Xử lý ao nuôi tôm không dùng hóa chất

Có 3 cách cơ bản nhất để xử lý ao nuôi tôm như sau :

1. Nuôi cá rô phi và rong biển

Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Phú Yên thì: chất lượng nước trong các ao nuôi tôm không thả cá rô phi và rong câu thường có sự biến động lớn về các thành phần như nitơ, phốt pho, chlorophyll-a… Điều này sẽ tạo môi trường thuận lợi cho một số loại tảo và vi khuẩn có cơ hội phát triển mạnh làm cho lượng oxy trong ao giảm nhanh chóng, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của tôm nuôi.

Để khắc phục tình trạng này, các chuyên gia thuỷ sản đã nghiên cứu và khuyến cáo người nuôi tôm nên thả cá rô phi với mật độ 3- 4 con/m2 cùng với 300 gam rong câu/m2 cho mô hình trang trại nuôi tôm có ao xử lý nước thải riêng biệt. Với mật độ đó, khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa cùng với các chất vô cơ cho kết quả cao nhất. Qua đó, nồng độ nitơ, phốt pho luôn được kiểm soát ở mức tốt nhất.

2. Phương pháp xiphông đáy

Ưu điểm của phương pháp này là có thể hút hết những chất hữu cơ bị phân huỷ dưới đáy ao nuôi tôm, làm tăng lượng oxy hoà tan trong nước, kéo dài thời gian nuôi, hiệu quả kinh tế cao, giảm chi phí sử dụng hoá chất trực tiếp để xử lý nền đáy.

Phương pháp xi phông đáy ao phổ biến trong nuôi tôm

 Máy xi phong di động:

** Thường dùng cho ao:

Ao không có hố xi phong. Ao có diện tích lớn (trên 2500m2), dùng được cho ao có đáy không bằng phẳng.

Thường sau 2-3 tháng thả tôm nuôi, khi đáy ao tích tụ nhiều chất thải, các yếu tố môi trường có dấu hiệu vượt ngưỡng cho phép trong ao nuôi, thì có thể tiến hành xi phông đáy ao.

Cách lắp đặt và vận hành:

Dụng cụ để xử lý xi phông là 2 ống nhựa PVC có đường kính 10-20 cm. Dài 1-1,2 m nối với nhau thành chữ T ở đoạn trên đầu chữ T khoan nhiều lỗ nhỏ (kích thước cỡ con tôm trong ao nuôi). Phần cuối chữ T đấu nối vào đầu hút nước của bơm ly tâm (có cánh quạt hút nước). Bơm ly tâm được nối với trục nối dài của moteur hay động cơ nổ dùng xăng. Hiện nay có nhiều loại máy bơm trên thị trường người nuôi có thể sử dụng.

Ưu điểm của phương pháp này:

Có thể hút được bùn của chất thải đồng thời tránh cho tôm bị hút vào khi bơm ly tâm hoạt động. Bùn và chất thải theo đầu chữ T và thoát ra ngoài theo ống thoát nước của bơm ly tâm.

Dùng được cho nhiều ao, dùng được cho ao có diện tích lớn.

Máy xi phong đáy ao đặt trên bờ

** Áp dụng cho:

Ao có hố gom chất thải, có thể dùng cho ao đất nhưng phải lót bạt phần hố xi phong hoặc ao nuôi lót bạt.

Thiết kế ao nuôi:

Đào một hố sâu khoảng 80 cm toàn bộ khu vực chất thải gom lại, sau đó lấy bạt trải hết đáy hố và thành hố. Phần mép bạt được cuộn vào thanh tre và chôn sâu khoảng 20 cm. Việc chỉ trải bạt hố xi phông không quá tốn kém mà vẫn hút sạch hoàn toàn chất thải nên công dụng không kém hố xi phong của ao trải toàn bộ bạt đáy.

Đặt một mô tơ khoảng 2 – 3 HP trên bờ, lắp một ống PVC hoặc ống gân đường kính 60 nối từ mô tơ đến giữa ao để giúp bơm chất thải ra ngoài. Ống này nên đặt nổi cách mặt nước 20 – 30 cm, dùng tầm vông để đỡ ống. Phần đầu hút xi phông gắn vào ống gân mềm để dễ vận hành di chuyển toàn bộ khu vực hố. Phần chất thải đi từ mô tơ đến ao thải có thể dùng ống mềm (ống vải) để dễ cuộn lại, sử dụng cho nhiều ao. Nếu 2 ao tôm cạnh nhau có thể thiết kế chung một mô tơ đặt trên bờ chung để sử dụng cho 2 ao.

Vận hành:

Khi bơm nước vào ao, nên bơm đầy hố xi phông ở giữa ao trước, sau khi bơm đầy hố, áp lực nước từ trên xuống sẽ ép bạt dính chặt xuống đáy và xung quanh hố khiến bạt không bị phồng lên. Có thể tiến hành hành xi phông cho ao khi tôm đạt kích cỡ từ 2 g trở lên.

Dùng thuyền hoặc phao ngồi trên để di chuyển đầu xi phông toàn bộ hố. Nếu tiến hành xi phông hằng ngày, đáy ao sẽ không bẩn thì hoàn toàn có thể lội xuống đứng dưới ao xi phông mà không ảnh hưởng gì và cũng dễ kiểm tra mức độ sạch bẩn của đáy ao.

Nên xi phông mỗi buổi sáng, thời gian xi phông chỉ khoảng 30 phút đến 1 giờ mỗi hố, điều này sẽ hạn chế được rất nhiều chất thải lắng tụ ở đáy ao, giúp duy trì chất lượng nước và đặc biệt giảm được lượng vi sinh cần thiết; hoặc cũng với lượng vi sinh tương tự, nhưng hiệu quả của vi sinh được tốt hơn vì lượng chất thải trong ao ít hơn. Phần nước hao hụt mỗi lần xi phông khoảng 2% nước sẽ được bơm bù lại từ ao chứa đã được xử lý.

 Xi phông nhờ van tự động

** Áp dụng hiệu quả với:

Ao nhỏ diện tích dưới 2500m2

Ao có hố xi phong, ao lót bạt cả ao hoặc đổ bê tông cho hố.

Với ao nuôi có đáy ao cao hơn hệ thống thoát nước và kênh xử lý chất thải.

Cấu tạo hố xi phong:

Với hệ thống này không cần sử dụng động cơ bơm ly tâm vì áp lực nước sẽ đẩy chất thải ra ngoài đáy ao hệ thống cống rảnh mà không cần bất kỳ lực tác động.

Hố xử lý chất thải phải đủ rộng để gom chất thải và thường có dạng chóp nón.

Từ miệng hố đến đáy hố cách nhau 50cm và đường kính 2m cho ao 2000m2- 2500m2

Giữa hố có ghép nối với 1 ống nhựa PVP phi 75 có bịt lưới đầu ống đủ để hút bùn đáy và ngăn tôm lọt qua ghép nối với đường ống hút nên chôn dưới lòng đất để không bị ảnh hưởng lúc cải tạo cuối ống nhựa lắp 1 van để xả thải.

Cuối vụ cần hút sạch bùn trong đường ống tránh tình trạng bùn đọng trong ống lúc phơi khô ống sẽ bị tắc nghẽn.

Tùy theo mật độ tôm nuôi và lượng chất thải trong ao mà sắp xếp lịch xi phong đáy ao cho phù hợp.
Một ngày rút 2 hoặc 3 lần mỗi lần chỉ 1-2 phút. Sau đó phải bù lượng nước đã mất cho ao tôm.

3. Xử lý nước bằng tia cực tím

Hệ thống bao gồm một bể tràn là bồn chứa khoảng 350 lít, 10 bóng đèn tia cực tím, máng nước bằng nhôm hoặc bằng nhựa, nguồn điện phân, lưới lọc và nguồn điện có công suất 1.000W lấy từ nguồn máy nổ sục khí. Khi hút vào bể tràn, nước sẽ được nén và đi qua lưới lọc rồi chảy vào máng, nơi lắp đặt hệ thống đèn chiếu tia cực tím và nguồn điện phân.

Nhờ cách lắp đặt đèn và hệ thống làm xáo trộn, nước sẽ được tiếp xúc với đèn tia cực tím, cộng với nguồn điện phân sẽ diệt số lượng lớn vi khuẩn trước khi vào ao nuôi. Theo kết quả thử nghiệm của Trung tâm Y tế dự phòng Phú Yên, kết quả thí nghiệm rất khả quan với khả năng diệt khuẩn là 85%, cụ thể mẫu nước chỉ còn lại 500 cá thể so với 3.800 cá thể vi khuẩn ban đầu.

Cả ba phương pháp này đều không sử dụng hoá chất trong ao nuôi góp phần đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản, đáp ứng những thay đổi nhanh chóng và yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt của thị trường xuất khẩu hiện nay. Cách thức và phương pháp sử dụng đơn giản nhưng cho tôm nuôi thương phẩm đạt chất lượng cao, không có kháng sinh, giảm chi phí sản xuất, mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

10 điều cần làm khi nuôi tôm mùa mưa bão

Khi trời mưa nhiệt độ, độ mặn, pH và oxy hòa tan trong ao đều bị giảm đột ngột. Việc chăm sóc tôm nuôi trong mùa mưa nhất là những cơn mưa liên tục kéo dài gây nhiều khó khăn cho người nuôi, kể cả những người nuôi có kinh nghiệm, từ việc xả nước mặt cho đến chế độ tăng giảm lượng thức ăn cho hợp lý tránh dư thừa thức ăn.

Tôm sú là loài động vật máu lạnh, nhiệt độ cơ thể của tôm có thể thay đổi trong một khoảng nhiệt độ giới hạn. Nhưng nếu các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột vượt quá giới hạn cho phép tôm sẽ bị yếu, sốc và có thể chết hàng loạt.
Cần có sự chuẩn bị đồng bộ các khâu từ khi xử lý ao đến khi nuôi.

1. Phải có ao lắng và xử lý nước đúng quy trình trước khi cấp vào ao nuôi

Ao lắng có diện tích bằng 1/3 – 1/2 ao nuôi.
Có thể nuôi thay đổi ao sau từng vụ.
Dự trữ đủ nước để sẵn sàng thay nước cho ao nuôi.
Không nuôi tôm với mực nước quá cạn.

2. Mật độ thả nuôi thích hợp:

Trong mùa mưa chỉ nên thả với mật độ vừa phải (<25 con/ m2 với tôm sú và < 100 con/ m2 với tôm thẻ chân trắng)

3. Tăng cường hệ thống quạt nước, ôxy đáy ao, giảm phân tầng trong ao về nhiệt độ, độ mặn, ôxy.


Lắp quạt: ước tính 1 cánh quạt sẽ cung cấp đủ oxy cho 2.800 con tôm từ lúc mới thả đến khi thu hoạch. Lắp cánh quạt theo đúng yêu cầu kỹ thuật:
+ Khi quạt vận hành nước phải xoáy vào giữa ao để gom mùn bã hữu cơ vào giữa ao
+ Vận tốc của guồng quay phải đạt từ 80-85 vòng/ phút.
+ Cách thử: Cho quạt quay, sau đó đổ xuống ao từ 5-10kg saponin, nếu bọt nước tập trung ở giữa ao là lắp quạt đúng.Lắp đặt hệ thống oxy đáy ao: ống nhựa hoặc đá bọt.

4. Kiểm tra hoạt động của tôm và môi trường nước sau mưa

 Kiểm tra hình dáng bên ngoài, màu sắc, phản xạ, kiểm tra đường ruột của tôm, thức ăn trong nhá…

 Kiểm tra pH, độ kiềm, độ đục, độ mặn.

5. Theo dõi thường xuyên nước trong ao


Trong ao nuôi pH luôn phải đạt từ 7,5-8,5. Nước mưa có tính axit, làm rửa trôi phèn từ bờ ao, làm giảm pH nước trong ao. Để hạn chế giảm pH trong ao nuôi khi trời mưa: Rải vôi dọc bờ ao trước khi trời mưa (rải khô) khoảng 10kg/100m2. Sau khi mưa, nên hoà vôi tạt xuống ao khoảng 10-20kg/1haKết hợp quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nước.Khi mưa to, mực nước ao nuôi lên cao cần xả bớt nước mặt để tránh giảm độ mặn đột ngột và tràn bờ, vỡ bọng, cống.

6. Phương pháp tăng độ kiềm trong ao nuôi

Độ kiềm thích hợp cho tôm sú là 90-130ppm, cho tôm thẻ chân trắng là 100-150ppm. Ngâm vôi dolomite vào nước ngọt 24h sau đó tạt đều xuống ao vào lúc 8-10 giờ đêm. Cứ 1,655 g vôi dolomite làm cho 1m3 nước tăng độ kiềm lên 1 mg/ml. Cách tính lượng vôi dolonite: để tăng độ kiềm cho ao 5000 m3 từ độ kiềm 80 mg/ml lên 90 mg/ml:

Lượng vôi dolomite cần sử dụng = 5000 x 1,655 x (90-80)/1000 = 82,75kg

Khi tăng độ kiềm trong ao, lưu ý rằng chỉ tăng 1 lần 10 mg/ml; sau đó lặp lại, không tăng 1 lần quá nhiều sẽ làm tôm bị sốc.

Nếu sử dụng phương pháp trên mà độ kiềm không tăng hoặc tăng quá chậm thì chúng ta dùng biện pháp sau:

Kết hợp 70% lượng vôi cần theo cách tính trên là soda (NaHCO3), 30% lượng vôi cần đánh theo công thức trên là dolomite. Ngâm vào nước ngọt 24h sau đó tạt đều xuống ao vào lúc 8-10 giờ đêm.

7. Quản lý tảo khi độ mặn thấp hơn 8‰

Khi độ mặn trong ao thấp hơn 8‰ thường xuất hiện tảo lục có màu xanh nước rau má. Khi đó có các hiện tượng:
Tảo thường xuyên bị tàn lụi. pH dao động mạnh trong ngày Tôm thường bị đóng rong. Thường thiếu oxy vào sáng sớm. Tôm dễ bị đen mang, vàng mang.
Biện pháp khắc phục:
Giảm thức ăn. Dùng BKC 800 với nồng độ 0,5ppm. Chọn 1/3 diện tích ao hướng cuối gió để tạt vào lúc trời nắng gắt (không sử dụng quạt nước) hoặc dùng SEAWEED với nồng độ 0,5-1ppm tạt khắp mặt ao. Vớt bọt tảo tàn sau khi sử dụng thuốc. Lặp lại từ 2-3 lần. Sử dụng ZEOBAC 3-5ppm để hấp thu khí độc do xác tảo lắng dưới đáy ao sinh ra.

8. Giải quyết nước đục trong ao


Trong ao nước đục chủ yếu do hạt sét gây nên. Nước đục ảnh hưởng đến các yếu tố:
Giới hạn sự quang hợp của tảo làm thiếu oxy trong ao, tăng hàm lượng CO2 quá cao làm tôm ngạt thở. Tảo thường bị tàn đột ngột Phù sa bám vào mang tôm làm cho tôm hay bị sưng hoặc vàng mang.
Có thể sử dụng 1 trong những cách sau đây để xử lý cho ao có 5.000m3 nước:
Dùng 125kg rơm khô thả dọc bờ ao và kết hợp 10kg BLUEMIX. Rơm được bó thành từng bó khoảng 3-5 kg thả xuống ao, khi thấy nước tiết ra có màu đỏ thì vớt lên và lặp lại 2-3 lần. Dùng 150 kg thạch cao, nếu sau 2 lần đánh mà nước vẫn chưa trong thì nên tăng nồng độ ở lần thứ 3. Chú ý khi sử dụng thạch cao phải nâng độ kiềm của ao lên 100 ppm rồi mới sử dụng.
Sau khi sử dụng 1 trong 2 phương pháp trên mà không có hiệu quả thì chúng ta sử dụng phương pháp sau:
Dùng sunphát nhôm Al2(SO4)3.14H2O với liều lượng 50kg. Khi sử dụng phương pháp này chú ý phải tăng pH và độ kiềm của ao. Đây là biện pháp cuối cùng chỉ sử dụng khi không còn làm được cách khác vì rất nguy hiểm. Khi nước đã giảm đục chúng ta cần phải gây màu nước bằng cách dùng BLUEMIX với liều lượng 2-3 kg/1.000m3 nước.
Có thể làm hệ thống lưới đáy ao giúp hạn chế phù sa và tăng thêm diện tích cho tôm ở.

9. Quản lý các khí độc NH3, H2S, CH4

Tránh hiện tượng dư thừa thức ăn. Cần có ao xử lý để thay nước thường xuyên vào những tháng cuối Sử dụng định kỳ men vi sinh Si phon đáy ao, hút chất thải ra ngoài khi tôm được hơn 70 ngày tuổi. Tăng cường hệ thống máy quạt nước. Ổn định pH trong khoảng 7,8-8,2Đo kiểm tra nồng độ NH3, H2S, NO2- (NO2- thường xuất hiện trong ao có độ mặn <10 ppt).
Dấu hiệu tôm nhiễm khí độc: Thân tôm thường có màu đỏ nhạt, vỏ ốp, bơi lờ đờ trên mặt nước, giảm ăn. Nếu bệnh nặng có thể tấp bờ, chết rải rác đến hàng loạt.
Biện pháp khắc phục:
Dùng muối hạt 10kg/1600m2 đáy ao rải vào lúc trời có nắng. Lặp lại liên tục 2-3 lần. Cho ăn thêm vitamin C, calxi-photpho 1 tuần.

10. Cho ăn đúng chương trình, giảm lượng thức ăn khi trời mưa, sắp mưa

Ngay khi thấy trời âm u sắp mưa, cần giảm lượng thức ăn hoặc thậm chí ngừng cho ăn nếu cơn mưa đến gần, chờ đến khi ngớt mưa cho ăn với số lượng giảm 30-50 phần trăm lượng thức ăn bình thường, do mưa, lạnh làm tôm giảm ăn. Nếu dư thức ăn sẽ làm tảo lục phát triển mạnh, pH nước ao dao động, tôm bị đóng rong. Để bảo đảm sức đề kháng và tránh cho tôm bị mềm vỏ, có thể trộn vào bữa chính các loại vitamin tổng hợp + khoáng chất + vitamin C mỗi ngày.

Theo Vietlinh, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phương pháp chọn tôm giống

Tôm giống là yếu tố quyết định thành bại của một vụ nuôi. Chất lượng tôm giống có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất và phẩm chất của tôm thương phẩm. Để có một vụ nuôi thắng lợi thì việc chọn được tôm giống tốt là điều người nuôi tôm cần phải lưu ý. Sau đây là phương pháp chọn tôm thẻ chân trắng giống để có một vụ nuôi thành công :

1. Phương pháp đánh giá cảm quan

Tôm giống có kích cỡ đồng đều, số tôm chênh lệch không vượt quá 5%. Chiều dài thân tôm lớn hơn 10mm (12mm đối với tôm sú). Tôm giống nên chọn tôm giai đoạn postlarva 10 – 12 (PL 10 – PL 12) vì giai đoạn này tôm đã phát triển hoàn chỉnh về hình thái, sinh lý và dễ thích nghi với môi trường sống mới.

Cách đơn giản để xác định tuổi tôm post thẻ chân trắng là đếm số gai trên chủy đầu tôm. Số gai trên chủy nhân với 3 là ngày tuổi của post.

  • PL 12 có 4 gai trên chủy phát triển hoàn chỉnh (04 gai x 3 = 12 ngày tuổi)
  • PL 10 có 3 gai trên chủy phát triển hoàn chỉnh và một gai thứ tư vừa mới nhú (chưa phát triển hoàn chỉnh)
  • PL 9 có 3 gai trên chủy phát triển hoàn chỉnh (3 gai x 3 = 9 ngày tuổi)

Màu sắc tôm tươi sáng, vỏ mỏng, có màu tro đen đến đen, đầu thân cân đối, đuôi tôm xòe ra là con giống tốt.

Tôm giống tỏ ra linh hoạt, khỏe mạnh, phân bổ đều trong bể nuôi, hình dáng thon dài, ruột đầy thức ăn (khả năng bắt mồi tốt).

Dùng tay gõ nhẹ vào thành dụng cụ chứa tôm, nếu tôm phản ứng nhanh thì đàn tôm đó khỏe. Tôm bột không khỏe sẽ lờ đờ, không phản ứng và cơ thể cong vẹo khi bơi lội. Hoặc thả tôm giống vào thau, dùng tay khuấy đều, tôm khỏe thường bơi ngược dòng hoặc bám chung quanh thành thau, tôm yếu tụ lại ở giữa.

2. Phương pháp quan sát trên kính hiển vi

Phương pháp này ngoài đánh giá được tôm giống khỏe hay không còn biết được tôm có nhiễm ký sinh hay bị tổn thương hoại tử các bộ phận râu, chân, bụng,…

– Tôm khỏe, các tế bào sắc tố (ở phần bụng) thường xuất hiện dưới dạng những đốm nhỏ có dạng hình sao. Tôm yếu, các tế bào sắc tố thường lan rộng làm thành những vạch nối tiếp nhau phía dưới phần bụng.

-Tôm có các đốt ở bụng càng dài càng tốt và tôm sẽ lớn nhanh. Tôm có đuôi hình dáng chữ V và góc hai râu sát nhau như góc chữ V là tôm khoẻ.

– Không có nấm, vi khuẩn hay nguyên sinh động vật bám ở chân, bụng, đuôi, vỏ và mang tôm. Các nhóm này sẽ làm cản trở sự hô hấp và lột xác của tôm.

3. Phương pháp gây sốc

Phương pháp này đánh giá khả năng chịu đựng và tình trạng sức khỏe của tôm giống.

Gây sốc độ mặn

Lấy mẫu khoảng 100-200 con tôm post, nếu nước trong bể ương tôm có độ mặn trên 20‰, thì pha nước mặn và nước ngọt với tỉ lệ 1:1, nếu độ mặn nước bể ương thấp hơn 20‰ có thể cho tôm vào thẳng trong môi trường nước ngọt. Sau 2 giờ, nếu tỷ lệ tôm chết dưới 5% là đàn tôm tốt.

Gây sốc formol

Lấy khoảng 10 lít nước trong bể ương tôm, pha dung dịch Formol nồng độ 200 ppm (2cc/10 lít nước), cho vào khoảng 100 tôm post. Sau 2 giờ, nếu tôm chết không quá 5% thì đàn tôm đạt yêu cầu.

4. Phương pháp PCR

Phương pháp này đánh giá được đàn tôm có nhiễm hay không nhiễm một số bệnh virus như đầu vàng (YHV), đốm trắng (WSSV), (MBV)…

Được thực hiện bởi các phòng thí nghiệm bệnh thủy sản. Trước khi chọn mua con giống, người nuôi cần lấy mẫu gởi xét nghiệm.

Một số lưu ý:

  • Nên mua tôm giống tại cơ sở có có giấy phép hành nghề cung cấp tôm giống (tôm giống đã qua sự kiểm dịch và đồng ý cho phân phối của cơ quan chuyên môn).
  • Nên chọn đàn tôm giống từ một mẹ, tránh tình trạng nhiều tôm mẹ đẻ chung một bể, chất lượng ấu trùng sẽ không đồng đều.

Tổng hợp lại tiêu chuẩn chọn tôm giống trong bảng sau :

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

 

Phòng, chữa bệnh hiệu quả cho cá nuôi với 7 loại thảo mộc

Biến động của thời tiết như rét đậm, rét hại, xâm nhập mặn đã làm sức đề kháng của cá nuôi bị suy giảm, tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập, gây ra các bệnh. Để phòng bệnh theo hướng an toàn, việc sử dụng những loại thảo mộc sẵn có trong tự nhiên sẽ giúp xử lý môi trường ao nuôi, phòng ngừa dịch bệnh, giúp cá phát triển tốt.

1. Lá xoan – trị bệnh trùng mỏ neo, trùng bánh xe


Đặc tính của cây xoan có vị đắng, cá được cọ xát thì những con trùng mỏ neo, trùng bánh xe không bám vào vây và da.

Cách phòng bệnh: Định kỳ 15 ngày ngâm lá xoan trong ao một lần với liều lượng 10 kg cành lá/100 m2 ao; hoặc 20 – 25kg lá xoan/lồng 8m3; có thể bón lót xuống ao với liều 0,3 kg/m3 trước khi thả cá vào ao ương 3 ngày.

Trị bệnh: Lấy cành lá xoan non bó thành lại đem ngâm trong ao nuôi cá đang có trùng mỏ neo, trùng bánh xe gây bệnh; cũng có thể ngâm trong bè hoặc vèo nuôi cá ở phía đầu nguồn nước với lượng 1,5 – 2,0 kg lá xoan/150 – 200 m2 ao đến khi thấy lá xoan bị mục thì vớt cành ra khỏi ao.

2. Lá đu đủ tía (lá thầu dầu) – trị bệnh loét mang, đốm đỏ ở cá

Lá đu đủ tía (cây thầu dầu),có vị đắng chứa hoạt chất Ricin, dùng để chữa bệnh loét mang, đốm đỏ ở cá.

Cách phòng bệnh: Định kỳ 15 ngày ngâm lá đu đủ tía trong ao một lần với liều lượng 15 kg cành lá đu đủ tía/1000 m2 ao.

Trị bệnh: Lấy lá đu đủ tía bó thành bó ngâm xuống ao với lượng 2,5 – 3 kg lá/150 – 200 m2 ao. Đối với lồng nuôi cá ngâm 15 – 20 kg lá/8 – 10 m3 lồng.

3. Cây rau sam – trị bệnh viêm ruột do virus ở cá trắm cỏ

Cây rau sam có chứa beltalan ankaloit dùng chữa bệnh viêm ruột do vi khuẩn cho cá trắm cỏ.

Cách phòng bệnh: Định kỳ 10 ngày cho cá ăn một lần với liều lượng 1 kg rau sam/100 kg cá.

Trị bệnh: Lấy rau sam đem rửa sạch rồi thả vào khung cho cá ăn một lần/ngày, liên tục trong 5 – 7 ngày, với 1,5 – 3 kg rau/100 kg cá. Đối với cá giống, cần băm nhỏ rau rắc đều trên mặt ao, chú ý để cá thật đói rồi mới cho ăn.

4. Cây răng cưa (chó đẻ) – trị bệnh hoại tử ở cá trê


Cây chó đẻ răng cưa, là kháng sinh đối với vi khuẩn gây bệnh hoại tử ở cá trê, vòng kháng khuẩn 11 – 20 mm.

Cách sử dụng: Dùng 5 kg cây tươi, giã lấy nước rồi trộn vào 100 kg thức ăn để trị bệnh cho cá.

5. Cây nghể – trị bệnh viêm ruột, loét mang cho cá trắm cỏ, rô phi

Là loài cỏ mọc hoang dại ở nơi ẩm thấp (thường thấy ở các đầm lầy) sống quanh năm, thân cây có nhiều nhánh, lá hình lưỡi mác, có hoa đỏ mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá. Cây có vị cay nóng, hắc.

Cách trị bệnh: Lấy thân cây và lá băm nhỏ, nấu kỹ lấy nước, sau đó trộn với thức ăn cho cá ăn, với liều lượng 3kg thân lá nghể tươi/100kg cá giống, cho cá ăn liên tục từ 3 – 6 ngày. Cũng có thể dùng lá nghể khô xay thành bột trộn với thức ăn cho cá, 1-2kg nghể khô/100kg cá giống.

6. Cây sòi – trị bệnh thối rữa mang và trắng đầu ở cá


Cây sòi còn có tên khác là ô thụ quả, ô du, thác tử thụ. Cây sòi có nhựa, có khả năng diệt khuẩn. Dùng lá sòi để trị bệnh thoái rửa mang, tráng đầu ở cá. Lấy cành bó thành bó nhỏ cho xuống ao.

Trị bệnh: Cần bón xuống ao với nồng độ 6,0 ppm (6,0 gram cành lá sòi phơi khô/m3 nước) Thường dùng 1 kg cành lá sòi khô (hoặc 4 kg tươi) ngâm vào 20 kg vôi sống 2% trong một đêm, sau đó đun sôi 10 phút, pH trên 12 rồi bón xuống nước.

7. Cây cỏ sữa lá nhỏ – trị bệnh viêm ruột, bệnh thối rữa mang của cá do vi khuẩn

Cây cỏ sữa lá nhỏ có phổ kháng khuẩn rộng, có tác dụng ngưng máu, trung hoà độc tố. Dùng toàn thân cây để trị bệnh viêm ruột, thoái hoá mang cá do vi khuẩn gây ra.

Trị bệnh: Dùng 50 gram cây cỏ sữa khô hoặc 200 gram cây được giã thành bột + 20 gram muối cho 10 kg trọng lượng cá ăn trong 1 ngày, ăn liên tục trong 3 ngày.

Theo báo Nghệ An, được tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

5 sai lầm thường gặp nhất khi nuôi tôm

Trong thực tiễn sản xuất, nhiều hộ nuôi tôm theo đuổi mục tiêu sản lượng cao trong khi đầu tư không đúng mức dẫn đến tôm phát triển chậm, bệnh nhiều, tỷ lệ hao hụt cao.

1. Chất lượng giống thấp

Chất lượng tôm giống đóng vai trò tiên quyết đến sự thành bại của vụ nuôi, nhưng đến nay, nhiều người vẫn chủ quan trong khâu lựa chọn tôm giống chất lượng đưa vào sản xuất. Với những lý do ngại liên hệ với những cơ sở sản xuất giống uy tín, phải chờ đợi giống, và giá thành đắt hơn 2 – 3 lần so với giá tôm đại trà. Để tránh thiệt hại do tôm giống kém chất lượng, cần lựa chọn tôm giống có ngoại hình đẹp, khỏe mạnh, ở những địa chỉ uy tín, đã được kiểm dịch. Nếu có điều kiện thì nên kiểm tra, nếu âm tính với những mầm bệnh nguy hiểm thì đưa vào thả nuôi.

2. Nuôi với mật độ quá cao

Mật độ của tôm nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của tôm nuôi và cỡ thu hoạch. Tôm nuôi ở mật độ thấp có tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống cao hơn so với nuôi ở mật độ cao. Khi nuôi tôm với mật độ quá cao mà không đảm bảo các yếu tố kỹ thuật sẽ dẫn đến hiện tượng tôm chậm lớn, hệ số chuyển hóa thức ăn cao, hao hụt nhiều do thiếu ôxy hòa tan, là yếu tố có thể làm cho vụ nuôi bị thất bại . Nuôi tôm thẻ chân trắng thông thường nên nuôi với mật độ 60 – 80 con/m2, tôm sú nuôi với mật độ 15 – 25 con/m2.

3. Không tuân thủ kỹ thuật nuôi

Việc định hướng quy trình kỹ thuật trong nuôi tôm là việc làm hết sức quan trọng, quyết định rất lớn đến khả năng tự kháng bệnh của tôm và tác động đến môi trường nuôi. Để hạn chế những sự cố có thể xảy ra trong quá trình nuôi, ảnh hưởng đến sức khỏe tôm, cần tuân thủ thực hiện các khâu kỹ thuật như chuẩn bị, cải tạo ao, phương pháp cho ăn, phòng bệnh chủ động cho tôm nuôi…

4. Chế độ dinh dưỡng không được quan tâm đúng mức

Trong môi trường công nghiệp với mật độ cao, hàm lượng ôxy hòa tan khó đảm bảo tối ưu thì việc hỗ trợ tiêu hóa và quá trình hấp thụ thức ăn rất quan trọng, vì nó quyết định được hệ số chuyển đổi thức ăn, quyết định chi phí nuôi tôm. Thực tế áp dụng cho thấy, việc bổ sung thêm men tiêu hóa, vi sinh sẽ tăng quá trình chuyển hóa và hấp thụ thức ăn. Cùng đó, một số sản phẩm khoáng vi lượng và các loại vitamin có tác dụng tăng cường sức đề kháng tự nhiên cho tôm, là giải pháp hữu hiệu giúp phòng bệnh cho tôm nuôi. Tuy nhiên, hiện nhiều người nuôi vẫn không chú ý đến nhu cầu và chế độ bổ sung các hàm lượng dinh dưỡng cho tôm.

5. Lạm dụng vôi

Việc sử dụng vôi trong nuôi tôm là rất cần thiết trong cải tạo ao, duy trì chất lượng nước trong ao hoặc để khắc phục hiện tượng pH xuống thấp. Tuy nhiên, cần tuân thủ đúng liều lượng, nếu sử dụng quá nhiều xuống ao, hàm lượng Ca2+ tăng làm cho quá trình sinh hoá và hoá lý trong ao giảm dẫn đến là giảm hàm lượng vi sinh vật có lợi, tôm kém phát triển. Khi cải tạo ao, lượng vôi bón phụ thuộc vào độ pH đất. pH đất từ 4,5 – 5,5, bón với lượng 1,5 – 2,5 tấn/ha; pH từ 5,1 – 6, bón vôi với lượng 1 – 1,5 tấn/ha; pH từ 6,1 – 6,5, bón vôi với lượng 0,5 – 1 tấn/ha. Trong quá trình nuôi, để duy trì chất lương nước, định kỳ 10 ngày/lần, bón vôi vào lúc 21 – 22 giờ, liều lượng 10 – 20 kg/1.000 m3 nước, tùy theo tình hình thực tế môi trường ao nuôi để điều chỉnh, khi pH thấp hơn 7,5 cần bón vôi CaCO3 hoặc Dolomit với liều 15 – 20 kg/1.000 m3 nước.

Nguồn: Thuysanvietnam.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp gây màu nước trong ao nuôi tôm theo VietGAP

Theo báo cáo của Cục thúy y, 9 tháng đầu năm 2015 cả nước có 44.781 ha nuôi tôm nước lợ bị dịch bệnh và thiệt hại trên diện tích thả nuôi 648.568 ha, cao hơn so với cùng kỳ năm 2014 (43.701 ha). Trong đó, thiệt hại do bệnh 17.350 ha (chiếm 38,7%), thiệt hại do biến đổi thời tiết, môi trường, dinh dưỡng 28.028 ha (chiếm 62,5%), chưa xác định được nguyên nhân 2.008 ha. Như vậy, thiệt hại về môi trường, dinh dưỡng, thời tiết rất lớn, mà thiệt hại về môi trường và dinh dưỡng là do yếu tố chủ quan của con người gây ra. Để hạn chế thiệt hại trên, xin giới thiệu một số phương pháp gây màu đảm bảo ổn định môi trường nước trong ao nuôi tôm nhằm hạn chế thiệt hại và dịch bệnh.

Sau khi chuẩn bị ao, hồ xong tiến hành gây màu nước, mục đích nhằm phát triển vi sinh vật phù du, ổn định màu nước, tạo môi trường thuận lợi cho tôm phát triển nhanh, tăng tỷ lệ sống. Một số phương pháp gây màu đạt hiệu quả cao như sau:

1. Phương pháp thứ nhất:

Theo công thức 2:1:2 (thành phần gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành). Trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm). 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

2. Phương pháp thứ hai:

Theo công thức 3:1:3 (thành phần gồm 3 kg mật đường + 1 kg cám gạo (hoặc cám ngô) + 3 kg bột đậu nành). Công thức này không cần nấu chín, trộn đều sau đó ủ kín trong 12 giờ. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 2 – 3 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm), 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

3. Phương pháp thứ ba: Sử dụng chế phẩm EM

3.1. Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm EM

Đối với con nuôi thủy sản: Điều kỳ diệu là EM có tác dụng tốt đối với mọi loài động vật thủy sản.

  • Tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu của con nuôi với các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
  • Tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ các loại thức ăn của con nuôi.
  • Kích thích tăng trưởng của con nuôi.
  • Tăng sản lượng và chất lượng.
  • Tiêu diệt các vi sinh vật có hại.
  • Hạn chế ô nhiễm môi trường.

Đối với môi trường:

  • Tiêu diệt các vi sinh vật gây ô nhiễm (H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh, chuồng trại, ao nuôi,… sẽ khử mùi hôi nhanh chóng.
  • Giảm số lượng ruồi, muỗi, côn trùng trong môi trường.
  • Khử mùi rác hữu cơ và tăng tốc độ mùn hóa.
  • Ngăn chặn quá trình gây thối, mốc trong bảo quản nông sản.
  • Hiệu quả cao, an toàn với môi trường và giá thành rẻ.

3.2. Sản xuất EM2 từ EM gốc (nhằm hạ thấp chi phí sản xuất):

Nguyên liệu (với thùng chứa 50L):

  • 1 kg mật đường
  • 2 kg cám gạo hoặc bột ngô
  • 10 g muối ăn
  • 1 lít EM gốc
  • 46 lít nước sạch khuẩn

Chế phẩm EM gốc

Cách tiến hành: Với các thể tích lớn hơn (100L, 200L, 500L,…) thì tăng các loại nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng với tăng thể tích.

  • Vô trùng các thùng chứa
  • Lấy 46 lít nước ngọt, sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)
  • Cho 1 kg mật đường, khuấy đều
  • Cho 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, khuấy đều
  • Cho vào 10 g muối ăn, khuấy đều
  • Cho vào 1 lít EM gốc, khuấy đều
  • Đậy nắp ủ yếm khí trong thời gian 7 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý nước: 50 lít EM2/1.000 mnước
  • Xử lý đáy ao: 10 lít EM2/1.000 m2 đáy ao
  • Sử dụng định kỳ trong các ao nuôi: 50 lít EM2/1.000 mnước, trong tháng nuôi đầu 5 – 7 ngày/lần, tháng thứ 2 sử dụng 3 – 5 ngày/lần, tháng thứ 3 trở đi 2 – 3 ngày/lần.
  • Sử dụng xử lý mùi hôi thối: Dùng bình xịt phun EM2 trực tiếp lên bề mặt các nơi sinh ra mùi hôi thối.

Chế phẩm EM2

3.3. Sản xuất EM5 từ EM gốc:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM gốc
  • 1 lít mật đường
  • 1 lít giấm
  • 2 lít rượu

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 2 lít rượu → 1 lít giấm → 1 lít mật đường → 1 lít EM gốc → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 3 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý đáy ao: 5 lít EM5/1.000 m2
  • Xử lý nước: 4 lít EM5/1.000 m3, định kỳ 7 ngày/lần, khi tôm lớn tăng số lần sử dụng.
  • Phòng và trị bệnh: Theo hướng dẫn ở phần cuối

3.4. Sản xuất EM tỏi từ EM5:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM 5
  • 1 kg tỏi xay nhuyễn
  • 8 lít nước sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 8 lít nước → 1 kg tỏi xay nhuyễn → 1 lít EM5 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

  • Phòng bệnh: 1 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn định kỳ.
  • Trị bệnh: Sử dụng liều lượng gấp đôi, cho ăn liên tục 7 – 10 ngày, sau đó quay lại liều phòng.

3.5. Sản xuất EM chuối từ EM2:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM2
  • 1 kg chuối lột vỏ, xay nhuyễn

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 1 kg chuối lột vỏ xay nhuyễn → 1 lít EM2 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

1 lít EM chuối + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn liên tục.

NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH:

– Không sử dụng chế phẩm vi sinh đồng thời với kháng sinh và hóa chất diệt khuẩn.

– Sử dụng đúng liều lượng, không nên theo quan niệm sử dụng càng nhiều càng tốt.

– Chế phẩm vi sinh dạng bột nên dùng nước của ao nuôi hòa tan và sục khí mạnh 2 – 4 giờ trước khi sử dụng để gia tăng sinh khối vi khuẩn.

– Chế phẩm vi sinh dạng nước nên ủ yếm khí để gia tăng sinh khối trước khi sử dụng.

– Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất vào khoảng 8 – 10h sáng, lúc nắng ấm, trời trong và hàm lượng oxy hòa tan cao.

– Cần định kỳ xử lý vi sinh để duy trì mật độ vi khuẩn thích hợp nhằm kiểm soát sinh học môi trường nước và đáy ao, ổn định các yếu tố môi trường ao nuôi, ngăn ngừa các loài vi khuẩn gây bệnh, tảo độc và mầm bệnh tiềm tàng trong ao.

Các yếu tố môi trường ao nuôi ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng chế phẩm vi sinh:

– Oxy hòa tan: Vi khuẩn hiếu khí (Bacillus) và vi khuẩn hiếu khí nghiêm ngặt (VK nitrat) phải đảm bảo lượng oxy hòa tan đầy đủ có hiệu quả sử dụng. Khi oxy hòa tan thấp sẽ sử dụng không có hiệu quả.

– Độ kiềm, độ mặn: nước có độ kiềm cao (80 – 150mg CaCO3/l) → pH ổn định, nước có độ kiềm thấp (50mg CaCO3/l) → pH dao động → hiệu quả sử dụng vi sinh giảm thấp. Độ mặn quá cao → gây chết hoặc ức chế sinh trưởng của vi sinh.

– Thời tiết: ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của tảo và màu nước → ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vi sinh. Sử dụng vi sinh tốt nhất vào buổi sáng trời trong.

– Dinh dưỡng: cần bổ sung C thì vi khuẩn nitrat mới thực hiện phản ứng khử N-NH3 → NO3 có hiệu quả.

Thời gian và tần suất sử dụng:

  •  Nên sử dụng vi sinh ngay từ đầu vụ → hiệu quả cao.
  • Từ giữa vụ đến cuối vụ sử dụng vi sinh → hiệu quả thấp.
  • Đầu vụ 7 – 10 ngày sử dụng một lần, từ giữa đến cuối vụ 3 – 4 ngày sử dụng một lần.

Liều lượng sử dụng:

  • Sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
  • Sử dụng quá nhiều → mất cân bằng sinh thái, DO giảm, vật nuôi bị kích ứng stress.
  • Sử dụng quá ít → không đạt hiệu quả tốt.

Nuôi cấy tăng sinh khối vi khuẩn:

  • Một số chế phẩm vi sinh cần phải nuôi cấy để tăng số lượng vi khuẩn, cần nuôi cấy yếm khí để tránh tạp nhiễm.
  • Một số chế phẩm vi sinh có mật số vi khuẩn cao không cần nuôi cấy tăng sinh khối có thể sử dụng trực tiếp vào ao nuôi. Tuy nhiên cần hòa vào nước và sục khí mạnh vài giờ trước khi tạt vào ao nuôi.

Các nhân tố khác:

  • Nguyên sinh động vật quá nhiều sẽ ăn vi khuẩn → mật độ vi sinh giảm thấp.
  • Sử dụng đồng thời chất diệt khuẩn, kháng sinh, thay nước,… sẽ giảm hiệu quả sử dụng vi sinh.

CÁCH PHÒNG TRỊ MỘT SỐ BỆNH TÔM BẰNG CHẾ PHẨM VI SINH

Tôm nổi đầu do khí độc:

  • Hòa tan 2-3 lít EM gốc vào 20 lít nước lấy từ ao nuôi rồi tạt đều vào ao nuôi ngay lúc tôm nổi đầu.
  • Mở các dàn quạt chạy hết công suất.

Tôm bị mòn đuôi, cụt râu:

  • Sử dụng 2 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn
  • Trộn đều và ủ kín 4 giờ
  • Cho tôm ăn với tỷ lệ: 1kg/100.000 tôm giống/ngày
  • Hoặc sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp 3 lần với khoảng cách 2 ngày/lần.

Tôm bị đóng rong:

  • Dùng 4 lít EM5/1.000 m2, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tảo chết nhiều → pH thấp → dùng vôi để nâng pH.

Tôm bị bệnh đốm trắng:

  • Sử dụng 5 lít EM5/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tôm lột xác nhiều ngừng sử dụng EM5 và sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/2 ngày, dùng liên tiếp đến khi bệnh đốm trắng giảm dần (Thái Lan đã sử dụng có hiệu quả trên 10 năm).

Nguồn: Trung tâm khuyến nông quốc gia được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Một số vấn đề cần lưu ý khi canh tác lúa trên đất nuôi tôm

Thời vụ:
Bố trí mùa vụ thích hợp giúp cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, đạt năng suất cao.
Đối với lúa cấy: gieo mạ vào đầu đến nửa tháng 8, cấy vào cuối tháng 9. Đối với lúa sạ: sạ từ tháng 8 đến giữa tháng 9.
Chuẩn bị đất:
Cần tận dụng mọi nguồn nước ngọt (nước mưa, nước kênh mương…) để rửa mặn nhiều lần (5 – 7 lần) trong thời gian từ 20 – 30 ngày. Trước khi xổ nước rửa mặn cần bừa trục và ngâm đất 7 – 10 ngày để giúp rửa mặn tầng đất được sâu hơn. Khi nồng độ mặn còn 1 – 2%o thì xuống giống.


Cơ cấu giống lúa:
Chọn giống lúa có khả năng chịu mặn, kháng sâu bệnh, năng suất ổn định để canh tác.
Lượng giống sạ, cấy:
– Gieo mạ 40 – 50kg giống/1.000m2 (cấy cho 1ha).
– Gieo sạ 100 – 120kg lúa giống cho 10.000m2 (lúa cao sản).
– 40 – 60kg lúa giống, sạ cho 10.000m2 (lúa mùa Một bụi đỏ).
Lượng phân bón cho 1 công tầm cấy đối với lúa cấy: 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 25 – 30kg phân lân). 5 – 7kg phân urê + 6 – 10kg phân NPK (20-20-15).
– Cách bón:
Lần 1: Bón 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 25 – 30kg phân lân) trước khi bừa trục lần cuối. Lần 2: Bón sau khi cấy 5 – 7 ngày 1/2 lượng urê + 2/3 phân NPK. Lần 3: Bón sau khi cấy 30 – 35 ngày 1/2 lượng urê + 1/3 NPK.
Lượng phân bón cho 1 công tầm cấy đối với lúa sạ: Bón 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 30 – 35kg phân lân). 6 – 10kg phân urê + 10 – 13kg phân NPK (20-20-15).
– Cách bón:
Lần 1: Bón 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 30 – 35kg phân lân) trước khi bừa trục lần cuối. Lần 2: Sau khi sạ 5 – 7 ngày bón 1/2 lượng urê. Lần 3: Sau khi sạ 20 – 25 ngày bón 1/2 lượng urê + 1/2 NPK. Lần 4: Sau khi sạ 40 – 45 ngày bón 1/2 lượng NPK.


Chú ý:
– Luôn giữ mực nước ruộng 1 – 2 tấc trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển của cây lúa.
– Phòng trừ cỏ dại.
– Áp dụng triệt để các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cho lúa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phòng tránh tôm chết hàng loạt

Tôm chết hàng loạt do mắc bệnh là tình trạng thường gặp trong quá trình nuôi tôm theo hình thức công nghiệp. Do đó việc phòng tránh hiện tượng tôm chết hàng loạt để đảm bảo năng suất là điều cực kỳ quan trọng.

Một số nguyên nhân, cách phòng tránh tôm chết hàng loạt:

Môi trường bị ô nhiễm do phèn hóa

Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tôm chết hàng loạt. Trước hết, có thể là do nguồn nước nuôi tôm bị nhiễm phèn. Trong đó, phèn cũng có hai loại phèn sắt (phèn nóng) và phèn nhôm (phèn lạnh), cũng có khi do hỗn hợp của cả hai loại phèn này, trong điều kiện pH của môi trường nước thấp. Phèn thường xuất hiện khi ta xử lý ruộng, đào kinh, lên liếp, bao ví thành vuông tôm mà không tuân thủ đúng kỹ thuật nuôi tôm và đào ao nuôi tôm. Đặc biệt, đất vùng nuôi tôm chủ yếu là vùng đất mặn trên nền phèn tiềm tàng.

Đặc tính nổi bật của loại đất này là trong điều kiện có nước mặn, nước lợ thường xuyên trên mặt, sẽ khống chế, đất không bị phèn hóa, ruộng tôm vẫn an toàn. Nhưng nếu ta đào đắp hay xáo trộn đất hay để đất tiếp xúc với oxy trong không khí thì quá trình phèn hóa xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Kết quả của quá trình này là các chất như: Al3+, Fe2+, SO4(-2) sẽ xuất hiện rất nhanh và rất nhiều. Còn trình tự xuất hiện trước hết là Fe2+ rồi đến SO4(-2) và cuối cùng, khi pH xuống thấp thì giải phóng ra rất nhiều Al3+ từ các lớp đất sét. Lúc này, nồng độ các độc chất tăng nhanh, đột ngột, có thể từ 0ppm (phần triệu) tăng lên đến hàng trăm và có thể hàng ngàn ppm. Tuy nhiên, khả năng chịu đựng của tôm với các chất độc này rất thấp, nhất là với nhôm, chỉ 4,5 – 10,5ppm là có ảnh hưởng tới tôm, nhất là đối với tôm con. Cho nên, khi xây dựng ruộng thành vuông tôm thì người nuôi phải chú ý, tuân thủ kỹ thuật nuôi tôm và đào ao nuôi tôm để không cho quá trình phèn hóa xảy ra.

Mặt khác, những người nuôi tôm ở vùng này phải chú ý tránh không cho nước rỉ ra từ bờ đắp chảy vào vuông tôm, sau những ngày mới đắp và nhất là sau những trận mưa đầu mùa hay trận mưa nghịch mùa (giữa mùa khô). Bởi vì, trong nguồn nước này chứa rất cao nồng độ độc chất Al3+, Fe2+ và SO4(2-) có thể gây tình trạng tôm bị chết hàng loạt. Một điều rất đặc biệt trong trường hợp này người nuôi tôm rất khó nhận biết hiện tượng. Bởi vì, nó xuất hiện rất nhanh, sau đó liền bị khỏa lấp bởi nước triều lên. Với những người chưa có kinh nghiệm nuôi tôm thì rất khó phát hiện đúng nguyên nhân gây bệnh, do đó kết luận là virus.

Virus

Khi tôm bệnh do virus tôm sẽ chết rất nhanh và khó kiểm soát, nhất là nuôi tôm trong mùa mưa.

Nguyên nhân tôm thường bị chết hàng loạt là do người nuôi mua phải giống tôm nhiễm virus từ nguồn cung cấp trôi nổi không được kiểm soát do đó việc tuân thủ kỹ thuật nuôi tôm chọn tôm giống ban đầu là cực kỳ quan trọng và cần thiết.

Bên cạnh đó, cũng có ruộng tôm, giống tốt không bệnh nhưng sau một thời gian chúng bị nhiễm bệnh virus ngay trong ruộng hay lây nhiễm từ ruộng bên cạnh, từ nguồn nước ô nhiễm chứa virus. Tôm ở mọi lứa tuổi khi bị nhiễm, nổi lên vật vờ rồi chết. Cần có sự theo dõi sát sao và làm chỉ dẫn của các chuyên gia.

Nhiễm độc hữu cơ

Một nguyên nhân khác làm cho tôm chết hàng loạt là tôm bị nhiễm độc hữu cơ từ đáy ao. Điều này thường xảy ra ở vuông tôm sau 3 – 4 năm nuôi trồng. Bởi chất hữu cơ từ thức ăn thừa lắng xuống đáy ao, kết hợp các loại rong tảo chết, phân giải yếm khí, sản sinh nhiều độc tố như khí hydro sunfua hay mêtan hoặc các hợp chất dạng cơ kim. Tôm có thói quen vùi mình trong các lớp trầm tích ở đáy ao để ngủ nghỉ hay tránh nắng nóng, khi gặp độc chất này thì gây chết rất nhanh.

Vì vậy, người nuôi phải nghiên cứu kỹ các yếu tố môi trường, nắm vững kỹ thuật nuôi với những điều kiện từng nơi. Bên cạnh đó, cần thận trọng hơn trong việc nuôi tôm ruộng lúa đã ngọt hóa, trong rừng ngập mặn và nhất là những ruộng nằm trên nền đất phèn tiềm tàng.

Nguồn: ConTom được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Lợi ích cá rô phi trong ao tôm

Môi trường vùng nuôi xuống cấp sau nhiều năm nuôi liên tục, quy trình nuôi thâm canh tăng mạnh thì ít nhất giải pháp này sẽ góp phần giảm bớt lượng thuốc, hóa chất đưa xuống ao nuôi, cá rô phi còn giúp giảm áp lực khí độc dưới đáy ao nuôi tôm, như các nhà khoa học nhận định: “cá rô phi là máy lọc nước sinh học” cho ao nuôi tôm.

Ông Nguyễn Văn Nhiệm – Chủ tịch Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh tỉnh Sóc Trăng cho biết: “Môi trường xuống cấp nghiêm trọng, ở đây nhiều bà con trong hiệp hội cũng đã nuôi cá rô phi ghép trong ao nuôi, lấy nước nuôi cá rô phi để nuôi tôm thời gian vừa qua bà con làm rất hiệu quả. Tuy nhiên đây là biện pháp nuôi để ổn định môi trường, hạn chế thuốc hóa chất nhất là môi trường nước trong ao rất tốt, ít tốn chi phí để xử lý”.

Khi môi trường vùng nuôi thâm canh, tăng vụ với quy mô hơn 30.000 ha, canh tác mang tính chuyên canh nhiều năm liên tục đã gây ra tình trạng suy thóai, môi trường ao nuôi thì biện pháp nuôi cá luân canh, nuôi ghép cá rô phi trong ao là giải pháp khắc phục môi trường ao nuôi hữu hiệu trong giai đoạn này.

KS Trần Hoàng Dũng – Phó Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trần Đề cho biết: “Ngoài con cá rô phi thì cá kèo, cá chẻm,… có thể nuôi để rồi sau đó lấy nước để nuôi tôm.

Chúng ta có thể nuôi một vụ cá kèo, cá chẻm sau vài tháng thì lấy nước vào ao nuôi rất hiệu quả. Tuy nhiên cá chẻm chi phí nuôi rất cao nên tốt nhất là nuôi cá rô phi để lấy nước nuôi tôm là tốt nhất, dễ làm nhất”.

Thạc sĩ Lâm Ánh Tiên – Phó Trưởng Phòng Kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng cho biết thêm: “Các nhà khoa học cũng đã chứng minh được hình thức nuôi cá phi trong ao, nuôi lồng, nuôi cá lấy nước nuôi tôm thì lợi ích khá lớn vì nguồn nước này có chứa các loại vi khuẩn có lợi.

Nuôi cá rô phi trong ao lắng là một phương pháp vệ sinh nước trước khi nuôi tôm, giảm bớt tối đa sự phát sinh mầm bệnh xảy ra trong ao tôm. Theo thống kê thì ao nuôi cá rô phi có màu nước tốt, ít tảo tàn, môi trường ổn định. Cá rô phi có khả năng làm xanh nước, giảm sự phát triển vi sinh vật. Nhiều nhà khoa học cho rằng lấy nước nuôi cá rô phi phục vụ nuôi tôm có lợi ích khá lớn, vì nguồn nước này chứa vi khuẩn có lợi. Hơn nữa, cá rô phi còn sử dụng xác tôm, cá, động vật thủy sản chết, từ nguồn nước lấy vào hệ thống ao lắng, nhằm hạn chế sự phát tán của sinh vật gây bệnh từ ngoài vào hệ thống nuôi. Như vậy, nuôi cá rô phi trong ao lắng để có nguồn nước chất lượng tốt, dùng trong ao nuôi tôm hạn chế tối đa sự phát triển mầm bệnh.

Nghiên cứu của Đại học Arizona (Mỹ) đã xác định cá rô phi giúp thiết lập hệ sinh thái vi sinh trong nước với các quần thể tảo và vi khuẩn cân bằng. Trong một hệ sinh thái vi sinh cân bằng như vậy, vi khuẩn gây bệnh ít có cơ hội phát triển đến đủ mật độ có thể gây bệnh cho tôm. Vì vậy, nuôi cá rô phi trong ao lắng trước khi bơm vào ao nuôi có thể đem lại tác dụng phòng bệnh tích cực, giúp khống chế bệnh hoại tử gan tụy cấp.

Nuôi ghép cá phi sẽ làm giảm các độc tố đáy ao tôm, như khí NH3 gây ô nhiễm nền đáy ao. Mặt khác khi lấy nguồn nước này thì các chất lơ lững trong ao nuôi rất hạn chế, có lợi cho nuôi tôm”.

Lợi ích từ quy trình luân canh để lấy nước từ ao nuôi cá sang nuôi tôm, hình thức nuôi ghép, nuôi đăng quầng… đã khẳng định được tính hiệu quả, song hình thức này cũng chỉ phù hợp với mật độ thấp, còn đối với quy trình nuôi tôm thâm canh hiệu quả nhất cũng chỉ ở mật độ 30 – 40 con/m2 là thích hợp.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, đặc biệt là hệ thống thủy lợi vừa giữ vai trò cấp nước vừa thoát nước như hiện nay thì xu hướng nuôi tôm an toàn sinh học là hướng phát triển trước mắt đối với vùng nuôi tôm giai đoạn hiện nay.

Những ao lắng được nuôi cá rô phi, những đăng quần giữa ao nuôi, nuôi ghép cá rô phi trong ao tôm xuất hiện ngày càng nhiều là một tín hiệu đáng phấn khởi trước xu thế nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh tăng nhanh như hiện nay.

Nguồn: Tomvang được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp mới ngăn ngừa tuyến sinh dục cá phát triển

Các nhà khoa học Hoa Kỳ mới đây đã tìm ra một phương pháp mới gây bất dục trên cá bằng cách ngăn cản sự phát triển của tế bào mầm mà không dùng kỹ thuật gây đột biến hay chuyển gen. Mở ra một triển vọng nhằm nâng cao năng suất thịt cá và an toàn cho người tiêu dùng.

Lợi ích của việc gây bất dục trên cá

Việc gây bất dục cá nuôi cung cấp cho ngành nuôi trồng thuỷ sản một số lợi ích đáng kể. Đối với nông dân, nó có thể ngăn chặn cá thành thục sinh dục sớm hơn mong muốn vì sự trưởng thành sớm sẽ làm giảm chất lượng thịt và làm cho cá dễ bị bệnh hơn.

Việc gây bất dục cũng có thể hạn chế tác động môi trường của chúng trong việc phòng ngừa các mầm bệnh, vốn thường không tối ưu trong cuộc sống ngoài tự nhiên.

Phương pháp làm bất dục cá

Trình tự của sự làm bất dục theo phương pháp mới này là: Trứng được tiếp xúc với áp suất cao hoặc nhiệt độ cao, phá vỡ chuyển động của nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào. Các trứng được xử lý sẽ giữ lại nhiều nhiễm sắc thể hơn bình thường – ba thay vì chỉ hai – làm cho động vật không có khả năng sinh sản sau này.

Biện pháp này cũng đã được sử dụng trong các hệ thống nông nghiệp trên cạn. Hầu hết các loại chuối và dưa hấu không hạt mà chúng ta ăn chẳng hạn. Cũng có thể gây bất dục cho từng cá thể – chẳng hạn như làm bất dục bằng thủ công nhưng cần có nhiều thao tác hơn – và thực sự chỉ thích hợp cho việc xử lý một số lượng nhỏ cá cùng một lúc.

Các bước của phương pháp tạo ra cá bất dục cho nuôi trồng thuỷ sản. Các hợp chất gây bất dục được điều khiển bởi ngâm tắm, phá vỡ sự phát triển của tế bào mầm ở giai đoạn rất sớm, dẫn đến sản xuất cá bất dục

Tiến sĩ Ten-Tsao Wong (Đại học Maryland, Quận Baltimore)cho biết các quy định khác nhau của các quốc gia cũng là một trở ngại đáng kể. Ngay cả khi có sự chấp thuận của chính quyền, vẫn còn một trở ngại nữa để vượt qua – đó là sự lựa chọn của người tiêu dùng, cho đến nay đã có sự phản đối đáng kể đối với cá biến đổi gen. Do đó nếu mọi việc suôn sẻ, quá trình này có thể mang lại nhiều lợi thế hơn: Nó không đòi hỏi phải có một giống cá mới biến đổi gen; Phương pháp tắm có thể dễ dàng kết hợp vào các phương pháp canh tác hiện đang được sử dụng; Và quá trình này có thể gây bất dục một số lượng lớn trứng trong một lần.

Wong, tác giả của nó được hỗ trợ bởi Chương trình Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản  Hoa Kỳ và Chương trình Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản NOAA, cũng đã xem xét việc phá vỡ sự phát triển tế bào mầm nguyên thủy bằng kỹ thuật ngâm chứ không phải là sự biến đổi di truyền. Ông đã phát triển một bồn tắm đặc biệt bao gồm một phân tử tổng hợp được thiết kế để phá vỡ biểu hiện gen, và một chất mang để đưa phân tử vào trứng. Việc xử lý ngăn ngừa tuyến sinh dục phát triển tạo ra cá bất dục. Wong hy vọng rằng trong vài năm tới, ông sẽ có thể đánh giá hiệu quả của cá được xử lý bằng phương pháp ngâm và so sánh chúng với cá tam bội.

Sự khác biệt giữa cá tam bội và cá lưỡng bội

Cá hồi Đại Tây Dương cá Triploid (tam bội) có nhu cầu về phốt pho cao hơn cá nheo – đặc biệt là những con non và trải qua sự tăng trưởng nhanh. Nghiên cứu của Tiến sĩ Per Gunnar Fjelldal (Viện Nghiên cứu Hàng hải, Na Uy) đã cho thấy rằng nếu không có đủ phốt pho – cá thậm chí cũng có thể tử vong. Điều này có nghĩa là triploid (3n) không nên chỉ đơn giản được cho ăn cùng một chế độ ăn như các đối tượng lưỡng bội (2n), như thường xảy ra. Chính xác bao nhiêu phốt-pho nên được thêm vào chế độ ăn của chúng để thực hiện tối ưu là một vấn đề cần điều tra nghiên cứu.

Cũng đã có kết luận rõ ràng rằng cá hồi tam bội nhạy cảm hơn với nhiệt độ và sự giảm ôxy (oxy thấp) hơn cá lưỡng bội bình thường. Theo Tiến sĩ Florian Sambraus (Viện Nghiên cứu Hàng hải, Nauy), có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, lượng thức ăn ăn được và tỷ lệ tử vong. Trong các thí nghiệm của mình, cá tam bội cho thấy lượng thức ăn ăn được cao hơn đáng kể so với cá lưỡng bội khi nhiệt độ trong khoảng từ 3° C đến 9°C, với lượng ăn vào đạt đến đỉnh điểm ở 12°C. Nguồn cung cấp thức ăn của lưỡng bội, đạt đỉnh điểm lúc 15°C, chỉ vượt qua cá tam bội một khi nhiệt độ vượt quá 12°C.

Khi họ xử lý cho các điều kiện thiếu oxy, cá triploid (3n) thực sự phải rất khó khăn: lượng thức ăn ăn vào giảm và ở nhiệt độ 18°C đã trở thành một vấn đề khó khăn đáng kể đối với chúng. Nghiên cứu cung cấp lời khuyên cho các nhà nuôi trồng thuỷ sản cá hồi: Chỉ nên nuôi cá hồi ta bội ở những nơi có tình trạng giảm ôxy hiếm khi xảy ra – và ở những nơi nhiệt độ nước không cao hơn 15°C. Nếu điều kiện thay đổi nhiều hơn nơi trang trại của bạn, cá lưỡng bội có thể là đối tượng an toàn nhất.

Kết luận: Phương pháp xử lý ngăn ngừa tuyến sinh dục phát triển để tạo ra cá bất dục bằng việc ngâm là một hứa hẹn trong tương lai bởi tốc độ tăng trưởng cũng như an toàn cho người tiêu dùng.

Nguồn: TheFishSite được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.