Kính nể lão nông ‘nghiệp dư’ nuôi Cá lồng kết hợp Trai lấy ngọc, thành công bất ngờ

Ông Hạnh kết hợp với Cty TNHH Thảo Vân triển khai thêm mô hình nuôi trai nước ngọt lấy ngọc. Những con trai đã cấy nhân để tạo ngọc được treo bên cạnh lồng cá sẽ giúp thanh lọc nguồn nước tại chỗ. Ông đầu tư hơn 400 triệu để nuôi 50.000 con trai lấy ngọc…

Dù có hoàn cảnh kinh tế khá giả, lại đã được nghỉ hưu nhưng ông Lưu Văn Hạnh (xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, Thái Nguyên) lại chọn cho mình một công việc mới vô cùng vất vả và nhiều bất trắc.

Quyết định táo bạo

Đầu năm 2016, khi nghe Thạc sỹ thủy sản Trần Viết Vinh (Đại học Nông lâm Thái Nguyên) nói về triển vọng, hiệu quả của việc nuôi cá lồng, ông Hạnh đã bị mê hoặc về ý tưởng đó.

Ông Lưu Văn Hạnh chăm sóc cá lồng

Cất công về thành phố tìm gặp thạc sỹ Vinh, ông trình bày ý tưởng để được hướng dẫn. Về nhà, ông viết dự án để trình Phòng NN-PTNT huyện Đại Từ phê duyệt. Tháng 4/2016, ông thành lập Cty TNHH Việt Nhật để thực hiện dự án, đầu tư ghép 30 lồng cá quy chuẩn trên hồ Gò Miếu (thuộc xã Ký Phú, huyện Đại Từ).

Người thân lo lắng phân trần, đã 60 tuổi, Nhà nước cho nghỉ lại còn lao đầu vào núi. Các con ông đều đã trưởng thành cả cũng lựa lời, điều kiện kinh tế có thiếu thốn gì mà bố lại một thân, một mình lên non.

Khi công nhân tiến hành ghép các lồng bè trên mặt hồ thì chính người dân bản địa cũng lo sợ vì nước hồ nơi này thiêng lắm. Người dân Ký Phú từ người già đến con trẻ đều lưu truyền và biết về sự tích thần hồ Gò Miếu.

Hồ Vai Miếu (người địa phương gọi là Gò Miếu) được xây dựng ở thượng nguồn nên nước đổ vào hồ là nước tinh khiết, trong xanh, sạch sẽ và mát rượi, vì thế hồ còn là địa chỉ du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh. Đi thuyền trên mặt hồ, du khách sẽ đến một vùng đá lô nhô ngâm mình trong dòng nước trong vắt. Sắc xanh của Tam Đảo, của cây rừng ven hồ soi bóng xuống đáy nước, tạo ra một cảnh sắc huyền diệu. Ông Hạnh nuôi cá lồng trên hồ liệu có làm thần núi, thần nước quở báng mà vật chết?

Quyết định đã được đưa ra và không có đường lùi. Ông Hạnh ngày đêm ở hẳn trên mặt hồ để chỉ đạo thi công. Sau gần 1 tháng xây dựng, tháng 5/2016, ông đầu tư mua cá giống về nuôi.

Thành quả bất ngờ

Dáng người nhỏ thó, nhanh nhẹn hoạt bát, gần 2 năm sống trên mặt nước hồ nên ông Hạnh có nước da cháy sạm. Ông lái thuyền máy đưa chúng tôi lượn một vòng quanh hồ. Sinh ra và lớn lên ngay dưới chân hồ nên từng khe suối, từng lối mòn của đồng bào đi lấy măng, lấy củi ông đều đã nằm lòng.

Cấy ghép ngọc trai tại lồng bè của Cty TNHH Việt Nhật

Một đòi hỏi quan trọng của việc nuôi cá lồng là nguồn nước phải sạch và lưu thông. Chính từ yêu cầu đó mà ông Hạnh đã nghĩ đến hồ Gò Miếu và được chấp thuận ngay. Ông cho nuôi 10 loại cá như lăng đen, lăng chấm, chiên, trắm đen, nheo, điêu hồng, chép… Cá lớn rất nhanh lại không bị bệnh gì.

Ông Hạnh lý giải, nhờ thiên nhiên Tam Đảo ban phát, nguồn nước sạch vô biên thượng nguồn đã giúp cho cá khỏe mạnh, chóng lớn. Ông đã về tận Nam Sách (Hải Dương) để học kỹ thuật thì thấy người chăn nuôi tốn rất nhiều tiền mua thuốc men để phòng và trị bệnh cho cá. Nhưng vì cá ở đây được nuôi sống trong nguồn nước trong sạch nên mỗi lứa ông chỉ mất 2 triệu tiền mua tỏi về để cho cá ăn. Tỏi được nghiền trộn cùng thức ăn sẽ giúp cá tăng sức đề kháng, phòng một số bệnh.

Thức ăn của cá ngoài cám, ông còn cho thu mua cá vụn, cá tép dầu được người dân bán lại. Chỉ sau 3 tháng, có vài loại cá đã được thu hoạch như cá điêu hồng, rô phi. Thống kê sau một năm nuôi thành công, Cty TNHH Việt Nhật của Giám đốc Lưu Văn Hạnh đã xuất bán được xấp xỉ 100 tấn cá.

Ông Hạnh cho biết, hiện trong 30 lồng cá đang nuôi của ông có khoảng 90 tấn cá. Gồm 30 tấn cá lăng đen, 30 tấn điêu hồng, 2 tấn cá chiên, 10 tấn chép…

Tháng 5/2017, ông Hạnh kết hợp với Cty TNHH Thảo Vân triển khai thêm mô hình nuôi trai nước ngọt lấy ngọc. Những con trai đã cấy nhân để tạo ngọc được treo bên cạnh lồng cá sẽ giúp thanh lọc nguồn nước tại chỗ. Ông đầu tư hơn 400 triệu để nuôi 50.000 con trai lấy ngọc.

Bà Cao Thị Thanh Dần (chuyên gia kỹ thuật của Cty TNHH Hồng Ngọc Pearl, Ninh Bình – đơn vị chuyển giao kỹ thuật nuôi trai nước ngọt lấy ngọc) nhận xét, mô hình chăn nuôi thủy sản kết hợp của Cty TNHH Việt Nhật được đầu tư bài bản và quy chuẩn. Điều kiện sinh thái tại hồ Gò Miếu đặc biệt thuận lợi và tiềm năng vẫn còn rất nhiều.

Mô hình nuôi cá lồng kết hợp nuôi trai lấy ngọc của Việt Nhật đã tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 5 lao động. Chị Nguyễn Thị Hằng (xóm Chuối, xã Ký Phú) cho biết, sau khi được tuyển dụng vào làm công nhân của công ty, người lao động được cho đi học tập kỹ thuật nuôi cá lồng, cấy ghép nhân và nuôi trai lấy ngọc. Triển vọng lớn của công ty mang lại niềm vui, sự yên tâm cống hiến của công nhân.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thăm vườn rau hữu cơ ‘6 không’

Chúng tôi tìm đến vườn rau hữu cơ “6 không” nằm khép mình trong khu dân cư quận Tân Bình (TP.HCM).

Đó là vườn rau Happy Vegi của Thạc sĩ hóa học Nguyễn Thị Quỳnh Viên và Ths.BS dinh dưỡng Trần Ngọc Diệp trồng hơn 10 loại rau ăn lá theo mùa…

Vườn rau xanh mướt Happy Vegi 

Vào khu vườn, ấn tượng là màu xanh mướt của rau, không khí trong lành, đặc biệt là có thể tha hồ ngắm những chú cuốn chiếu, trùn, cóc… đang ngoe ngẩy.

Để có được vườn rau xanh mướt ấy là cả một quá trình, vừa mất tiền, mất thời gian, hy sinh sự nghiệp trong trường… để chị Quỳnh Viên nghiên cứu, trồng lên những luống rau hữu cơ đảm bảo chất lượng ATTP phục vụ nhu cầu của các bà nội trợ tại TP.HCM.

Chị Quỳnh Viên nói: “Nhớ lại những ngày đầu của vườn rau, người tiêu dùng hiểu rất khác nhau về thực phẩm hữu cơ. Mấy chị em ngồi nghĩ nát óc xem làm thế nào để đơn giản hóa những kiến thức về nông nghiệp hữu cơ để họ có thể hiểu. Thế là nguyên tắc “6 không” ra đời với mục tiêu đảm bảo hệ sinh thái cây trồng, tạo ra những sản phẩm chất lượng, an toàn cho người sử dụng, cũng như duy trì sự màu mỡ của đất”.

Để có một bó rau hữu cơ đảm bảo chất lượng, ngoài việc lựa chọn giống, trồng rau theo phương pháp hữu cơ tự nhiên người nông dân còn phải đảm bảo tuyệt đối các quy chuẩn an toàn về môi trường, vệ sinh ATTP và đặc biệt là phải tuân thủ nghiêm ngặt 6 nguyên tắc: Không trồng trên đất và nước nhiễm hóa chất nông nghiệp; Không thuốc diệt cỏ; Không sử dụng thuốc trừ sâu; Không sử dụng phân bón hóa học; Không sử dụng thuốc kích thích tăng trưởng; Không sử dụng giống biến đổi gien.

Đất trồng được đảm bảo các tiêu chí về đất trồng rau của Bộ NN-PTNT, khi làm đất, thường phải chọn vị trí tốt, lấy đất cùng với phân bò đã cải tạo trộn với phân dừa đem ủ để có chế phẩm vi sinh diệt khuẩn gây bệnh.

Lấy từng cây con để chuẩn bị đem cấy

Phân được ủ bằng men vi sinh với các nguyên liệu tự nhiên như rơm, ngô, đậu, mùn cưa, vỏ cà phê, bã mía, phân gia súc… Thời gian ủ từ 30 ngày đảm bảo các nguyên liệu phân huỷ thành các chất mùn dinh dưỡng. Trong 2 tuần ủ phân, vi sinh vật hoạt động làm nhiệt độ đống ủ tăng lên đến 60 – 75 độ C, giúp tiêu diệt các mầm bệnh, đồng thời góp phần phân hủy các nguyên liệu thành chất mùn được nhanh hơn để tạo ra một loại phân bón tơi, xốp, không mùi, tốt cho cây trồng.

“Canh tác hữu cơ không có năng suất cao nên chưa thể là giải pháp về thực phẩm cho tất cả mọi người. Hiện tại, mỗi ngày chúng tôi thu hoạch khoảng 100kg rau. Năm 2018, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để ổn định năng suất trong mùa mưa và mở thêm một vườn mới trên Măng Đen để đa dạng sản phẩm. Dự kiến sản lượng năm 2018 sẽ tăng khoảng 30% so với năm 2017. Người tiêu dùng tại TP.HCM có thể mua rau tại các cửa hàng bán thực phẩm hữu cơ hoặc đặt hàng online”, chị Trần Ngọc Diệp bộc bạch.
Chọn giống thuần chủng của địa phương để có sức đề kháng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu, địa lý của địa phương. Ươm giống từ 15 – 20 ngày đem ra cấy hoặc sạ.

Khi cấy cây non thì khoảng cách giữa các cây là 5cm, hàng cách hàng 10cm; còn sạ thì dùng cào quanh theo chiều ngang luống để hạt chìm xuống, rồi dùng giá thể xơ dừa phủ lên trên tăng độ ẩm, dùng lưới màu trùm lên để giảm bớt ánh sáng cho cây phát triển, khi cây được 1 tuần tuổi, bón phân hữu cơ để tăng thêm dinh dưỡng.

Để hạn chế cỏ dại phải thường xuyên nhổ cỏ bằng tay, trồng các loại cây họ cúc, xả, bồ ngót Nhật… để xua đuổi côn trùng tạo điều kiện sinh thái để hấp dẫn các thiên địch tự nhiên như chim sâu, bọ rùa, bọ ngựa… Che chắn cho rau để phù hợp khả năng sinh trưởng và bảo vệ nguồn dinh dưỡng, nguồn oxy cho cây.

“Đối với nước tưới quan trọng là độ pH trong nước, muốn nâng độ PH chúng tôi dùng một đệm vi sinh để trong bể nước và bơm nước trong vòng 24h khi vi sinh hoạt động thì độ pH sẽ được nâng lên gần 7 thì hệ vi sinh sẽ tốt”, chị Quỳnh Viên nhấn mạnh.

Ở đây, người nông dân không chỉ làm vườn, mà họ tự tay ghi chép vào sổ từng ngày gieo hạt, ngày bón phân…

Sau 40 – 45 ngày rau được thu hoạch về kiểm tra, khi sản phẩm rau đạt chỉ số an toàn được giữ trong khay phủ khăn ẩm, sáng sớm đóng gói và được phân phối đến các cửa hàng rau sạch và người tiêu dùng trước 9h sáng.

Vừa cung cấp rau hữu cơ, vườn rau Happy Vegi luôn là nơi được các bạn tình nguyện viên hòa bình từ các nước Mỹ, Đức, Pháp, Bỉ, Hàn Quốc, Nhật Bản… lựa chọn làm nơi trải nghiệm nông nghiệp, cũng như mở cửa cho bất cứ khách hàng, nhà trẻ… đến trải nghiệm, tham quan.

Tình nguyện viên nước ngoài đến trải nghiệm tại vườn rau

Mong rằng sẽ có nhiều vườn rau như thế, để đem đến hạnh phúc cho mọi gia đình khi cùng nhau thưởng thức bát canh, đĩa rau, bát cháo ngon ngọt an lành, cũng như giúp cho người nông dân hàng ngày không phải tiếp xúc với những hóa chất độc hại, đem đến một hệ sinh thái tự nhiên.

Thu hoạch rau về kiểm tra trước khi đóng gói đem đến tay người tiêu dùng

Sản phẩm được bày bán tại các cửa hàng rau sạch, rau hữu cơ

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá Mú đen trong ao đất

Cá mú hay còn gọi là cá song có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, là đặc sản được tiêu thụ tại các  nhà hàng ở dạng cá sống và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao…

Cá mú đen thương phẩm

Do tập tính sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi. Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lũ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu. Do vậy nuôi cá mú trong ao đất là một niềm hy vọng mới cho bà con ngư dân, vì chi phí đầu tư vừa phải, hệ số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh.

Ao nuôi: diện tích 500 – 5000 m2, cải tạo sên vét bùn đáy, lấp kín hang hốc,  nếu có điều kiện trãi bạt càng tốt, tránh cá đào hang quanh bờ.

Giống cá mú: có thể thả cá mú giống được thu gom tự nhiên cỡ 5 – 7 cm hoặc 10 – 15 cm, hoặc chọn cá sinh sản nhân tạo; cá không xây xát, dị hình; màu sắc tươi sáng, hoạt động nhanh nhẹn.

Mật độ thả: đây là loài cá dữ, có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 – 3 con/m2.

Môi trường nước: thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước, giữ các chỉ số ổn định trong giới hạn thích hợp bảo đảm cho cá phát triển bình thường.

Độ mặn:10 – 23 ‰

pH :7.5 – 8.5

Độ trong:   30 – 45 cm

NH3: 0 – 0.008 mg/l

Độ kiềm: 60 – 100 mg/l

Cho ăn, quản lý và chăm sóc: hàng ngày cho ăn bằng cá tạp tươi: cá cơm, cá trích, cá liệt…. Cá tạp rửa sạch cắt khúc vừa miệng cá, khẩu phần ăn từ 3 – 10 % trọng lượng thân/ngày, tùy từng giai đoạn phát triển của cá.

Tháng đầu cho ăn 10% trọng lượng thân, cho ăn 3 lần/ngày. Các tháng tiếp theo cho ăn 2 lần/ngày, khẩu phần ăn cho theo nhu cầu bằng cách dùng sàng đặt dưới ao. Hàng ngày kiểm tra sàng 2 lần ngay sau những lần cho ăn nhằm tránh tình trạng thức ăn dư làm ô nhiễm nguồn nước ao.

Khi cá ăn mạnh, định kỳ trộn vitamin C và men tiêu hoá vào thức ăn cho ăn liên tục 5 ngày, sau đó cách 5 ngày cho ăn tiếp.

Trong ao bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh cơ hội. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá.

Phòng và trị một số bệnh thường gặp:

Phòng bệnh:

Việc phòng bệnh phải được đặt lên hàng đầu trong nghề nuôi thuỷ sản nói chung và nghề nuôi cá nói riêng, nhất là đối với những loài ăn thức ăn tươi như cá mú. Công việc này phải tiến hành ngay từ đầu để giảm bớt rủi ro trong quá trình nuôi. Cần làm tốt những việc sau:

Ao nuôi phải nằm gần nguồn nước có độ mặn, pH thích hợp cho đối tượng, điều kiện cấp thoát nước dễ dàng. Bên cạnh đó nguồn nước ngọt phải đầy đủ để xử lý cá bệnh khi cần.

Chọn giống khoẻ, đồng cỡ, không xây xát, hoạt động nhanh nhẹn.

Thả nuôi ở mật độ vừa phải, không thả quá dày.

Cá tạp dùng làm thức ăn cho cá phải tươi, rửa sạch bằng nước ngọt. dùng sàng ăn kiểm tra sức ăn của cá, không cho ăn dư sẽ ảnh hưởng đến môi trường ao nuôi.

Định kỳ bổ sung vitamin C, men tiêu hoá vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá nuôi.

Thường xuyên thu mẫu kiểm tra tình trạng sức khoẻ cá, xem vây, mang, da, mắt…để kịp thời phát hiện bệnh xử lý ngay.

Trị bệnh:

Bệnh do virus (siêu vi trùng): Nguyên nhân có thể lây truyền mầm bệnh từ bố mẹ. Cá bị sốc bởi các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột về pH, độ mặn, các vật chất hữu cơ tăng cao làm mất sức đề kháng, là điều kiện tốt cho mầm bệnh trong cơ thể phát triển.

Dấu hiệu: Cá bơi xoay tròn và yếu dần, màu sắc thân tối, mang lợt màu, mắt lồi có màu vàng. Bệnh gây chết hàng loạt khi nuôi ở mật độ quá dày, thường thấy ở cá nuôi bè, hiện nay chưa có thuốc đặc trị.

Bệnh ghẻ (lở loét): tác nhân do vi khuẩn tấn công gây lở loét ở da, vây. Đây là các tác nhân cơ hội gây bệnh cho cá khi sức khoẻ cá bị suy yếu do thiếu sự chăm sóc hay do môi trường biến động lớn.

Dấu hiệu: Các vây bị thối rữa, xuất huyết dưới da gây lở loét.

Trị:

– Tắm cá trong nước ngọt 15 – 20 phút, có sục khí.

– Tắm cá bằng dung dịch oxytetracyline 30ppm (30g thuốc cho vào 1.000 lít nước ngọt), có sục khí.

Bệnh do ký sinh trùng: Do các sinh vật tương đối lớn như protozoa, giáp xác, giun, đĩa… chúng ký sinh ở mang, da, mắt gây khó chịu cho cá và làm cá chậm lớn.

Dấu hiệu: Cá tập trung lại gần nơi có nước chảy, cá cọ mình vào vật cứng, da bị tổn thương, mang lợt màu.

Trị:

– Tắm cá trong dung dịch formol 200mg/l trong 30 – 40 phút, có sục khí.

– Tắm cá trong dung dịch oxy già 150mg/l trong 30 phút, có sục khí.

– Tắm cá trong dung dịch đồng sunfat 0,5mg/l trong 30 phút, có sục khí.

Trường hợp xử lý ngay trong ao để ngâm cần tháo nước bớt, dùng 1/2 liều lượng nêu trên, xử lý trong 1 – 3 giờ, sau đó cấp thêm nước mới, ngày sau thay 30 % nước.

Thu hoạch: Tuỳ theo cỡ giống thả mà thời gian nuôi đến lúc thu hoạch khác nhau từ 6 đến 10 tháng. Khi cá đạt trọng lượng từ 0,6 – 1 kg/con dùng lưới vây thu lần thứ nhất, sau đó tháo cạn nước thu toàn bộ. Nên kéo lưới lúc trời mát để ít ảnh hưởng đến cá, chuẩn bị các dụng cụ như thau, chậu, máy sục khí để bảo đảm chất lượng cá thương phẩm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Giấc mơ làm giàu từ Hàu Thái Bình Dương


Vùng biển Vân Đồn hiện là trung tâm nuôi hàu Thái Bình Dương lớn nhất toàn quốc với diện tích hàng ngàn ha, sản lượng trên dưới 400.000 tấn/năm. Hàu Thái Bình Dương đã mang lại doanh thu hàng trăm tỷ đồng/năm cho người nuôi.

Ước tính trung bình mỗi ngày người dân Vân Đồn xuất gần 10.000 tấn hàu Thái Bình Dương. 

Có được thành công đó, vai trò tiên phong thuộc về doanh nghiệp vô cùng to lớn. Câu chuyện “nông sản tiền tỷ” của hàu Thái Bình Dương thực sự đã truyền cảm hứng cho giấc mơ nâng tầm tới nhiều nông sản khác…

Câu chuyện của những người tiên phong

Qua nghiên cứu cho thấy, trong con hàu có chứa rất nhiều protein, kẽm và các vi chất có lợi khác, không chỉ được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực mà còn được coi là “Viagra thủy sản”, hỗ trợ sức khỏe sinh sản của đàn ông. Tuy nhiên, dù hàu Thái Bình Dương thời điểm đó đã nổi tiếng ở nhiều quốc gia, được nuôi tại nhiều vùng biển trên thế giới, thì tại Việt Nam vẫn còn khá xa lạ. Chính vì vậy, năm 2006, doanh nhân Đoàn Quốc Việt, Chủ tịch Tập đoàn BIM là người đầu tiên đưa con hàu Thái Bình Dương từ Đài Loan về phát triển tại Vân Đồn (Quảng Ninh). Do điều kiện nuôi ở vùng biển Vân Đồn tốt nên những dây hàu sống khỏe, lớn nhanh, ruột to, béo, ngọt và hàm lượng dinh dưỡng cao vượt ngưỡng. Vụ thu hoạch đầu tiên, năm 2007, đã đạt gần 500 tấn hàu, 5 năm tiếp theo đạt trung bình 700 tấn/năm.

Giai đoạn đầu, trong khi khâu nuôi trồng thuận lợi bao nhiêu thì khâu tiêu thụ lại khó khăn bấy nhiêu. Vốn là đối tượng nuôi ngoại lai, hàu Thái Bình Dương có nét khác biệt rất lớn đối với những loại hàu hà bản địa, chính bởi vậy người tiêu dùng rất e dè, thậm chí “ghẻ lạnh”.

Ông Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc dự án hàu Thái Bình Dương, Tập đoàn BIM, nhớ lại giai đoạn khó khăn khi hàu Thái Bình Dương tiếp cận thị trường: Chúng tôi phải chia quân đưa hàu đến các chợ, nhà hàng trên địa bàn TP Hạ Long với giá rẻ như cho, hy vọng đây là vùng đất của biển cả, người dân quen với các đồ hải sản và cũng là trung tâm du lịch thì sức mua sẽ tốt. Thế nhưng, lợi thế nhiều sản vật của biển ở Hạ Long có lẽ chính là một bất lợi đối với đối tượng lạ lẫm, chưa quen mặt, biết tên như hàu Thái Bình Dương. Ngay cả khi chúng tôi đưa hàu vào hệ thống các siêu thị lúc đó cũng không được chấp nhận. Liên tục trong 5 năm đầu, những lần chúng tôi phải thu dọn đống hàu chết thối tại các chợ do bán ế hay không thu hoạch, để mặc cho hàu già chết hàng loạt hoặc rụng xuống biển là rất thường xuyên.

Những tưởng “một vốn, bốn lời”, dự án nuôi hàu Thái Bình Dương của Tập đoàn BIM trở thành “một vốn, bốn lỗ”, doanh thu mỗi năm đạt dưới 2 tỷ đồng trong khi chi phí đầu vào lên đến 6-7 tỷ đồng.

Nuôi hàu Thái Bình Dương tại xã Bản Sen, huyện Vân Đồn.

Không vì thất bại mà nản, Tập đoàn BIM kiên trì mở rộng các hoạt động tiếp cận thị trường cho con hàu Thái Bình Dương, trong đó bám sát thị trường tại chỗ, tổ chức các buổi nếm thử, trình diễn nấu các món ăn từ hàu… đầu tư công nghệ sơ chế tiên tiến nhằm đảm bảo VSATTP. Chính nhờ đó, kể từ năm 2012, sản phẩm hàu Thái Bình Dương nguyên vỏ, tách ruột tươi của BIM đã dần được người tiêu dùng chấp nhận, vào được hệ thống các siêu thị, sức mua trên thị trường cả phân khúc bình dân và cao cấp đều tăng.

Kể từ thời điểm đó, BIM đã lấy thu bù chi, đến năm 2017 thì có lãi lớn. Theo thống kê của Tập đoàn, năm 2017, sản lượng đạt trên 2.000 tấn, doanh thu gần 40 tỷ đồng, cao gấp 25 lần so với giá trị doanh thu năm đầu tiên. Năm 2018, dự kiến sản lượng tiêu thụ 3.000 tấn; doanh thu 70 tỷ đồng.

Một doanh nghiệp khác cũng đi lên từ sản phẩm hàu Thái Bình Dương. Năm 2014, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại thủy sản Quảng Ninh tham gia hoạt động chế biến đồ ăn liền từ nguyên liệu hàu Thái Bình Dương. Mặc dù con hàu Thái Bình Dương lúc này đã được thị trường đón nhận, tuy nhiên, đa số hàu tiêu thụ nguyên con, không qua chế biến. Trong khi, đơn vị lại đi sâu vào ngành hàng chế biến nguyên liệu từ hàu; quá trình chế biến không dùng phụ gia, kể cả mì chính, thành phẩm vẫn có mùi tanh, khá khó dùng. Chính vì thế nên lượng tiêu dùng sản phẩm rất chậm, Công ty đứng trước nguy cơ thua lỗ.

Để khắc phục tình trạng này, Công ty đã đầu tư nguồn kinh phí lớn để nghiên cứu, hoàn thiện các sản phẩm chế biến từ con hàu theo khẩu vị người tiêu dùng.

Bà Phạm Thị Thu Hiền, Giám đốc Công ty cho biết: Tôi từng có nhiều dự án nghiên cứu về con hàu Thái Bình Dương, hiểu rất rõ ưu thế vượt trội về chất lượng của chúng, rất mong muốn được đưa chúng vào bàn ăn của người dân. Tôi tin đầu tư cho hàu Thái Bình Dương là đúng đắn, vì đã là sản phẩm tốt thật sự thì sẽ có chỗ đứng, quan trọng là doanh nghiệp phải có hướng đi phù hợp. Bởi vậy, nếu nói là chúng tôi đã mạo hiểm khi bỏ tiếp vốn đầu tư cho hàu là không đúng, đây hoàn toàn là chiến lược lâu dài của Công ty.

Chế biến ruốc hàu ở Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại thủy sản Quảng Ninh. 

Được biết, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại thủy sản Quảng Ninh đã phát triển được hàng chục sản phẩm chế biến từ hàu Thái Bình Dương để đưa ra thị trường. Các sản phẩm liên tục được cải tiến về mẫu mã, khẩu vị, do đó đã được người tiêu dùng chấp nhận, trong đó sản phẩm chính là ruốc hàu, nem hàu, tinh chất bột hàu phục vụ sản xuất dược liệu, bánh hải sản các loại… Từ đầu năm 2017 đến nay, Công ty xuất trên 6.000 sản phẩm đồ ăn liền, 120.000 cái nem, 450kg tinh chất bột hàu, tổng doanh thu gần 15 tỷ đồng, đã đủ bù chi, chính thức cắt được lỗ. Riêng sản phẩm tinh chất bột hàu, trong năm 2017 mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu của khách hàng, năm 2018 này nếu không mở rộng quy mô sẽ chỉ đáp ứng được 40% đơn hàng của khách.

Trợ lực cho doanh nghiệp

Mặc dù chưa phải là đối tượng nuôi chủ lực của tỉnh, tuy nhiên trước sự phát triển mạnh mẽ cũng như tiềm năng to lớn của con hàu Thái Bình Dương, thời gian qua tỉnh Quảng Ninh đã dành những chương trình hỗ trợ rất thiết thực cho loại thủy sản này. Đơn cử như chương trình quan trắc môi trường nuôi; giám sát VSATTP trong thu hoạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ; chương trình OCOP…

Ông Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc dự án hàu Thái Bình Dương, Tập đoàn BIM, khẳng định: Các chương trình trên là sự nâng đỡ đúng cách, đúng lúc và hiệu quả của nhà nước dành cho doanh nghiệp, có thể bảo lãnh cho sản phẩm, gắn kết doanh nghiệp sản xuất đối với các kênh phân phối và người tiêu dùng.

Được biết, chương trình quan trắc môi trường và giám sát thu hoạch nhuyễn thể đều được cơ quan chuyên môn uy tín là Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy sản Miền Bắc (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1) thực hiện theo phương pháp rất sát thực là lấy mẫu để kiểm tra chất lượng môi trường nuôi, các chỉ tiêu bất lợi trong sản phẩm như tảo độc, độc tố sinh học biển, vi sinh vật gây bệnh, kim loại nặng, thuốc trừ sâu gốc chlor hữu cơ…

Các kết quả thường kỳ trong chương trình liên tục được gửi về các đơn vị chuyên môn và các kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm, đối tác của doanh nghiệp nuôi trồng, chế biến hàu Thái Bình Dương. Riêng chương trình giám sát VSATTP trong thu hoạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ còn đồng thời thực hiện giám sát thu hoạch và cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho các sản phẩm. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng để các đơn vị doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm, nhất là sang những thị trường khó tính như Mỹ, EU.

Sản phẩm ruốc hàu được bày bán tại các kỳ hội chợ OCOP của tỉnh, được người tiêu dùng ưa chuộng. 

Có thể thấy từ các chương trình quan trắc, giám sát VSATTP đã khiến con hàu Thái Bình Dương và vùng nuôi hàu Thái Bình Dương tại Vân Đồn được đánh giá cao, chiếm ưu thế cạnh tranh, thuận lợi hơn khi vào các kênh phân phối uy tín. Nhiều siêu thị bán hàng đã chủ động liên hệ với doanh nghiệp để nhập sản phẩm.

Riêng đối với chương trình OCOP, doanh nghiệp được hưởng lợi cả giá trị hiện hữu và vô hình. Bà Phạm Thị Thu Hiền, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại thủy sản Quảng Ninh cho biết: Chúng tôi không chỉ được tiếp cận vốn vay, hỗ trợ lãi suất vốn vay, hỗ trợ đầu tư thiết bị, ứng dụng công nghệ… mà quan trọng hơn được xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, vốn là nền tảng để doanh nghiệp phát triển lâu bền và mạnh mẽ. Thực tế các sản phẩm khi nằm trong hệ thống sản phẩm OCOP sẽ được hỗ trợ đánh giá chất lượng sản phẩm, dán tem, nhãn mác truy xuất nguồn gốc, được quảng bá hình ảnh, xúc tiến thương mại…

Bà Hiền khẳng định, nếu không có sự hỗ trợ từ chương trình OCOP, doanh nghiệp sẽ phải bỏ chi phí không nhỏ cho các hoạt động này, quan trọng hơn kết quả cũng sẽ không được toàn diện, lan tỏa như hiện nay. Từ sự hỗ trợ của nhà nước, bà Hiền tự tin khẳng định sẽ phát triển trở thành doanh nghiệp sản xuất đồ thủy sản ăn liền quy mô lớn của toàn quốc, trong đó ưu tiên cho các sản phẩm từ con hàu Thái Bình Dương.

Có thể thấy từ một đối tượng nuôi ngoại lai, không có nhiều ưu thế cạnh tranh nhưng với những nỗ lực không mệt mỏi, sự tự thân đáng khâm phục của doanh nghiệp và sự hỗ trợ đúng cách của cơ quan quản lý nhà nước, con hàu Thái Bình Dương đã ghi điểm trên thị trường, tìm được chỗ đứng vững chắc cho mình. Điều này cho thấy với bất kỳ nông sản nào, nhất là các nông đặc sản bản địa, vốn mang lợi thế về sự khác biệt, riêng có, nếu có sự đầu tư bài bản, chiến lược rõ ràng, cái “bắt tay” chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nhà nước thì hành trình đi đến thành công chắc chắn rất rộng mở…

Nguồn: Báo Quảng Ninh được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Ngưỡng mộ một xã thu hơn 30 tỷ từ trồng hoa Lay Ơn vụ tết Mậu Tuất

Vụ hoa tết vừa qua, các nhà nông ở xã Dĩnh Trì, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã thu hơn 30 tỷ đồng từ trồng hoa lay ơn các loại. Đây là vụ hoa lay ơn được mùa được giá nhất từ trước đến nay của địa phương này.

Thu hái hoa lay ơn xã Dĩnh Trì

Anh Nguyễn Văn Thành, thương lái chuyên mua gom hoa lay ơn trên địa bàn xã Dĩnh Trì cho biết: Trước tết anh phải thu mua hoa lay ơn với giá trung bình 6.000 đồng/bông. Đắt hơn cùng kỳ năm trước 1.000 đồng/bông. Nhiều ngày giá lay ơn lên tới 8.000 – 9.000 đồng/bông. Chỉ có 2 ngày cuối cùng trong năm là giá hoa lay ơn hạ xuống còn dưới 4.000 đồng/bông. Tính ra mỗi sào hoa tết vừa qua, người trồng lay ơn đã thu được 25 – 30 triệu đồng, trừ các khoản đầu tư thoải mái vẫn còn lãi 13 – 15 triệu đồng/sào (360m2).

Bà Nguyễn Thị Sen ở Thôn Riễu (thuộc xã) trồng 1 mẫu hoa lay ơn, trong tết mới thu hoạch 3/4 số hoa trên ruộng đã “bỏ ống” được trên 100 triệu đồng. Bà Sen so sánh, nếu cấy lúa cùng diện tích này có được mùa lắm cũng chỉ lợi ra được 14 -15 triệu đồng.

Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, xã Dĩnh Trì được mùa hoa lay ơn mới rồi là do bà con đã dự báo chính xác thời tiết vụ đông trong năm sẽ có rét sớm và rét đậm kéo dài. Vì thế mọi gia đình đều xuống giống trồng hoa sớm hơn thường lệ 7 – 10 ngày. Nhờ vậy phần lớn lượng lay ơn đều nở và cho thu hoạch trùng các ngày giá rét – bán được giá. Vào những ngày nồm ấm (cận tết và sau tết), đồng ruộng ở đây đã cơ bản thu hết số hoa của thời vụ trồng định trước.

Mặt khác, địa phương đã có bề dày trồng hoa lay ơn hơn 10 năm. Có sản lượng hoa cho thu hoạch tập trung lớn. Nên các gia đình trồng hoa luôn được các thương lái đến thu mua với giá cạnh tranh. Sản xuất luôn không đáp ứng đủ nhu cầu.

Ông Nguyễn Văn Lạng, Chủ nhiệm Câu lạc bộ trồng hoa TP Bắc Giang cho hay: Hoa lay ơn đã bén duyên với đồng đất Dĩnh Trì từ năm 2007. Ban đầu chi có một vài gia đình ở thôn Núi trồng với diện tích nhỏ lẻ (200 – 300m2 mỗi hộ), sau thấy cây hoa sinh trưởng tốt, thu lợi gấp 7 – 10 cấy lúa, nhiều hộ khác đã học hỏi làm theo. Kết quả đến nay, diện tích trồng hoa lay ơn toàn xã đã lên tới 50ha. Các thôn thường xuyên gieo trồng nhiều hoa lay ơn là thôn Núm, Núi, Riễu và Đìa Đông.

Chị Nguyễn Thị Hiền (thôn Núm) chia sẻ: Trước kia gia đình chưa trồng hoa, cứ hết mùa là vợ chồng chị lại thay nhau lên thành phố làm thuê. Mỗi ngày cũng được hơn 200 nghìn đồng. Nhưng cứ ráo mồ hôi là hết tiền. Từ ngày trồng hoa lay ơn đến nay, gia đình chị mới xây được nhà ở kiên cố và mua sắm được một số tiện nghi sinh hoạt đắt tiền.

Sản xuất hoa lay ơn xã Dĩnh Trì

PGS.TS Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả nhìn nhận: Những thành tựu đạt được nói trên của cấp uỷ, chính quyền và người dân xã Dĩnh Trì là rất đáng khích lệ, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế sẵn có. Bởi Dĩnh Trì có đặc điểm của thời tiết khí hậu mát mẻ của vùng trung du. Đất canh tác chủ yếu là cát pha, thịt nhẹ. Địa bàn xã nằm liền kề đường cao tốc Hà Nội – Lạng Sơn. Cách trung tâm TP Bắc Giang 4km. Có nguồn lực lao động dồi dào. Trình độ dân trí cao. Nhu cầu thị trường hoa cây cảnh còn rất lớn… Đây là những lợi thế rất cơ bản để Dĩnh Trì phát triển mạnh mẽ hơn nữa nghề trồng hoa cây cảnh.

“Riêng cây hoa lay ơn có thể trồng được ở đây quanh năm. Sản phẩm cung ứng cho các đầu mối tiêu thụ ở Hà Nội rất thuận lợi. Để gia tăng gấp bội thu nhập cho người trồng hoa. Địa phương cần bố trí lại cơ cấu giống và thời vụ trồng. Đổi mới quy trình thâm canh. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để đạt được các mục đích đã nêu, Viện Nghiên cứu Rau quả sẵn sàng hợp tác chuyển giao công nghệ, giúp địa phương đưa nghề trồng hoa cây cảnh trên địa bàn trở thành ngành sản xuất chính”, ông Đông nhấn mạnh.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số giống Nhãn đặc sản

Các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Rau quả đã tuyển chọn thành công một số giống nhãn đặc sản, phù hợp cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các địa phương miền Bắc.

Các giống nhãn chín muộn cho hiệu quả kinh tế cao

1. Giống nhãn chín muộn PHM99-1.1

Được tuyển chọn từ cây gieo hạt tại xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, Hưng Yên. Giống đã được Bộ NN-PTNT công nhận giống chính thức năm 2011.

Đặc điểm chính: Cây có khả năng sinh trưởng, phân cành khoẻ. Tán hình bán cầu, một năm ra 4 – 5 đợt lộc, phiến lá to, màu xanh nhạt, hơi mỏng, phẳng và ít bóng. Thời gian ra hoa đậu quả từ 1/3 – 5/4. Thu hoạch tập trung từ 25/8 – 5/9. Quả tròn, vỏ dày màu vàng sáng, có nhiều gai lì nổi rõ, ít bị nứt quả. Khối lượng trung bình 85 quả/kg. Tỷ lệ phần ăn được đạt trên 70%, vị ngọt đậm, ít thơm. Cùi dày màu trắng đục. Hàm lượng đường tổng số 15 – 18%. Độ brix 18 – 20%.

2. Giống nhãn chín muộn PHM99-2.1

Được tuyển chọn tại xã Hồng Nam, thành phố Hưng Yên. Giống đã được Bộ NN – PTNT công nhận chính thức năm 2011.

Đặc điểm chính: Cây sinh trưởng, phát triển khoẻ, tán hình mâm xôi, lá kép màu xanh đậm, không bóng, trung bình có 8,5 lá chét, phiến lá dầy, mép và phiến lá hơi lượn sóng. Cây ra hoa đậu quả tập trung từ 1/3 – 5/4. Quả cho thu hoạch từ 15/8 – 25/8. Chùm hoa ngắn. Chùm quả ngắn và có dạng chùm sung, vỏ quả dày trơn màu vàng sáng. Khối lượng trung bình 90 quả/kg. Tỷ lệ phần ăn được (cùi) đạt trên 68,6%. Cùi dầy giòn ráo nước thơm màu trắng đục. Hàm lượng đường tổng số 17 – 19%. Độ brix 21,6%. Sau trồng 5 năm cây sẽ cho sản lượng quả ổn định. Năng suất trung bình đạt 6,5 – 7 tấn/ha. Giống có ưu điểm nổi bật là, ít ra quả cách năm do cây có khả năng ra 2 – 3 đợt hoa trong cùng thời vụ.

3. Giống nhãn chín muộn HTM-1

Được tuyển chọn từ cây gieo hạt tại xã Đại Thành, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Giống đã được Bộ NN – PTNT công nhận giống chính thức từ năm 2011.

Đặc điểm chính: Cây sinh trưởng khoẻ, tán hình bán cầu, khả năng phân cành mạnh, trung bình mỗi năm ra từ 4 – 5 đợt lộc. Lá màu xanh đậm, hơi bóng, phiến lá mỏng và rộng, mép lá lượn sóng. Thời gian ra hoa từ 5 – 15/2, hoa nở từ 5/3 – 10/4. Quả cho thu hoạch tập trung từ 25/8 – 20/9. Dạng quả hơi lệch. Vỏ quả mỏng, khi chín chuyển màu vàng nâu. Tỷ lệ phần ăn được (cùi) là 67,0%. Cùi quả dầy, màu trắng trong, mọng nước, giòn, ngọt, thơm. Trọng lượng quả trung bình 105 quả/kg. Hàm lượng đường tổng số 16,5. Acid tổng số 0,12%, vitamin C 73,27 mg%, chất khô 20,37%, độ brix 21,9%.

4. Giống nhãn chín muộn HTM-2

Được tuyển chọn từ cây gieo hạt tại xã Song Phương, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Giống đã được Bộ NN-PTNT công nhận chính thức năm 2016.

Đặc điểm chính: Cây sinh trưởng và phân cành khoẻ. Lá màu xanh nhạt, ít bóng, phiến lá rộng và mỏng, mép lá ít lượn sóng. Chùm hoa to có nhiều nhánh nhỏ. Chùm quả có dạng chùm dâu da. Quả tròn, màu vàng sáng, Vỏ quả dày, hơi sần. Thời gian ra hoa tập trung từ 5/2 – 15/2. Đậu quả từ 5/4 – 10/4. Quả cho thu hoạch từ 25/8 – 10/9. Cây 5 – 6 tuổi cho năng suất trung bình 30 – 35kg/cây. Trọng lượng trung bình 75 quả/kg. Tỷ lệ phần ăn được là 68,0%. Thịt quả dày, màu trắng đục, hơi dai, ngọt thơm. Hàm lượng đường tổng số 14,5%. Acid tổng số 0,13%. Vitamin C 54,23 mg%. Chất khô 20,15%. Độ brix 20,2%.

5. Giống nhãn chín sớm PHS2

Được tuyển chọn từ cây gieo hạt tại tỉnh Hưng Yên, được Bộ NN-PTNT công nhận, cho sản xuất thử từ năm 2016.

Đặc điểm chính: Cây sinh trưởng, phát triển khỏe, góc phân cành hẹp, mỗi năm ra từ 3 – 4 đợt lộc. Lá hình elip, màu xanh đậm, bóng, chóp lá nhọn. Chùm hoa dạng hình tháp, dài 24 – 25 cm. Thời gian ra hoa từ 5/2 – 10/2, hoa nở từ 5 – 15/3. Quả cho thu hoạch tập trung từ 15 – 25/7. Năng suất trung bình đạt 30kg/cây. Quả dạng tròn, cân đối. Vỏ quả mỏng nhẵn, khi chín chuyển màu nâu sáng. Khối lượng trung bình 85 quả/kg. Cùi màu trắng trong, vị ngọt, thơm, giòn, ráo nước, rễ tách khỏi hạt. Tỷ lệ phần ăn được (cùi) là 66%. Độ brix 21,1%. Hàm lượng đường tổng số 14,5%. Vitamin C 51,5 mg%.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cảnh báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (từ 6-12/3)

Các tỉnh phía Bắc: Ốc bươu vàng, tuyến trùng, bệnh đạo ôn lá, bọ trĩ gây hại tăng. Bọ xít đen, bệnh nghẹt rễ, chuột tiếp tục gây hại. Rầy nâu, rầy lưng trắng

1. Trên lúa

Các tỉnh phía Bắc: Ốc bươu vàng, tuyến trùng, bệnh đạo ôn lá, bọ trĩ gây hại tăng. Bọ xít đen, bệnh nghẹt rễ, chuột tiếp tục gây hại. Rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu đục thân 2 chấm, sâu cuốn lá nhỏ gây hại với mật độ, tỷ lệ hại thấp.

Các tỉnh Bắc Trung Bộ: Bệnh đạo ôn lá tiếp tục phát sinh gây hại tăng nhanh trên diện rộng. Chuột hại tăng trên lúa trà sớm ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, lúa trà muộn mới gieo. Ốc bươu vàng hại tăng trên lúa mới gieo cấy, hại nặng trên những ruộng gần ao hồ, sông suối, khu đồng trũng ngập nước thường xuyên. Tuyến trùng rễ, bọ trĩ có khả năng gây hại tăng trên các chân ruộng thiếu nước.

Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Bệnh đạo ôn lá, bệnh đạo ôn cổ bông, rầy nâu, rầy lưng trắng gia tăng gây hại trên lúa trà sớm giai đoạn đòng trỗ – chắc xanh. Bệnh đạo ôn lá, sâu cuốn lá nhỏ phát sinh và gây hại tăng. Sâu đục thân, sâu keo, bọ trĩ, dòi đục nõn gây hại rải rác trên lúa ở giai đoạn đẻ nhánh. Bệnh bạc lá hại cục bộ ở Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Chuột hại diện rộng trên các trà lúa ĐX giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trỗ.

Các tỉnh Đông Nam bộ và ĐBSCL: Rầy nâu hại nhẹ đến trung bình, cục bộ hại nặng. Bệnh đạo ôn lá có thể sẽ xuất hiện trên lúa HT sớm 2018 giai đoạn đẻ nhánh ở mức độ nhẹ đến trung bình; Bệnh đạo ôn cổ bông vẫn còn phát triển và gây hại trên các trà lúa trỗ. Sâu năn gây hại trên các giống lúa Jasmin85, OM4900, Đài thơm 8, OM 7347, OM 6162, OM 6976, OM 5451… Nơi gieo sạ lúa HT phải đảm bảo thời gian giãn vụ, cày ải, phơi đất ngay sau khi thu hoạch lúa ĐX 2017-2018 tối thiểu là 15 ngày. Lưu ý bệnh bạc lá, sâu cuốn lá nhỏ, chuột gây hại trên lúa ở giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trỗ; chuột gây hại trên lúa ở giai đoạn trỗ đến chín.

2. Trên cây trồng khác

– Cây nhãn: Bệnh chổi rồng nhãn tiếp tục gây hại.

– Cây thanh long: Bệnh đốm nâu, ốc sên tiếp tục gây hại.

– Cây có múi: Bệnh greening tiếp tục gây hại.

– Cây hồ tiêu: Tuyến trùng hại rễ và bệnh chết nhanh, chết chậm tiếp tục gây hại.

– Cây điều: Bọ xít muỗi và bệnh thán thư tiếp tục gây hại.

– Cây dừa: Bọ cánh cứng và bọ vòi voi tiếp tục gây hại.

– Cây cà phê: Bệnh khô cành, bệnh gỉ sắt tiếp tục gây hại.

– Cây sắn: Bệnh khảm lá virus tiếp tục hại.

Khuyến cáo

Trên lúa:

+ Để phòng trừ rầy nâu gây hại, sử dụng Applaud 25WP – Giải pháp trừ rầy nâu môi giới truyền bệnh VL-LXL (700g/ha), hoặc sử dụng Wellof 3GR (12-15kg/ha).

+ Đối với sâu cuốn lá nhỏ sử dụng Opulent 150SC (6ml/bình 16 lít, phun 2,5 – 3 bình/1.000 m2) hoặc Wellof 330EC (0,8-1 lít/ha, pha 40-50ml/bình 16 lít nước).

+ Để trừ sâu đục thân, sử dụng Nurelle D 25/2.5EC (1-1,5 lít/ha), phun sau khi bướm nở rộ 5-7 ngày.

+ Để phòng trừ đạo ôn, sử dụng BEAM 75WP – “Cắt ngay cháy lá” (250g/ha).

+ Sử dụng Bonny 4SL (0,75 lít/ha, 30 ml /bình 16 lít nước), lượng nước phun 400 lít/ha.

+ Sử dụng Aviso 350SC (0,35 lít/ha, 14ml thuốc/bình 16 lít nước) để phòng trừ bệnh lem lép hạt.

+ Phối hợp BEAM 75WP (250g/ha) + Bonny 4SL (500ml/ha) + Aviso 350SC (0,35 lít/ha) để phòng trừ bệnh đạo ôn, bạc lá do vi khuẩn và lem lép hạt cùng lúc tấn công cây lúa.

+ Sử dụng Pulsor 23DC (0,22-0,33 lít/ha), Catcat 250EC, Vali 5SL phun khi bệnh vết bệnh khô vằn (trên lúa, ngô) lúc mới xuất hiện.

+ Để kích thích cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, tránh nghẹn đòng khi trổ, dùng Dekamon 22.43L (6ml/bình 16 lít nước), phun lên lá, bông 10-15 ngày sau sạ, 40-45 ngày sau sạ và sau khi trổ đều.

Cây rau:

+ Sử dụng Foliar Blend (50ml/16 lít nước) để cung cấp dinh dưỡng vi lượng dễ hấp thụ cho cây trồng.

+ Sử dụng Gekko 20SC với hoạt chất Amisulbrom 200g/l, liều dùng 12-20ml/bình 16 lít nước để phòng trừ bệnh sương mai, giả sương mai trên dưa leo, cà chua.

Cây ngô (bắp):

+ Sử dụng Maxer 660SC (1,25 – 2,5 lít/ha) trừ cỏ giai đoạn 7-20 ngày với ruộng ngô (bắp) biến đổi gen.

Cây tiêu:

+ Đối với bệnh chết nhanh, chết chậm trên tiêu, khuyến cáo phòng bệnh định kỳ. Kết hợp phun phủ trụ Manozeb 80WP (1kg/phuy 200 lít nước) + Bonny 4SL (250ml/phuy 200 lít nước), phun 4-6 lít nước/gốc và kết hợp rải Wellof 3GR (20-25g/gốc) trừ rệp sáp gốc và rễ.

+ Để trừ tốt nấm Phytophthora (nguyên nhân gây ra bệnh chết nhanh cây tiêu), dùng Gekko 20SC – Chứa hoạt chất Amisulbrom (sử dụng 200ml thuốc/200 lít nước), tưới 4-6 lít/gốc để tiêu diệt mầm bệnh.

Cà phê:

+ Phòng bệnh thán thư (khô cành, quả) sử dụng Manozeb 80WP (80g/bình 16 lít nước) kết hợp Aviso (20ml/bình 16 lít nước) để phòng và trị bệnh.

Nguồn: Cục BVTV được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Bón phân đúng cách, lợi nhuận trồng Ớt thấy rõ

Ít được nhắc đến như nhiều loại cây trọng điểm khác, nhưng cây ớt dần được nông dân lựa chọn. Cây ớt cho lợi nhuận khá nếu biết áp dụng đúng kỹ thuật gieo trồng cũng như chăm sóc bằng dòng phân bón thích hợp.

Nhánh ớt được thu hoạch từ mô hình tại ruộng ớt của anh Tâm

Bà con ở ấp 3 xã An Phong, huyện Thanh Bình, Đồng Tháp vui tươi rộn ràng bởi chương trình trình diễn phân bón trên cây ớt của Đạm Cà Mau đến giai đoạn tổng kết, thu hoạch. Nếu như tập quán canh tác cũ cho lợi nhuận bấp bênh thì dịp này, bà con được sử dụng công thức bón mới mang lại hiệu quả cao, ổn định mà chi phí thấp bằng việc sử dụng trọn bộ phân bón dinh dưỡng Đạm Cà Mau, trong đó có loại cao cấp NHumate + TE Cà Mau.

Vào mùa con nước rút trả lại phù sa màu mỡ là thời điểm tốt nhất cho cây ớt sinh trưởng phát triển. Trên cánh đồng thực nghiệm chia đôi, hai tập quán canh tác cùng hạt giống, thời điểm và kỹ thuật nhưng chăm sóc bằng dòng phân bón khác nhau đã cho kết quả hoàn toàn khác biệt.

“Gia đình tui canh tác nhiều năm nay nên nắm rõ đặc tính của cây ớt. Nhưng để SX đạt hiệu quả cao thì vẫn đang loay hoay. Đợt thực nghiệm tui bón đúng cách hướng dẫn của công ty và các kỹ sư Đạm Cà Mau cho bộ sản phẩm phân bón đã mở ra cách nhìn mới, phải thay đổi tập quán SX cũ, tiếp thu kỹ thuật mới thì mới giảm chi phí mà nhanh giàu”, chủ hộ Lê Chí Tâm, xã An Phong, huyện Thanh Bình chia sẻ.

4 công ruộng của anh Tâm được chia đôi, sau hơn 60 ngày trồng thực nghiệm, giữa tháng 1/2018, gia đình anh đã có thể thu hoạch rộ, chi phí giảm 8% lại cho lợi nhuận gấp rưỡi. Số trái ở ruộng trình diễn trung bình 85 trái/cây so với ruộng đối chứng là 77 trái/cây. Trên phần ruộng thực hiện mô hình, nếu phần ruộng đối chứng bón urea, DAP khác và NPK năng suất 2,1kg thì ruộng thực nghiệm dùng N.Humate chủ lực, kết hợp DAP, Kali Cà Mau theo giai đoạn bón cho năng suất đến 2,4 kg.

N.Humate Cà Mau hầu như đáp ứng đủ điều kiện phát triển của cây ớt, không chỉ giúp bộ rễ chùm phát triển nhanh mạnh, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng để ra hoa đều mà còn tăng số nhánh trên cây, phần nào quyết định đến số lượng trái.

Anh Lê Văn Chấn, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật Đồng Tháp phát biểu tổng kết mô hình

Với mô hình thực nghiệm này, anh Tâm tiết giảm tổng chi phí vật tư và nhân công, tính ra giá thành sản xuất chỉ 6.390 đ/kg ít hơn so với 7.775 đ/kg trước đây, trái ớt to, chắc mẩy bán được giá thu về lợi nhuận gần 321 triệu đồng/ha cao hơn so với 257 triệu đồng/ha vụ cũ.

Niềm vui được mùa xen lẫn niềm vui xuân mới, anh Tâm phấn khởi trước cánh đồng ớt rực đỏ như hồng thêm nét mặt của hy vọng. Anh tâm huyết chia sẻ với bà con tại hội thảo tổng kết mô hình trình diễn vừa rồi như vừa khoe thành tích lại vừa mong mỏi bà con áp dụng cách trồng từ những hướng dẫn này.

Từ đây, cả anh và bà con trong vùng có thể tin tưởng vào một hướng đi mới cho cây ớt quê nhà, thay đổi tập quán cũ, canh tác bằng kiến thức mới và thành tựu nông nghiệp hiện đại sẽ trúng mùa, lời đậm từ loài cây tưởng nhỏ bé như ớt.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chè VietGAP bên sườn Tam Đảo

Xã Mỹ Yên (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nằm bên sườn dãy Tam Đảo. Bao đời nay, người Mỹ Yên chỉ quen với cách làm chè truyền thống nên hiệu quả chưa cao.

Từ khi bắt tay vào xây dựng chứng nhận thương hiệu cho sản phẩm chè VietGAP, bà con đã định hình được hướng đi cho mình.

Xây dựng chứng nhận

Đầu năm 2015, Ban Quản lý SX chè huyện Đại Từ đã triển khai mô hình SX chè theo quy trình VietGAP trên diện tích 5ha với 28 hộ xã viên của Hợp tác xã SX chè an toàn Bắc Hà (xóm Bắc Hà 1 và Bắc Hà 2) tham gia.

Sản xuất chè theo quy trình VietGAP tại Mỹ Yên

Anh Lê Văn Hậu, cán bộ phụ trách mô hình cho biết, khó khăn lớn nhất khi triển khai mô hình là các hộ tham gia đang SX chè theo phương thức truyền thống, công nghệ chế biến lạc hậu, khu vực chế biến bừa bãi, trang thiết bị phục vụ cho SX và chế biến chè chưa đáp ứng được yêu cầu theo kỹ thuật mới. Các loại trang bị quần áo bảo hộ lao động, dụng cụ lao động và hóa chất chưa có nơi bảo quản riêng. Đặc biệt, bà con chưa có thói quen ghi chép sổ nhật ký nông hộ.

Sau khi được cán bộ Ban Quản lý chè huyện Đại Từ tập huấn cách trồng, chăm sóc, chế biến chè an toàn theo quy trình VietGAP và ghi chép sổ nhật ký nông hộ, bà con đã dần thích nghi và mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sau nhiều nỗ lực của các hộ tham gia mô hình, đến tháng 10/2016, Hợp tác xã đã được Trung tâm Kiểm định chất lượng giống và vật tư hàng hóa nông nghiệp tỉnh cấp cấp Giấy chứng nhận sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP TCCN (có giá trị 2 năm, diện tích 5 ha của 28 hộ dân).

Thuần thục

Ông Lê Tự Đức (xóm Bắc Hà 2, xã Mỹ Yên) nói làu làu, SX chè theo quy trình VietGAP (thực hành nông nghiệp tốt) là một chứng nhận giúp giám sát hoạt động SX, chế biến và kinh doanh chè bền vững, an toàn và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. Chứng nhận đem lại lợi ích cho người SX, thị trường và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái.

Thực tế cho thấy, dù năng suất chè búp tươi SX theo tiêu chuẩn VietGAP không cao hơn nhiều so với diện tích chè ngoài mô hình nhưng sản phẩm chè búp khô đã không còn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), đạt tiêu chuẩn theo quy trình của Bộ NN-PTNT quy định.

Bà con làm chè ở xóm Bắc Hà 1 và Bắc Hà 2 đã biết sử dụng thuốc BVTV đúng danh mục được phép sử dụng trên cây chè, đảm bảo theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc; đúng nồng độ và liều lượng; đúng lúc; đúng cách), ưu tiên sử dụng thuốc có nguồn gốc sinh học góp phần hạn chế nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; bảo đảm sức khỏe của người lao động, thu hoạch và xử lý sau thu hoạch; giữ cân bằng hệ sinh thái…

Ông Nguyễn Văn Dũng (xóm Bắc Hà 2) cho biết, nghĩ lại cách chăm sóc cây chè trước đây mà sợ. Ai đời lại phun thuốc trừ sâu theo định kỳ. Cách phun thì vô tội vạ, phun cộng 2 – 3 loại thuốc cùng một lúc, phun thuốc này chưa đạt thì phun thuốc khác. Cứ phun bao giờ không thấy sâu nữa mới thôi, bất luận thời điểm cách ly, kể cả chè sắp thu hái…

Thế rồi cách bón phân cũng kỳ lạ và thật thiếu hiểu biết, trong xóm, ngoài làng, mọi người cứ thấy trời mưa là mang phân ra vã vào gốc chè. Chăm sóc đã vậy, cách chế biến cũng đơn giản và lạc hậu. Chè mang về đưa vào vò rồi mang ra sao suốt, thế là xong. Bây giờ, giáo viên VietGAP đã về xóm, cùng ăn, cùng ở với dân để hướng dẫn chúng tôi chuyển đổi quy cách SX. Theo đó, các xã viên bây giờ chỉ phun thuốc trừ sâu khi thật cần thiết.

Việc phun phải thực hiện theo nguyên tắc “4 đúng”. Thuốc chọn phun phải là loại thuốc đã được cho phép sử dụng trên cây chè. Quá trình chế biến được chia nhỏ thành 4 công đoạn để chè tạo hương, đậm vị. Cụ thể, chè nguyên liệu hái về phải được làm héo trước khi đưa vào sao diệt men. Sau đó mới thực hiện vò tạo cánh. Quá trình sao cũng chia thành sao 2 và sao 3. Giữa 2 công đoạn sao, chè được đưa ra rải đều trên nong nia để lấy thêm hương.

Anh Lê Văn Hậu, cán bộ phụ trách mô hình cho biết, cái lợi lớn nhất là môi trường và sức khỏe của người dân được bảo vệ tốt hơn. Không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà số lần phun thuốc BVTV cho cây chè cũng giảm từ 1 đến 3 lần so với trước đây. Ý thức người dân về việc SX sản phẩm chè an toàn đã được nâng lên rõ rệt.

Đến nay, các hộ dân đã nắm chắc quy trình SX và chế biến chè theo tiêu chuẩn VietGAP, cũng như tiếp cận được quy trình SX hàng hoá chất lượng cao, biết được tính cấp thiết của vấn đề an toàn thực phẩm; đảm bảo sản phẩm SX ra đạt tiêu chuẩn chất lượng.

Bà Chu Thị Nhì (Chủ tịch UBND xã Mỹ Yên) cho hay, SX chè theo tiêu chuẩn VietGAP, chất lượng chè thành phẩm được nâng lên, hiệu quả kinh tế từ cây chè cũng tăng lên. Trước đây, vào chính vụ, mỗi kg chè búp không chỉ bán được với giá 120 nghìn đồng thì nay đã bán được với giá 150 thậm chí là 300 nghìn đồng.

Từ những thành công trên, xã Mỹ Yên đang vận động các hộ dân trong xã, đặc biệt là 5 xóm SX chè chuyên canh nhân rộng mô hình theo quy trình VietGAP, từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thận trọng khi đua nhau đầu tư trồng Dưa Lưới, tránh thiệt hại

Hai năm trở lại đây dưa lưới rất được thị trường Bình Phước ưa chuộng. Giá bán loại dưa này khá cao nên nhiều nông dân trong tỉnh đã đầu tư trồng. Tuy nhiên một số chuyên gia nông nông nghiệp khuyến cáo người dân nên tìm hiểu kỹ trước khi trồng nhằm tránh thiệt hại về sau.

Đồng vốn lớn, thu nhập tốt

Theo các chuyên gia nông nghiệp, một vụ dưa lưới từ lúc trồng đến khi thu hoạch 65 – 75 ngày, ước tính mỗi năm có thể trồng được 4 vụ. Trong đó, mùa khô trồng từ 2.500 – 2.700 cây/1.000m2; mùa mưa trồng từ 2.200 – 2.500 cây/1.000m2.

Ông Thọ chia sẻ kỹ thuật và chờ đợi một vụ dưa lưới có giá cao

Với thời gian và mật độ này, trọng lượng mỗi trái đạt từ 1,5 – 2kg, năng suất trên 3 tấn trái/1.000m2. Với giá bán hiện tại từ 30 – 35 ngàn đồng/kg, nông dân sẽ nhanh chóng lấy lại vốn đầu tư ban đầu. Từ thực tế đó, nhiều nông dân Bình Phước đã đầu tư trồng dưa lưới và bắt đầu có lời.

Thấy dưa lưới đem lại hiệu quả kinh tế nên đầu năm 2016, anh Lê Anh Đức ở ấp 5, xã Tân Quan, huyện Hớn Quản mạnh dạn vay vốn đầu tư trồng trên diện tích 600m2. Sau gần 3 tháng, vườn dưa cho thu hoạch hơn 2 tấn, thu 65 triệu đồng, lợi nhuận gần 40 triệu đồng. Thấy hiệu quả, anh Đức và anh trai tiếp tục mở rộng thêm 3.000m2 để trồng.

Theo anh Đức, nếu “vốn yếu” thì dừng nghĩ đến chuyện đầu tư trồng dưa lưới. Nhưng nếu đầu tư đủ vốn, áp dụng đúng kỹ thuật sản xuất, dưa lưới sẽ cho nông dân thu nhập cao hơn rau màu và các cây ăn trái khác.

Theo kinh nghiệm thực tiễn của các nhà vườn, để có vườn dưa lưới đạt năng suất cao, cho thu nhập ổn định thì nông dân phải bỏ ra số tiền rất lớn, từ 300 – 500 triệu đồng, thậm chí cả tỷ đồng cho 1.000m2 và sự tỷ mẩn trong sản xuất.

Chia sẻ về điều này, ông Nguyễn Hữu Thọ ở xã Thanh Phú, thị xã Bình Long cho biết: “Để trồng 6 sào dưa lưới gia đình tôi đã đầu tư gần 2 tỷ đồng làm hệ thống nhà màng, tưới nước tự động và giống. Tiền vốn ban đầu cao nhưng kỹ thuật chăm sóc lại quyết định việc thành – bại của quá trình đầu tư”.

Ông Thọ đã thu lời được 2 vụ dưa. Vụ này vườn cây đang trổ bong kết trái, ông và gia đình lại đón đợi một mùa bội thu.

Bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Bình Phước cho biết: Hiện trên địa bàn tỉnh có khoảng 8ha dưa lưới trồng trên giá thể và trên đất. Việc đầu tư trồng dưa lưới bước đầu rất khả quan, thị trường tiêu thụ tốt, mang lại thu nhập cho người trồng.

Cần thận trọng

Đại diện Công ty TNHH Nông sinh Khang Nguyên đến đầu tư vườn dưa lưới tại thị xã Đồng Xoài, ông Phạm Song Quyền, cán bộ phụ trách kỹ thuật chia sẻ: “Thị trường có nhiều thông tin thiếu chính xác về việc xuất khẩu dưa lưới khiến nhiều người đầu tư trồng ồ ạt. Đây là nguy cơ dẫn đến cung vượt cầu trong tương lai. Do đó, nếu chúng ta không kiểm soát tốt việc mở rộng diện tích và nếu giá thị trường giảm sâu thì người nông dân sẽ gánh chịu thiệt hại trước tiên”.

Các chuyên gia khuyến cáo nông dân phải tìm hiểu kỹ thuật và chủ động đầu ra cho dưa lưới

Dưa lưới mới du nhập vào Việt Nam vài năm nay nên một số nông dân chưa nắm vững kỹ thuật, đặc tính của cây. Mặt khác, một số hộ còn làm theo phong trào, dẫn đến gây khó khăn cho sản xuất và mua bán. Ông Quyền cho rằng, để có thị trường dưa lưới ổn định cần sự liên kết của “4 nhà” gồm nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nhà nông. Đồng thời, để tăng hiệu quả trên cùng diện tích đất thì người nông dân nên kết hợp trồng loại cây khác như rau, dưa leo…

Cũng theo bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hiện tại Trung tâm Khuyến nông Bình Phước đang xây dựng các mô hình điểm để chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, đồng thời kết nối doanh nghiệp để bao tiêu sản phẩm. Song trên thực tế dưa lưới đòi hỏi kỹ thuật cao, đồng vốn lớn, người nông dân cần cân nhắc kỹ khi đầu tư để làm chủ đầu ra cho sản phẩm của chính mình.

Bà Tuyết khuyến cáo, nông dân muốn đầu tư trồng dưa lưới nên liên hệ với Trung tâm Khuyến nông tỉnh để được hỗ trợ tốt nhất về mặt kỹ thuật.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.