thời gian bằng nhau nhưng so với cách nuôi truyền thống trong ao đất, nuôi tôm công nghệ cao tăng mật độ thả dày, trọng lượng tôm tăng, năng suất lại cao. Tôm sạch, cạnh tranh, không đủ bán. Ở vụ nuôi hiện tại, tôm đang phát triển rất tốt.

Chị Nguyễn Thị Thêm, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã An Xuyên, TP Cà Mau thông tin: Nuôi tôm theo hình thức công nghệ cao của hộ ông Nguyễn Văn Gìn tuy chi phí lớn nhưng hiệu quả hơn hẳn cách nuôi tôm hầm đất. Đây là hướng đi bền vững cho nông dân địa phương mà xã đang khuyến khích.

Nguồn: NongnghiepVN được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Tại sao trị bệnh cho tôm khó?

Tôm là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao tuy nhiên rủi ro cũng rất lớn. Nhiều nhà nông đã trở thành triệu phú nhưng cũng có nhiều người đổ nợ vì con tôm. Đặc biệt khi tôm đã bị bệnh thì rất khó phát hiện và chữa trị. Do đó người dân cần có kiến thức để phòng tránh, nhận biết và chữa trị một cách nhanh chóng, kịp thời nhất.

Dưới đây là một số nguyên nhân giải thích vì sao chữa bệnh cho tôm lại khó khăn:

Đặc điểm của tôm

Nuôi tôm khác với nuôi các loài động vật trên cạn vì phương pháp chữa bệnh cho tôm chủ yếu trộn vào thức ăn chứ không phải tiêm trực tiếp như động vật trên cạn. Do đó việc điều trị bệnh cho tôm không thể kiểm soát chính xác liều lượng thuốc được đưa vào từng cá thể tôm. Vì phần lớn thuốc bị hấp thu vào nước và liều đưa vào mỗi cá thể không xác định được do con ăn nhiều, con ăn ít, con không ăn.

Hơn nữa, tôm sống ở trong ao nên bình thường người nuôi khó quan sát. Khi đã tôm đã chết hoặc bơi lên bờ thì mới phát hiện nhưng lúc này đã quá muộn.

Tôm sú nổi đầu bơi vào gần bờ

Thay đổi thời tiết

Tôm là động vật biến nhiệt nên nhiệt độ cơ thể không ổn định mà phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường nước. Khi thời tiết thay đổi bất thường làm cho tôm bị yếu và có thể bị bệnh.

Nếu nắng nóng kéo dài (nhiệt độ nước trên 32oC): Tôm bắt mồi nhanh nhưng thải nhiều phân sống làm nước ô nhiễm. Vi khuẩn có hại hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh phân trắng.

Vào mùa lạnh (nhiệt độ nước dưới 25oC): Tôm bắt mồi yếu, thậm chí ngưng ăn. Virus hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh đốm trắng.

Mầm bệnh lây lan nhanh

Do sống trong môi trường nước nên mầm bệnh xuất hiện rất dễ lây lan và không cách lý được. Tôm bị bệnh chết đi trở thành thức ăn của tôm khỏe và ngoài ra việc sử dụng sục khí, quạt nước góp phần phát tán mầm bệnh nhanh chóng.

Sức đề kháng kém

Tôm là động vật bậc thấp, không có hệ miễn dịch đặc hiệu nên khả năng đề kháng mầm bệnh kém, không có vaccine phòng bệnh. Tôm yếu rất dễ bị bệnh virus (đốm trắng, Taura) và vi khuẩn (Vibrio).

Thuốc không vào được tôm bệnh

Tôm bệnh thường bỏ ăn. Thuốc được trộn vào thức ăn sẽ không vào được cơ thể tôm bệnh. Vì thế, sử dụng thuốc chủ yếu là phòng bệnh cho tôm vừa chớm bệnh hay tôm còn khỏe.

Nhiều tác nhân cơ hội

Khi tôm bị bệnh, cơ thể yếu, không còn sức đề kháng, các mầm bệnh cơ hội trong nước đồng loạt tấn công khiến tôm càng yếu nhanh. Thực tế, hầu hết tôm bệnh khi kiểm tra đều nhiễm nhiều loại vi khuẩn, kí sinh trùng, virus, nấm và các yếu tố môi trường bất lợi (khí độc, ôxy hòa tan thấp…) nên sẽ khó xác định tác nhân chính gây bệnh và kéo dài thời gian xét nghiệm.

Cách xử lý những ao tôm bệnh

Nếu chẳng may ao có tôm bị bệnh, việc phát hiện càng sớm thì cơ hội trị bệnh càng cao và cách ứng phó hiệu quả là:

  • Tăng cường quạt nước: cung cấp nhiều ôxy cho tôm, tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh phân hủy chất thải và giải phóng khí độc.
  • Cắt giảm mạnh thức ăn thừa: giảm áp lực chất thải gây ô nhiễm môi trường ao, giảm khí độc tích tụ, giảm mật độ vi khuẩn gây bệnh phát triển.
  • Chữa bệnh đúng thuốc, đúng liều, đúng thời gian: tùy loại thuốc mà sử dụng buổi sáng hay buổi chiều (xử lý vi sinh vào giữa buổi sáng), tùy thời gian đào thải ra cơ thể tôm mà sử dụng bao nhiều lần (sau 6 giờ thì cứ 6 giờ bổ sung 1 lần theo các cữ ăn; sau 12 giờ thì bổ sung vào 1 cữ sáng và 1 cữ chiều; sau 24 giờ thì bổ sung vào 1 cữ ăn trong ngày).
  • Tăng cường sức đề kháng và phục hồi biến dưỡng cho tôm: bổ sung vitamin C, hoạt chất butaphosphan, các vitamin và khoáng chất khác .
  • Không thay nước từ nguồn bên ngoài: tránh lây lan và tạp nhiễm thêm mầm bệnh.
  • Kết hợp cải thiện chất lượng môi trường: đây là việc cấp thiết trong can thiệp xử lý ao tôm bệnh. Sử dụng vi sinh để phân hủy chất thải, xử lý khí độc; khoáng giúp cho nước ao tăng hệ đệm, ổn định độ kiềm, pH và tảo.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

“Nuôi” nước trong ao nuôi tôm

Trong quá trình nuôi tôm, nước ao nuôi tôm luôn biến đổi chất lượng tùy theo thời tiết, ngoại cảnh và cách chăm sóc. Sự thay đổi chất lượng nước được thể hiện qua màu nước ao. Nước ao nuôi cần được xử lý kĩ càng từ trước vụ nuôi.

Chất lượng nước sẽ được đánh giá chủ yếu bằng cách quan sát màu nước trong ao nuôi, đây là một biện pháp đơn giản, dễ thực hiện.

Tuy nhiên, nếu không có kiến thức đầy đủ về màu nước trong ao nuôi thủy sản, người nuôi cũng sẽ dễ bị nhầm lẫn và đánh giá không đúng về hiện trạng chất lượng nước.

Trên thực tế, nước trong ao nuôi thường có màu do sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ hòa tan hay không hòa tan, hay do sự phát triển của tảo. Có thể chia màu nước là 2 dạng, màu thực và màu giả. Màu thực của nước là màu do các hợp chất hòa tan trong nước gây ra, màu giả là màu của các hợp chất không hòa tan. Trong nuôi thủy sản ta chú ý đến màu giả của nước nhiều hơn, vì qua đó có thể đánh giá sơ bộ môi trường nước đó giàu hay nghèo dinh dưỡng. Trong ao nuôi thường có các màu sau:

Nước màu xanh nhạt (đọt chuối non)

Màu xanh nhạt do sự phát triển của tảo lục (chlorophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ nhạt (dưới 10 phần nghìn).

Đây cũng là màu nước thích hợp để nuôi tôm, tảo lục ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong chuỗi thức ăn, còn có tác dụng ổn định các yếu tố thủy lý hóa trong ao, hấp thu các chất hữu cơ thông qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao.

Nước ao màu xanh nhạt

Nước màu xanh đậm (xanh rêu)

Nước có màu xanh đậm là do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta), loài tảo này phát triển mạnh cả trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn.

Nước màu xanh đậm

Nếu nước trong ao nuôi có màu này thì cần có biện pháp làm giảm lượng tảo, vì đây là loại tảo không tốt cho tôm. Hơn nữa, nếu tảo lam phát triển quá mức có thể tiết ra chất độc làm chết cá. Bên cạnh đó, còn có thể gây thiếu oxy về đêm do tảo hô hấp quá mức.

Để khắc phục, cần dùng hóa chất cắt tảo trong ao, sau đó bón Dolomite và dùng vi sinh để gây lại màu nước.

Màu vàng nâu (màu nước trà)

Nước màu vàng

Nước có màu vàng nâu do sự phát triển của tảo silic (Bacillariophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh ở môi trường nước lợ, mặn vào đầu vụ nuôi. Đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi các loài thủy sản nước lợ, mặn.

Màu vàng cam (màu gỉ sắt)

Nước màu vàng cam

Màu này thường xuất hiện ở các ao nuôi mới đào trên vùng đất phèn. Màu cam là do đất phèn tiềm tàng (FeS2) bị oxy hóa tạo thành các váng sắt.

Đối với ao có màu nước vàng cam cần có biện pháp khử phèn trước khi thả nuôi, có thể sử dụng vôi nông nghiệp hay bơm, xả nước nhiều lần để rửa trôi lượng phèn trong ao. Đối với các ao đang nuôi thì cần rải thêm vôi trên bờ ao để tránh hiện tượng pH giảm đột ngột khi trời mưa.

Màu đỏ gạch (màu đất đỏ)

Nước có nhiều phù sa do đất cát bị xói mòn từ vùng thượng nguồn được dòng nước mang đến vùng hạ lưu. Trong ao nuôi thủy sản ít khi có màu nước như vậy, tuy nhiên vùng ĐBSCL hay gặp nước đỏ gạch trên các con kênh, sông khi chuẩn bị sắp có lũ về.

Người nuôi cần lưu ý không nên cấp nước vào ao lúc này, vì lượng phù sa nhiều sẽ làm tôm, cá khó hô hấp và giảm khả năng bắt mồi. Tốt nhất là nên cấp nước vào ao lắng trước khi cung cấp cho các ao đang nuôi. Trong trường hợp cấp bách có thể dùng vôi để lắng bớt các chất lơ lửng trong nước.

Màu nâu đen

Nước có màu nâu đen do trong nước có chứa nhiều vật chất hữu cơ. Màu nước này thường thấy ở các ao nuôi có hệ thống cấp, thoát nước không tốt, trong quá trình nuôi không quản lý tốt môi trường, cho ăn dư thừa nhiều sẽ dể làm nước ao nuôi có màu nâu đen. Trường hợp này hàm lượng oxy hòa tan rất thấp, vì vậy cần có biện pháp xử lý ngay.

Nước màu nâu đen

Có thể thay nước nhiều lần đến khi hết màu nâu đen, hoặc kết hợp sử dụng thêm các loại chế phẩm sinh học, hóa chất có thể hấp thu khí độc. Bên cạnh đó, nếu thấy tôm, cá có hiện tượng thiếu oxy cần sử dụng quạt đảo nước hoặc các loại hóa chất cung cấp oxy tức thời, nhằm làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại.

Nước quá trong

Nước ao quá trong, độ trong trên 50cm, có khi thấy cả đáy ao.

Nước ao quá trong

Do tảo trong ao không phát triển hoặc do tảo đáy phát triển. Ngoài ra có thể do nước ao, đáy ao có tính axit do bị nhiễm phèn. Có thể bón vôi để tăng pH cho nước ao và dùng vi sinh để gây màu nước.

Quan sát màu nước trong ao nuôi là phương pháp dễ thực hiện và mang lại hiệu quả cao. Nếu người nuôi có đầy đủ kiến thức về các loại màu nước sẽ có thể đánh giá chính xác được hiện trạng chất lượng nước

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sát thủ giấu mặt gây chết ở tôm – H2S

Trong quá trình nuôi tôm, lượng chất thải hữu cơ tạo ra được tích tụ trong đáy ao bị vi khuẩn phân hủy kị khí thành  H2S. Đây là loại khí độc nguy hiểm nhất trong ao, có thể gây chết tôm ở bất cứ thời điểm nào. Do đó cần khống chế loại khí này trong toàn vụ nuôi.

Trong vụ nuôi, chất thải được lắng đọng xuống nền đáy, quá trình phân hủy xảy ra 2 trường hợp. Trường hợp phân giải kỵ khí (không có ôxy) nên vi khuẩn khử lưu huỳnh tạo ra H2S, nằm ở phía dưới lớp bùn đáy và thường có màu đen. Trường hợp phân giải hiếu khí (có ôxy) các phản ứng ôxy hóa xảy ra ở bề mặt lớp bùn đáy nên lớp bùn này có màu sáng. Lớp bùn sáng này tuy mỏng nhưng có tác dụng như lớp màng ngăn, hạn chế khí độc thoát ra ngoài môi trường nước.

Khí độc H2S có mùi trứng thối, càng nhiều bùn đen thì càng nhiều khis độc H2S. Nó được gọi là “sát thủ” vì độ độc H2S cao gấp nhiều lần so với NH3 và NO2, chỉ cần 0,01 ppm là có thể giết chết tôm. Còn “giấu mặt” vì cho đến nay, vẫn chưa có dụng cụ kiểm tra hàm lượng khí độc H2S trong ao nuôi.

Khí  H2S nguy hiểm với tôm như thế nào?

Khí độc H2S sẽ kết hợp với Hemoglobin ngăn cản việc vận chuyển ôxy trong máu, ngăn không cho tôm lấy ôxy, gây stress và giảm sức đề kháng. Nó cũng có thể gây phá hủy mô, tổn thương các cơ quan mềm như mang, ruột, thành dạ dày và gan tụy. Nếu tiếp xúc H2S trong thời gian ngắn, tôm yếu dần, bơi chậm chạp, dễ tổn thương và nhiễm bệnh. Trường hợp tiếp xúc với lượng lớn H2S, tôm sẽ chết nhanh hàng loạt.

Các triệu chứng tôm bị ảnh hưởng bởi độc tính H2S

Tôm sú bị mềm vỏ khi tiếp xúc lâu với H2S, dẫn đến stress và giảm ăn

Miệng và mang tôm thẻ bị đen do tiếp xúc với H2S khi tìm kiếm thức ăn ở khu vực đáy ao

Những điều kiện thuận lợi sinh ra H2S

  • Ao nước trong trước khi thả giống, ánh sáng chiếu xuống làm cho rêu đáy phát triển. Sau một thời gian, tảo phát triển và ngăn ánh sáng chiếu xuống đáy ao làm cho rêu đáy chết, gây ô nhiễm đáy ao
  • Ao đáy cát và đất xốp, chất thải rút sâu vào lòng đáy, tạo môi trường yếm khí sinh ra H2S
    Đối với ao lót bạt, bên dưới lớp bạt là môi trường thiếu ôxy, H2S được sinh ra khi chất hữu cơ thấm xuống bên dưới lớp bạt theo vết rò rỉ
  • Ao có mực nước sâu, thiếu oxy sẽ tạo điều kiện cho H2S sản sinh
  • Ao bị tảo tàn và nhiều thức ăn thừa, cũng như ao phèn có pH thấp và nhiều chất thải rất thuận lợi tạo ra H2S
  • Ao chứa các chất hữu cơ lơ lửng, khi các chất này lắng lại ở đáy ao sẽ tạo điều kiện thuận lợi sinh ra H2S

Một số trường hợp và cách khắc phục

  • Mưa lớn

Trong cơn mưa lớn, các thông số nước sẽ thay đổi, thúc đẩy việc tạo ra H2S. Mưa làm giảm nhiệt độ, ôxy hòa tan và pH. Mưa còn làm giảm khoáng chất và độ kiềm trong nước. Âm thanh và sóng tạo ra bởi gió cũng khiến tôm stress và phải di chuyển xuống đáy và khu vực chất thải. Các yếu tố này làm tôm chết.

Người nuôi nên xử lý như sau: Ngưng cho ăn khi có mưa

– Kiểm tra pH nước và tạt vôi để duy trì điều kiện tối ưu

– Bật quạt nước chạy xuyên suốt

– Bổ sung khoáng vào nước và trộn khoáng với thức ăn sau những cơn mưa

– Sử dụng vi khuẩn tiêu thụ H2S để kiểm soát H2S

  • Tảo tàn

Khi tảo tàn, pH ngay lập tức hạ thấp, lượng chất hữu cơ tăng lên đột ngột tiêu thụ một lượng lớn ôxy hòa tan. Khí độc sản sinh và vi khuẩn tăng lên nhanh chóng. Người nuôi phải xử lý theo các bước sau đây:

– Cắt giảm 50 – 60% thức ăn

– Tạt vôi để duy trì độ pH

– Chạy quạt để gom chất hữu cơ về khu vực giữa đáy ao

– Si-phông bùn đáy giữa ao, thay nước mới

– Sử dụng các chế phẩm phân hủy chất hữu cơ để làm sạch nước ao

– Sử dụng vi khuẩn tiêu thụ H2S để kiểm soát H2S

  • Thời tiết lạnh

Khi thời tiết trở lạnh, tôm khỏe có khả năng chống chịu tốt hơn và tránh xa khu vực chất thải. Trong khi đó, tôm yếu chịu lạnh kém sẽ tiến đến khu vực chất thải (nhiệt độ ấm hơn) và bắt đầu nhiễm độc bởi khí H2S. Khi thời tiết ấm trở lại, vi khuẩn phân hủy chất thải với tốc độ nhanh hơn và tiêu thụ một lượng lớn ôxy. Hàm lượng ôxy thấp sẽ làm cho tôm sống ở khu vực này bị nhiễm độc bởi khí H2S. Cách khắc phục:

– Khi thời tiết trở lạnh (25 – 26oC), lượng thức ăn nên được giảm 20 – 30%.

– Tăng cường quạt nước để cung cấp đầy đủ ôxy trong cả ngày.

– Trộn vitamin, khoáng vào thức ăn để hỗ trợ tôm khỏe hơn.

– Rải vôi quanh vùng rìa đống chất thải.

Đáy ao bị xáo trộn

Bình thường bề mặt của đống chất thải được tiếp xúc đủ ôxy nên tạo ra lớp bùn sạch. Lớp này rất mỏng, có màu tương đối sáng, bao phủ bùn đen thiếu ôxy bên dưới và hạn chế khí độc H2S ở bùn đen thoát lên. Nhưng khi lớp bề mặt này bị trốc ra, một lượng lớn khí độc H2S đột ngột thoát vào nước. Những con tôm ở gần đó sẽ chết do bị nhiễm bởi khí độc này. Để hạn chế trường hợp này cầ chú ý:

– Không nên khuấy động đống chất thải ở đáy ao

– Cố gắng kiểm soát pH nước (bón vôi)

– Cắt giảm thức ăn (60 – 70%)

– Tăng cường quạt nước tối đa để cung cấp ôxy và ngay lập tức đưa vi sinh PondDtox® 2 kg/ 10.000 m2 xuống ao.

Ngăn ngừa khí độc H2S

  • Duy trì ôxy hòa tan ở đáy ao cao hơn 3 ppm có thể giúp ngăn cản việc sinh ra H2S
  • Kiểm soát chặt chẽ lượng thức ăn
  • Không nên nuôi ở vùng đất xốp, đáy cát và khu vực xì phèn nặng
  • Khu vực miền Tây cần lưu ý đáy ao phần lớn nằm trong vùng xì phèn, người nuôi cần xử lý đáy bằng vi sinh định kỳ để kìm hãm sự phát triển của H2S
  • Giữ pH trong khoảng 7,8 – 8,3 trong suốt vụ nuôi. Khoảng dao động pH trong ngày phải nhỏ hơn 0,4. Vùng đất xì phèn, pH khu vực giữa ao luôn thấp hơn so với ven bờ
  • Người nuôi nên cẩn thận và phải có hành động kịp thời khi mưa lớn, tảo tàn và lột xác

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Xử lý nước ao tôm nuôi trước vụ nuôi

Nhằm hạn chế thiệt hại và dịch bệnh trong nuôi tôm, ngoài việc chọn nguồn tôm giống rõ ràng, sạch bệnh thì việc xử lý nước trước khi đưa vào vụ nuôi cũng rất quan trọng. Sau đây là bài hướng dẫn về phương pháp xử lý nước ao tôm trước vụ nuôi.

Trước khi cấp nước, cần cải tạo ao trước.

Cải tạo ao

Đối với ao mới: công việc chuẩn bị thực hiện dễ dàng hơn: phơi ao cho khô, làm vệ sinh, xử lý các loại thực vật xung quanh. Cố gắng không để hoá chất xử lý còn lại dư lượng trong ao sẽ gây hại cho tôm giống. Sau đó đo pH đất, pH phù hợp sẽ ở trong khoảng 7,5 – 8. Nếu pH của đất thấp hơn 6 nên dùng vôi bột (Canxi hydroxyt) rắc khắp hồ với tỷ lệ 100 kg/hecta. Nếu pH của đất lớn hơn 6 nhỏ hơn 7.5, dùng zeolite tỷ lệ 30-50 kg/hecta.

Đối với ao cũ: Việc dọn tẩy lớp bùn đáy trong ao được thực hiện bằng một trong hai cách là dọn tẩy khô và dọn tẩy ướt. Trong phương pháp dọn tẩy khô, lớp bùn đáy sau khi được phơi khô sẽ được dọn bỏ bằng cơ giới hay bằng tay. Phương pháp dọn tẩy ướt được thực hiện bằng cách dùng máy bơm nước áp lực mạnh để rửa trôi lớp bùn đáy còn ướt. Sau đó phơi đáy ao 1 -2 ngày và bón vôi tương tự như ao mới.

Nước được bơm từ nguồn nước bên ngoài vào ao lắng thông qua túi lọc bằng vải nhằm loại bỏ tạp chất, sinh vật gây hại.

Đối với những vùng vụ trước có dịch bệnh xảy ra trong quá trình xử lý nước nên sử dụng Chlorine 30 kg/1 hecta. Chlorine có tác dụng diệt tảo độc, tảo sợi, cả vi sinh vật có lợi và vi sinh vật không có lợi làm nước trong. Tuy nhiên, Chlorine  thường để lại dư lượng trong nước. Do vậy, trước khi bơm sang ao nuôi nên phơi nước ao 1 -2 ngày và kiểm tra dư lượng Chlorine. Cách kiểm tra dư lượng Chlorine : lấy 1 ml nước ao, nhỏ 1-2 giọt Potasium iodine . Nếu nước trong nghĩa là nước ao nuôi tôm thẻ chân trắng không còn dư lượng chlorine, nếu đổi sang màu nâu vàng tức là trong nước còn dư lượng.

Sau khi xử lý Chlorine phải phơi ao và chạy quạt để làm mất hết dư lượng trong nước

Sau khi bơm nước vào ao nuôi, công việc cuối cùng trước khi thả tôm là gây màu nước.

Có 3 phương pháp gây màu theo VietGAP như sau :

Phương pháp thứ nhất: Theo công thức 2:1:2 (thành phần gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành). Trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm). 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

Phương pháp thứ hai: Theo công thức 3:1:3 (thành phần gồm 3 kg mật đường + 1 kg cám gạo (hoặc cám ngô) + 3 kg bột đậu nành). Công thức này không cần nấu chín, trộn đều sau đó ủ kín trong 12 giờ. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 2 – 3 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm), 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

Phương pháp thứ ba: Sử dụng chế phẩm EM

Chế phẩm sinh học EM gốc

Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm EM

Đối với con nuôi thủy sản:

Tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu của con nuôi với các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.

Tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ các loại thức ăn của con nuôi.

Kích thích tăng trưởng của con nuôi.

Tăng sản lượng và chất lượng.

Tiêu diệt các vi sinh vật có hại.

Hạn chế ô nhiễm môi trường.

Điều kỳ diệu là EM có tác dụng tốt đối với mọi loài động vật thủy sản.

Đối với môi trường:

Tiêu diệt các vi sinh vật gây ô nhiễm (H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh, chuồng trại, ao nuôi,… sẽ khử mùi hôi nhanh chóng.

Giảm số lượng ruồi, muỗi, côn trùng trong môi trường.

Khử mùi rác hữu cơ và tăng tốc độ mùn hóa.

Ngăn chặn quá trình gây thối, mốc trong bảo quản nông sản.

Hiệu quả cao, an toàn với môi trường và giá thành rẻ.

Sản xuất EM2 từ EM gốc (nhằm hạ thấp chi phí sản xuất):

Nguyên liệu (với thùng chứa 50L): 1 kg mật đường, 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, 10 g muối ăn, 1 lít EM gốc, 46 lít nước sạch khuẩn

Cách tiến hành:

Vô trùng các thùng chứa

Lấy 46 lít nước ngọt, sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)

Cho 1 kg mật đường, khuấy đều

Cho 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, khuấy đều

Cho vào 10 g muối ăn, khuấy đều

Cho vào 1 lít EM gốc, khuấy đều

Đậy nắp ủ yếm khí trong thời gian 7 ngày

Với các thể tích lớn hơn (100L, 200L, 500L,…) thì tăng các loại nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng với tăng thể tích.

Cách sử dụng:

Xử lý nước: 50 lít EM2/1.000 m3 nước

Xử lý đáy ao: 10 lít EM2/1.000 m2 đáy ao

Sử dụng định kỳ trong các ao nuôi: 50 lít EM2/1.000 m3 nước, trong tháng nuôi đầu 5 – 7 ngày/lần, tháng thứ 2 sử dụng 3 – 5 ngày/lần, tháng thứ 3 trở đi 2 – 3 ngày/lần.

Sử dụng xử lý mùi hôi thối: Dùng bình xịt phun EM2 trực tiếp lên bề mặt các nơi sinh ra mùi hôi thối.

Sản xuất EM5 từ EM gốc:

Nguyên liệu: 1 lít EM gốc,1 lít mật đường,1 lít giấm, 2 lít rượu

Cách tiến hành:

Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn

Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 2 lít rượu → 1 lít giấm → 1 lít mật đường → 1 lít EM gốc → khuấy đều → đậy kín.

Ủ yếm khí trong 3 ngày

Cách sử dụng:

Xử lý đáy ao: 5 lít EM5/1.000 m2.

Xử lý nước: 4 lít EM5/1.000 m3, định kỳ 7 ngày/lần, khi tôm lớn tăng số lần sử dụng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam